Trong gần 6 năm (1954 - 1960) đấu tranh kiên
cường giữ gìn và xây dựng lực lượng cách mạng,
tiến tới Đồng Khởi, quân dân Cà Mau làm nên
huyền thoại anh hùng. Đối lập với các hoạt động
khủng bố, đàn áp khốc liệt từ chính quyền Diệm
là sự lãnh đạo, chỉ đạo đấu tranh sáng suốt, linh
hoạt cùng tinh thần đoàn kết, chiến đấu kiên
cường, bất khuất của quân dân Cà Mau. Lực
lượng cách mạng không những được củng cố,
bảo tồn mà còn được xây dựng và phát triển vững
mạnh đưa đến thắng lợi to lớn của phong trào
Đồng Khởi ở Cà Mau năm 1960. Trong quá trình
đấu tranh giữ gìn, xây dựng và phát triển lực
lượng cách mạng, quân dân Cà Mau đã có những
phương cách đấu tranh bảo tồn lực lượng rất
riêng, độc đáo và đã vận dụng sáng tạo phù hợp
với đặc điểm và lợi thế của địa phương. Những
“Đội dân canh chống cướp”, những lực lượng
giáo phái ly khai được Tỉnh ủy Cà Mau chủ động
khai thác, chỉ đạo đấu tranh, xây dựng và hoạt
động để “che mắt” chính quyền Diệm. Và những
“làng rừng” được dựng lên trở thành căn cứ địa
cách mạng quan trọng, nơi ươm mầm cho việc tái
xây dựng lực lượng vũ trang, chính trị để tiến tới
Đồng Khởi thắng lợi vang dội trong toàn Tỉnh.
Có thể khẳng định, cuộc Đồng Khởi diệu kỳ của
quân dân Cà Mau đã làm tan rã chính quyền
thống trị của địch ở cơ sở, góp phần cùng miền
Nam đẩy chế độ Mỹ - Diệm lâm vào tình trạng
khủng hoảng triền miên. Đồng thời thắng lợi to
lớn của phong trào Đồng Khởi ở Cà Mau mở ra
bước ngoặt quan trọng chuyển phong trào đấu
tranh cách mạng của Tỉnh phát triển sang trang
và tạo tiền đề tích cực cho những chiến công
oanh liệt hơn của quân dân đất Mũi anh hùng sau
này.
9 trang |
Chia sẻ: yendt2356 | Lượt xem: 472 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Quá trình đấu tranh giữ gìn và xây dựng lực lượng cách mạng, tiến tới đồng khởi ở Cà Mau (1954 - 1960), để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
An Giang University Journal of Science – 2017, Vol. 18 (6), 79 – 87
79
QUÁ TRÌNH ĐẤU TRANH GIỮ GÌN VÀ XÂY DỰNG LỰC LƯỢNG CÁCH MẠNG,
TIẾN TỚI ĐỒNG KHỞI Ở CÀ MAU (1954 - 1960)
Thái Văn Thơ1
1Trường Đại học Ngoại Thương, Cơ sở II Thành phố Hồ Chí Minh
Thông tin chung:
Ngày nhận bài: 29/05/2017
Ngày nhận kết quả bình duyệt:
20/06/2017
Ngày chấp nhận đăng: 12/2017
Title:
The process of struggling to
preserving and building
revolutionary forces toward
Dong Khoi movement in Ca
Mau (1954 - 1960)
Keywords:
Ca Mau, forces preserve,
forces building, Dong Khoi
Từ khóa:
Cà Mau, giữ gìn lực lượng,
xây dựng lực lượng, Đồng
Khởi
ABSTRACT
In the period 1954 - 1960, the U.S established and supported Ngo Dinh Diem’s
puppet government to repress the revolutionary forces and innocent people in
South Vietnam fiercely. Because of facing difficulties and challenges, many
people in the Southern Vietnam, including the people of Ca Mau province,
neither succumbed nor surrendered. The Provincial Party, the Provincial Party
Committee and people in Ca Mau struggled for preserving, building and
developing revolutionary forces towards the Dong Khoi movement throughout
the province in 1960 that led to the unsuccess of the U.S - Diem.
TÓM TẮT
Trong giai đoạn 1954 - 1960, Mỹ thiết lập và hỗ trợ chính quyền tay sai Ngô
Đình Diệm ra sức tiến hành đàn áp, khủng bố khốc liệt vào lực lượng cách
mạng và nhân dân vô tội ở miền Nam Việt Nam. Trước tình cảnh khó khăn, thử
thách đó nhiều nơi ở miền Nam trong đó có Cà Mau, nhân dân không chịu
khuất phục, đầu hàng. Đảng bộ, Tỉnh ủy cùng với quân dân Cà Mau đẩy mạnh
quá trình đấu tranh giữ gìn, xây dựng, phát triển lực lượng cách mạng và tiến
tới cao trào Đồng Khởi thắng lợi vang dội trong toàn tỉnh năm 1960, góp phần
đẩy chế độ Mỹ - Diệm lâm vào tình trạng khủng hoảng triền miên sau đó.
1. ĐẶT VẤN ĐỀ
Ngày 7/5/1954, chiến dịch Điện Biên Phủ kết
thúc, nhân dân Việt Nam đã làm nên chiến thắng
“lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu” và chấm
dứt quá trình 9 năm xâm lược trở lại của thực dân
Pháp ở Việt Nam. Hiệp định Genève được ký
kết, những tưởng chiến tranh lùi xa nhưng sau
khi người Pháp đại bại rút đi thì Mỹ lại chen chân
nhảy vào, với âm mưu muốn chia cắt và biến
miền Nam Việt Nam thành thuộc địa kiểu mới và
lệ thuộc vào Mỹ. Hiệp định Genève có hiệu lực,
chính quyền Mỹ với sự viện trợ không ngừng về
kinh tế, quân sự, cố vấn đã giúp chế độ tay sai
Ngô Đình Diệm thiết lập được một “chính phủ”
mới của “thế giới tự do” ở miền Nam làm đối
trọng với Bắc Việt. Từ cuối năm 1954, sau khi
lực lượng bộ đội tập kết ra Bắc theo quy định của
Hiệp định Genève, cách mạng miền Nam phải
đối mặt với nhiều khó khăn và hy sinh mất mát
chưa từng có trước sự đàn áp, khủng bố khốc liệt
từ chính quyền Mỹ - Diệm. Trước tình thế này,
nhiệm vụ cấp thiết đặt ra cho cách mạng miền
Nam nói chung và ở Cà Mau nói riêng là phải
làm sao vừa đấu tranh để thi hành Hiệp định
Genève vừa phải bảo tồn được lực lượng và
thành quả cách mạng. Thực tế lịch sử cho thấy,
Cà Mau đã giải quyết được cả hai vấn đề này một
cách rất sáng tạo, độc đáo và phù hợp với thực
tiễn cách mạng địa phương. Quân dân Cà Mau đã
vùng lên đấu tranh kiên cường, giữ gìn, xây dựng
An Giang University Journal of Science – 2017, Vol. 18 (6), 79 – 87
80
và phát triển lực lượng cách mạng vững mạnh,
tiến tới làm một cuộc quật khởi lớn - một Đồng
Khởi thắng lợi vang dội năm 1960 trong toàn
Tỉnh. Đó cũng là những vấn đề mà bài viết này sẽ
đi sâu phân tích và làm rõ.
2. QUÁ TRÌNH ĐẤU TRANH GIỮ GÌN VÀ
XÂY DỰNG LỰC LƯỢNG CÁCH
MẠNG, TIẾN TỚI ĐỒNG KHỞI Ở CÀ
MAU (1954 - 1960)
2.1 Tình hình ở Cà Mau sau Hiệp định
Genève
Theo quy định của Hiệp định Genève, Cà Mau là
vùng tập kết 200 ngày của lực lượng kháng chiến
miền Tây Nam Bộ. Chấp hành nghị quyết ngày
6/9/1954 của Bộ Chính trị Trung ương Đảng về
tình hình mới và nhiệm vụ mới của cách mạng,
Tỉnh ủy Cà Mau tiến hành tổ chức, sắp xếp lại
lực lượng, chuyển hướng đấu tranh từ vũ trang
sang chính trị cho phù hợp với thời kì mới. Đảng
bộ, Tỉnh ủy và quân dân Cà Mau cũng bắt đầu
xây dựng vùng giải phóng và vùng mới tiếp
quản. Trong 200 ngày tập kết, chính quyền cách
mạng làm nhiều việc có ích cho nhân dân như tu
sửa cầu đường cho dân thuận tiện đi lại, giữ vững
an ninh, trật tự xã hội, tiến hành đổi tiền cho dân
thuận lợi buôn bán trao đổi, xây dựng bầu không
khí hòa bình, vui vẻ, tạo niềm tin cho nhân dân
sinh sống chờ ngày tổng tuyển cử thống nhất.
Những cuộc mít tinh mừng hòa bình, chiến thắng
diễn ra trong toàn tỉnh với niềm vui phấn khởi vô
bờ. Nhưng niềm vui ấy lại sớm qua mau, ngày
8/2/1955 khi chuyến tàu cuối cùng rời bến vàm
sông Ông Đốc cũng là lúc nhân dân Cà Mau
bước vào một cuộc đấu tranh mới đầy cam go,
quyết liệt. Lực lượng tập kết vừa rút quân địch đã
“tiến hành lập hệ thống đồn bót dọc theo các
tuyến lộ xe, kênh xáng, sông lớn nhằm khống chế
các con đường giao thông huyết mạch. Chính
quyền Diệm tiến hành mua chuộc, lừa mị dân
chúng; xây dựng bộ máy cai trị từ tỉnh xuống tận
các xã, ấp; thành lập các tổ chức chính trị phản
động như “Tự vệ hương thôn”, “Thanh niên cộng
hòa”, “Phụ nữ đồng phục”, ráo riết bắt lính xây
dựng quân đội (cảnh vệ binh)” (Ban Chấp hành
Đảng bộ tỉnh Cà Mau, 2004, tr. 197 - 198).
Mặt khác, thông qua các “Chỉ dụ” được khoác
lên bằng những từ ngữ cầu kỳ, hoa mỹ nào là
“cải cách điền địa”, “chỉnh trang lãnh thổ”, hay
“cải thiện dân sinh” (Trần Văn Giàu, 2006, tr.
850), chính quyền Diệm tiến hành cướp đoạt
trắng trợn ruộng đất nhân dân mà cách mạng đã
cấp phát cho họ từ trước đó và phủ định sạch
thành quả to lớn của cách mạng đã đem lại cho
nhân dân. Chưa dừng lại đó, chính quyền Diệm
còn tiến hành đàn áp, khủng bố, bắt bớ, tù đày
những người trong gia đình có người đi tập kết
hoặc có liên quan, tình cảm với cách mạng. Địch
quân tiến hành phân loại gia đình, gây chia rẽ, ly
tán, nghi kỵ lẫn nhau trong nhân dân. Bầu không
khí khủng bố, đàn áp khốc liệt bao trùm lên toàn
vùng đất mũi Cà Mau - mảnh đất tận cùng của Tổ
quốc. Từ đây, cuộc sống thống khổ của nhân dân
đã bắt đầu và nổi đau khổ mà nhân dân phải gánh
chịu nhiều hơn trước bội lần. Nhưng trước tình
hình nguy cấp đó, Đảng bộ, Tỉnh ủy Cà Mau
cùng với nhân dân quyết tâm vùng lên chống lại
kẻ thù hung bạo và xúc tiến ngay quá trình đấu
tranh nhằm giữ gìn, củng cố lực lượng cách mạng
để ứng phó với tình cảnh nguy hiểm lúc bấy giờ.
2.2 Quân dân Cà Mau đấu tranh giữ gìn và
xây dựng lực lượng cách mạng (1955 -
1959)
Ngày 8/1/1955, Ngô Đình Diệm ban hành đạo
Dụ số 2 về cải cách điền địa, nhưng thực chất là
trắng trợn tước đi ruộng đất, thành quả của cách
mạng đã cấp phát cho nông dân trước đó. Dưới
sự lãnh đạo của Đảng ủy, Tỉnh ủy Cà Mau, ở các
huyện trong toàn Tỉnh từ huyện Ngọc Hiển, Thới
Bình, Trần Văn Thời, Cái Nước nông dân đấu
tranh, biểu tình, xé khế ước, bắt giữ những người
đo đạc đất đai của địch, tịch thu máy móc
Song song đó, chính quyền cách mạng còn tiến
hành cảnh cáo, giáo dục những tay sai, ác ôn
ngăn họ chống lại nhân dân. Theo sau Dụ số 2,
các Chỉ thị 57, 58 của chính quyền Ngô Đình
Diệm cũng được ban hành nhằm mục đích cướp
đoạt ruộng đất nông dân nhưng dưới sự chỉ đạo,
An Giang University Journal of Science – 2017, Vol. 18 (6), 79 – 87
81
lãnh đạo của Đảng bộ, Tỉnh ủy Cà Mau, nhân
dân đấu tranh làm vô hiệu hóa ít nhiều (Ban
Chấp hành Đảng bộ tỉnh Cà Mau, 2004, tr. 198 -
199).
Ngày 20/7/1955, chính quyền của Ngô Đình
Diệm phát động chiến dịch “tố cộng” trên diện
rộng. Các hoạt động lừa mị, mua chuộc, bắt bớ
của địch diễn ra hằng ngày trong Tỉnh. Song
song đó, địch quân còn tiến hành khủng bố tinh
thần những gia đình có người thân tập kết, hoặc
có cảm tình với cách mạng, bắt phải ly khai khỏi
Đảng, bầu không khí khủng bố tàn khốc bao trùm
trong toàn tỉnh Cà Mau. Địch quân ra sức phá
hoại tiến trình thực thi Hiệp định Genève. Trước
tình thế đó, Tỉnh ủy lãnh đạo nhân dân đấu tranh
với sách lược trước mắt là “có lý, có lợi với mức
độ để đảm bảo đấu tranh giành thắng lợi” (Ban
Chấp hành Đảng bộ tỉnh Cà Mau, 2004, tr. 201).
Các cuộc đấu tranh của nhân dân chống chiến
dịch “tố cộng” của chính quyền Diệm diễn ra
mạnh mẽ trong Tỉnh. Phụ nữ trở thành một lực
lượng đấu tranh chính trị có tác dụng, ảnh hưởng
lớn nhằm đòi các quyền dân sinh, dân chủ và thi
hành Hiệp định Genève. Để bảo vệ một số cán
bộ, đảng viên hoạt động trong quần chúng và
tránh các đợt lùng sục bắt bớ của địch, nhân dân
trong Tỉnh thành lập ra các “Đội dân canh chống
cướp”, một tổ chức đấu tranh hợp pháp nhằm bảo
vệ, che chở cho cán bộ cách mạng khi bị địch bắt
hoặc khủng bố. Các “Đội dân canh chống cướp”
phát huy được hiệu quả tích cực và được xem
như là “sự tập dượt của quần chúng đặt nền móng
cho khởi nghĩa đồng loạt sau này” (Ban Chấp
hành Đảng bộ tỉnh Cà Mau, 2004, tr. 204). Đây
thật sự là một sáng tạo lớn của quân dân Cà Mau
trong quá trình đấu tranh giữ gìn lực lượng cách
mạng trước các đợt tấn công, khủng bố, đàn áp
của địch. Song song với hoạt động của các “Đội
dân canh chống cướp”, Tỉnh ủy cũng tiến hành
cài người của cách mạng vào các vị trí, đơn vị
của chính quyền địch ở cơ sở. Từ cuối năm 1955
đầu năm 1956, phần lớn người của cách mạng đã
vào nắm giữ các chức vụ trong chính quyền xã,
ấp của địch. Những năm tiếp sau đó, chính quyền
Diệm đưa hàng vạn đồng bào theo đạo Thiên
Chúa và di dân từ các tỉnh miền Trung vào Cà
Mau, với mục đích chính là “lợi dụng cấy dân
Công giáo xây dựng lực lượng chính trị làm hậu
thuẫn cho chính quyền ngụy, đẩy quần chúng
cách mạng ra khỏi vùng căn cứ để tiêu diệt cơ sở
cách mạng” (Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Cà
Mau, 2004, tr. 206). Chiến lược “tách dân” ra
khỏi lực lượng cách mạng đang ẩn trong dân
chúng của Diệm ít nhiều đã có tác dụng bước
đầu. Nhưng chính quyền cách mạng lãnh đạo
nhân dân đấu tranh không vào ở khu dinh điền,
các tổ vũ trang tuyên truyền thường xuyên vào
các khu dinh điền vận động, tuyên truyền đồng
bào bỏ khu về địa phương, quê quán sinh sống.
Tháng 8/1955, theo chủ trương của Xứ ủy Nam
Bộ, đồng chí Lê Duẩn giao nhiệm vụ cho các
Tỉnh ủy viên của tỉnh Cà Mau tổ chức, xây dựng
lực lượng vũ trang bí mật trong Tỉnh. Các lớp
học cho cán bộ quân sự trong Tỉnh được mở, đến
tháng 10/1955, cán bộ của các lớp học này thành
lập hai đại đội và được phân về địa phương xây
dựng các đơn vị và núp dưới danh “Đội bảo vệ
hòa bình”, với nhiệm vụ hỗ trợ cho phong trào
đấu tranh của địa phương. Ngày 20/7/1956, Tỉnh
ủy Cà Mau phát động một đợt đấu tranh chính trị
với quy mô rộng lớn trong toàn thị xã Cà Mau,
các đợt tuần hành, biểu tình của hàng ngàn đồng
bào từ các địa phương kéo đến dinh Tỉnh trưởng
đòi chính quyền Diệm hiệp thương tổng tuyển
cử, với khí thế dâng cao gây nên tiếng vang lớn
làm cho địch khiếp sợ.
Tháng 8/1956, bản “Đề cương cách mạng miền
Nam” do đồng chí Lê Duẩn soạn thảo ra đời,
trong đó xác định rõ con đường đấu tranh của
cách mạng miền Nam lúc bấy giờ là “đánh đổ
chính quyền độc tài, phát xít Mỹ - Diệm, thực
hiện một chính quyền liên hiệp dân chủ có tính
chất dân tộc độc lập, để giải phóng nhân dân
miền Nam ra khỏi ách đế quốc, phong kiến độc
tài phát xít Mỹ - Diệm” (Nhiều tác giả, 2010, tr.
402). Đầu năm 1956, chính quyền Diệm cơ bản
dẹp xong các lực lượng giáo phái chống đối ở
Tây Nam Bộ và rảnh tay quay sang tiêu diệt, đàn
áp lực lượng cách mạng. Trước tình hình đó, Xứ
ủy Nam Bộ đưa ra chủ trương đấu tranh lúc này
An Giang University Journal of Science – 2017, Vol. 18 (6), 79 – 87
82
là “tích cực xây dựng lực lượng vũ trang, tranh
thủ vận động cải tạo lực lượng “giáo phái” bị Mỹ
- Diệm đánh tan rã, đưa họ đứng vào hàng ngũ
cách mạng, lợi dụng danh nghĩa giáo phái ly khai
để diệt ác ôn” (Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Cà
Mau, 2004, tr. 210). Thực hiện chủ trương của
Xứ ủy, Tỉnh ủy Cà Mau tranh thủ được lực lượng
“tàn binh” của các giáo phái bị chính quyền
Diệm đánh trôi dạt về Cà Mau trú ẩn như Trung
đoàn Lê Quang (Hòa Hảo) chạy dạt về xã Trí
Phải và được Huyện ủy Thới Bình chỉ đạo nhân
dân cưu mang, bao bọc, vận động giao nộp vũ
khí và đi theo cách mạng.
Cuối năm 1956, chính quyền Diệm tăng cường
chiến dịch “tố cộng, diệt cộng”, đánh phá ác liệt
vào các cơ sở cách mạng. Họ tiến hành thanh lọc
lại nội bộ, nhiều cơ sở nội tuyến của cách mạng
bị địch đánh bật ra, lực lượng cách mạng thiệt hại
nặng nề. Để ứng phó hiệu quả với những hành
động đàn áp, thanh trừng đó của địch, Tỉnh ủy
chuyển hướng hoạt động, điều các cán bộ bị địch
nhận diện sang vùng khác hoạt động, củng cố lại
lực lượng, cơ sở, đồng thời tiến hành tiêu diệt ác
ôn, tề điệp, hỗ trợ phong trào đấu tranh chính trị
của quần chúng. Công tác binh vận được Tỉnh ủy
chú trọng làm phân hóa hàng ngũ kẻ thù. Sau một
thời gian ngắn, các cơ sở, tổ chức Đảng được
phục hồi và lãnh đạo nhân dân đấu tranh chống
chế độ Mỹ - Diệm.
Đầu năm 1957, chính quyền Mỹ - Diệm cho tiến
hành xây dựng “biệt khu” Bình Hưng (Hải Yến),
nơi mà Bộ Chỉ huy xâm lược Mỹ gọi với một cái
tên mỹ miều là “biểu tượng của thế giới tự do”
(Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Cà Mau, 2004, tr.
214) nhưng thực chất đây là căn cứ quân sự, lò
sát sinh hàng trăm cán bộ, chiến sĩ cách mạng và
nhân dân vô tội ở Cà Mau. Sự thảm sát khốc liệt
liên tiếp sau đó của chính quyền Diệm tại đây đã
gây căm phẫn trong toàn Tỉnh. Tháng 7/1957,
chính quyền Diệm tăng cường một sư đoàn quân
chủ lực xuống Cà Mau hòng đàn áp, dập tắt
phong trào đấu tranh đang lên cao của nhân dân.
Chính sách “dinh điền” của chính quyền Ngô
Đình Diệm tại Cà Mau gây khó khăn cho cách
mạng. Việc cho tiến hành thành lập các khu dinh
điền là nhằm biến những nơi này thành “những
trại tập trung trá hình”, “những pháo đài tiễu
cộng, nơi tăng cường quân sự, bóc lột kinh tế và
đàn áp về chính trị” (Học viện Chính trị Quốc gia
Hồ Chí Minh, 2015, tr. 82) của chính quyền
Diệm. Có thể thấy, âm mưu “tách dân ra khỏi
Đảng” của chính quyền Diệm bước đầu phát huy
hiệu quả nhưng Tỉnh ủy Cà Mau đã tiến hành
một số biện pháp nhằm phá hoại chính sách dinh
điền của địch. Các tổ vũ trang tuyên truyền của
Tỉnh xâm nhập vào các khu dinh điền và vận
động đồng bào đấu tranh rời khỏi các khu dinh
điền của địch và bước đầu tạo được tác dụng tích
cực.
Từ cuối năm 1955 đầu năm 1957, chính quyền
Diệm liên tục khủng bố, tấn công đàn áp tiêu diệt
lực lượng cách mạng ở Cà Mau. Quân địch dùng
vũ lực, súng đạn bắn giết, bắt bớ, khủng bố lực
lượng cách mạng và nhân dân trong khi chính
quyền cách mạng lại chỉ đấu tranh hòa bình và
nghiêm chỉnh chấp hành những quy định của
Hiệp định Genève. Vì thế lực lượng cách mạng
bị thiệt hại nặng nề, tổn thất gần như hoàn toàn.
Tình thế cách mạng đòi hỏi phải tiến hành bạo
lực cách mạng, đấu tranh vũ trang mới có thể
kháng cự lại được khủng bố, đàn áp khốc liệt của
địch. Nhưng trong thời gian này chủ trương đấu
tranh chính trị, hòa bình là chủ đạo, việc dùng vũ
lực là không được phép. Trước tình cảnh sống
còn đó, ở nhiều địa phương của Nam Bộ trong đó
có Cà Mau xuất hiện những hình thức đấu tranh
rất độc đáo, sáng tạo, phù hợp với thế và lực
cũng như đặc điểm cách mạng của địa phương
nhằm giữ gìn, củng cố và phát triển lực lượng
cách mạng nhưng không trái với chủ trương đấu
tranh “bất vũ trang” của Trung ương Đảng và đến
tháng 1/1958, Tỉnh ủy Cà Mau cho thành lập các
lực lượng vũ trang bí mật. Các Tiểu đoàn Đinh
Tiên Hoàng và Ngô Văn Sở lần lượt ra đời và
hoạt động trên danh nghĩa “bộ đội giáo phái” tiến
hành các hoạt động vũ trang tuyên truyền, phối
hợp với các phong trào đấu tranh của quần chúng
nhân dân trong Tỉnh và đạt được những kết quả
quan trọng. Tiêu biểu như trận đánh chiếm đồn
Cái Tàu của Đại đội vũ trang Đinh Tiên Hoàng
An Giang University Journal of Science – 2017, Vol. 18 (6), 79 – 87
83
đã phá trại giam, giải thoát cho một số đồng bào
bị bắt giam giữ và đưa hàng trăm gia đình ra khỏi
khu tập trung của địch. Đây cũng là trận đánh
bằng lực lượng vũ trang đầu tiên trong Tỉnh.
Trong năm 1958, chính quyền Ngô Đình Diệm
liên tiếp thực hiện gom dân vào các khu dinh
điền, mở các cuộc càn quét khủng bố lực lượng
cách mạng. Bên cạnh đó, chính quyền Diệm còn
lập ra các đội “Bảo vệ hương thôn” nhằm mục
đích là “tranh thủ nhân tâm”, giành dân với chính
quyền cách mạng. Các hành động khủng bố man
rợ về tinh thần và thể xác từ chính quyền địch
đến các cán bộ, đảng viên cách mạng chẳng
những không làm cho quần chúng sợ hãi mà càng
làm tăng thêm tinh thần yêu nước, sự căm thù
dâng cao tới tột đỉnh trong dân chúng.
Là nơi có vị trí chiến lược đặc biệt quan trọng
của miền Tây Nam Bộ, Cà Mau trở thành trọng
điểm đánh phá và là nơi thiết lập các căn cứ trọng
yếu của địch. Cuối năm 1958, chính quyền Mỹ -
Diệm liên tục tấn công khủng bố dã man vào lực
lượng cách mạng và nhân dân vô tội. Mặc dù
không thể sống nổi dưới chính sách tàn bạo của
địch nhưng nhân dân và cán bộ chiến sĩ cách
mạng không khuất phục, đầu hàng. Để tránh địch
tiêu diệt, hàng ngàn quần chúng nhân dân bỏ làng
quê kéo nhau vào rừng U Minh và rừng đước tiến
hành lập các “làng rừng” sinh sống và hoạt động
cách mạng. Các “làng rừng” từ đó ra đời. Đến
năm 1959, “làng rừng” ngày càng mở rộng, hàng
ngàn thanh niên trốn địch bắt đi lính, người
chống đối chính quyền lánh vào các làng được
xây dựng trong rừng hoạt động cách mạng.
Trước thực tế đó, Tỉnh ủy Cà Mau quyết định
thành lập các “làng rừng” để bảo toàn và xây
dựng lực lượng cách mạng chờ đợi thời cơ nổi
dậy. Dưới sự lãnh đạo, tổ chức của Tỉnh ủy Cà
Mau có khoảng “15 làng rừng với khoảng 20
ngàn dân và nhiều làng rừng khác được lập nên ở
bên trong và ven rừng U Minh kéo dài xuống
phía Nam, Đông Nam rừng đước” (Ban Chấp
hành Đảng bộ tỉnh Cà Mau, 2004, tr. 224).
Các “làng rừng” được tổ chức chẳng khác mô
hình một chính quyền, một xã hội thu nhỏ nằm
ẩn khuất giữa rừng U Minh, rừng đước bạt ngàn.
“Làng rừng” được bố trí phòng vệ chặt chẽ, có
kiểm soát, canh gác, có Ban quản trị hoặc Ban tự
quản do chi bộ “làng rừng” lãnh đạo. Việc trồng
trọt, chăn nuôi, sản xuất diễn ra bình thường, các
hoạt động vui chơi, sinh hoạt văn nghệ, giải trí
diễn ra thường xuyên, cuộc sống yên vui, no ấm.
Đồng thời, “làng rừng” cũng trở thành nơi sản
xuất, rèn đúc vũ khí phục vụ cho cách mạng. Các
hoạt động vũ trang tuyên truyền của cán bộ cách
mạng phát huy được hiệu quả và phổ biến nhanh
đến toàn dân trong khu vực sinh sống các “làng
rừng”. Các “làng rừng” vẫn có liên hệ, trao đổi
với bên ngoài. Các làng cũ thường xuyên tiếp tế,
lương thực, nhu yếu phẩm vào bên trong. Mặc dù
địch thường xuyên đốt phá rừng, tiến hành tấn
công càn quét nhưng dưới sự lãnh đạo của Đảng
bộ, Tỉnh ủy Cà Mau và được sự che chở, bảo vệ
của nhân dân các tổ chức Đảng, các chi bộ, lực
lượng cách mạng được bảo tồn, giữ vững và ngày
càng phát triển, tạo tiền đề thuận lợi cho Đồng
Khởi sau này thắng lợi ở Cà Mau. Như vậy, đến
cuối năm 1958, ở Cà Mau xuất hiện “các hình
thức nổi dậy của quần chúng, tách hẳn khỏi chính
quyền địch, xây dựng một chính quyền nhân dân
tự quản, lập căn cứ chống giặc” (Bộ Tư lệnh
Quân khu 9, 1996, tr. 267), đó là các “làng rừng”
- một phương thức đấu tranh cách mạng vô cùng
sáng tạo, độc đáo của quân dân sông nước Cà
Mau anh hùng. Quân dân Cà Mau vô cùng phấn
khởi, tự hào như xây dựng được “những vùng đất
xã hội chủ nghĩa đầu tiên tại miền Nam khói lửa”
(Trần Văn Trà, 2005, tr. 355). Có thể nói, việc tổ
chức thành lập các “làng rừng” “là cách đánh
giặc độc đáo của nhân dân Cà Mau trong điều
kiện tay không đối đầu với bạo lực của địch.
“Làng rừng” kiên cường tồn tại và phát triển, là
hạt nhân cho phong trào nổi dậy của nhân dân
giành quyền làm chủ. “Làng rừng” không chỉ là
căn cứ địa cách mạng mà còn chứa đựng tư
tưởng tiến công lớn, là một hình thái tiến công và
nổi dậy của quân dân Cà Mau trong những ngày
trước Đồng Khởi” (Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh
Cà Mau, 2004, tr. 226).
Tháng 1/1959, Tỉnh ủy Cà Mau tiến hành các đợt
chỉnh huấn cho các tổ chức Đảng, chi bộ, đảng
An Giang University Journal of Science – 2017, Vol. 18 (6), 79 – 87
84
viên cũng như lực lượng vũ trang và ra “Hiệu
triệu” phát động nhân dân nổi dậy trừ gian diệt
ác. Lời Hiệu triệu phát đi có sức ảnh hưởng và
tác động mạnh mẽ làm lay động tinh thần quần
chúng nhân dân, chiến sĩ cách mạng quyết tâm
đứng lên tiêu diệt kẻ thù, những tay sai ác ôn
trong toàn Tỉnh. Những tháng tiếp sau đó, phong
trào đấu tranh của quần chúng lên cao. Các hoạt
động rải truyền đơn kêu gọi nhân dân và cả binh
lính địch diễn ra rầm rộ, các đợt biểu tình đã
được đông đảo nhân dân tham gia, khiến cho
địch quân trong Tỉnh hoang mang lo lắng. Cũng
trong tháng 1/1959, Hội nghị lần thứ 15 của Ban
Chấp hành Trung ương Đảng (khóa II) đã họp và
khẳng định phương hướng, nhiệm vụ của cách
mạng miền Nam là “dùng bạo lực cách mạng
chống lại bạo lực phản cách mạng, khởi nghĩa
giành chính quyền về tay nhân dân; kết hợp đấu
tranh chính trị và vũ trang để đưa phong trào tiến
lên” (Cao Văn Lượng - Phạm Quang Toàn -
Quỳnh Cư, 1981, tr. 57). Có thể nói, Nghị quyết
15 của Trung ương Đảng ra đời thổi vào một làn
gió mát xua tan cái oi bức, ngột ngạt của đất trời
miền Nam. Nghị quyết 15 đã “cởi trói” cho quân
dân miền Nam nói chung và Cà Mau nói riêng
cùng đứng lên chiến đấu bảo vệ, xây dựng và
phát triển lực lượng cách mạng, là sự “phản
kháng” lại chính sách khủng bố, đàn áp khốc liệt
của chính quyền Ngô Đình Diệm vào lực lượng
cách mạng và nhân dân đất Mũi Cà Mau.
Trước sự chống đối, phản kháng quyết liệt của
nhân dân, chính quyền Diệm lại càng khát máu
và hành động phát xít hơn khi ban hành Luật số
10/59 ngày 6/5/1959. Họ thẳng thừng tuyên bố
“đặt những người cộng sản ra ngoài vòng pháp
luật,” tiến hành bắt bớ, chém giết dã man lực
lượng cán bộ, chiến sĩ cách mạng và nhân dân vô
tội mà không qua xét xử, thẩm tra, miễn họ thấy
có dấu hiệu của sự “đe dọa” và “xâm phạm” đến
an ninh quốc gia với hai hình thức xử lý là “tử
hình” và “khổ sai chung thân” (Phông phủ Tổng
thống Đệ nhất Cộng hòa (1954 - 1963), Hồ sơ số:
6024, tr. 38 - 39). Với việc ban hành Luật 10/59
đã đưa chính quyền Ngô Đình Diệm lên đến đỉnh
cao của sự hủy diệt. Giữa năm 1959, khí thế cách
mạng đang dâng cao, cảnh tang tóc đau thương
phủ trùm khắp đất trời miền Nam, trong đó có Cà
Mau. Tỉnh ủy Cà Mau bám sát quần chúng, tổ
chức cho nhân dân đấu tranh chống khủng bố,
đàn áp của địch. Các hoạt động ám sát, thủ tiêu bí
mật một số tên gian ác, có nợ máu với nhân dân
được tiến hành trong Tỉnh và thu được kết quả
khả quan; hỗ trợ cho phong trào đấu tranh chính
trị của quần chúng nhân dân đạt hiệu quả, đồng
thời xúc tiến quá trình xây dựng và phát triển lực
lượng cách mạng vững mạnh trong Tỉnh.
Tháng 8/1959, Ban Thường vụ Tỉnh ủy Cà Mau
nhận được thông báo về tinh thần cơ bản của
Nghị quyết 15 của Trung ương Đảng là “cho nổi
dậy tiến công, dùng bạo lực cách mạng lật đổ chế
độ độc tài Ngô Đình Diệm” (Ban Chấp hành
Đảng bộ tỉnh Cà Mau, 2004, tr. 233). Kể từ khi
nhận được chủ trương “cho đánh”, “cho nổi dậy”
từ trên cả vùng đất Mũi Cà Mau - mảnh đất tận
cùng của Tổ quốc thêm hừng hực khí thế tiến
công quật khởi hơn bao giờ hết. Và cao trào
Đồng Khởi của quân dân Cà Mau thực sự bắt
đầu.
2.3 Đồng Khởi ở Cà Mau năm 1960
Cà Mau là một trong những địa phương có lực
lượng vũ trang phát triển mạnh nên phong trào
Đồng Khởi diễn ra có phần sớm hơn các tỉnh ở
miền Tây Nam Bộ. Trong đêm 25 rạng sáng
26/8/1959 dưới sự chỉ đạo của Tỉnh ủy, Huyện
ủy Trần Văn Thời tổ chức đánh đồn vàm Cái
Tàu. Dưới sự kết hợp tấn công giữa lực lượng vũ
trang với binh vận trong một thời gian ngắn, tiêu
diệt được “1 đại đội bảo an và nhiều tên phản
động ác ôn, bắt sống 12 tên, thu 57 súng và nhiều
đạn dược” (Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Cà
Mau, 2004, tr. 233). Trận đánh này là trận đánh
vũ trang đầu tiên giành thắng lợi có tác dụng cổ
vũ tinh thần chiến đấu và nổi dậy của toàn quân
dân trong Tỉnh sau đó. Tiếp sau Huyện ủy Trần
Văn Thời lần lượt tới Thới Bình, Cái Nước, Đầm
Dơi, Ngọc Hiển đều hưởng ứng lời “Hiệu triệu”
của Tỉnh ủy, phong trào nổi dậy mạnh mẽ và
đồng loạt trong các huyện và giành thắng lợi
An Giang University Journal of Science – 2017, Vol. 18 (6), 79 – 87
85
quan trọng như phá tan nhiều khu kìm kẹp của
địch, giải phóng được nhiều xã, ấp.
Giữa tháng 10/1959, Đảng bộ Tỉnh mở Hội nghị
phổ biến tinh thần Nghị quyết 15 của Trung ương
tại kênh Năm, xã Quách Văn Phẩm huyện Đầm
Dơi như tiếp thêm khí thế đấu tranh mạnh mẽ
cho toàn quân dân. Tỉnh ủy Cà Mau cũng chủ
trương sử dụng lực lượng “làng rừng” làm lực
lượng nòng cốt cho phong trào nổi dậy của nhân
dân trong Tỉnh. Với sự kết hợp và chiến đấu uyển
chuyển của lực lượng vũ trang tuyên truyền với
lực lượng chính trị và binh vận đã tạo ra sức
mạnh tổng hợp vô song đánh tan, phá rã và giải
phóng nhiều xã, ấp, làm lung lay chính quyền
Diệm ở địa phương.
Từ đầu năm 1960, phong trào Đồng Khởi ở Cà
Mau giành được những thắng lợi to lớn phần lớn
các xã, ấp trong Tỉnh được giải phóng, các tổ
chức như “Thanh niên cộng hòa”, “Tự vệ hương
thôn” (các tổ chức kìm kẹp nhân dân của chính
quyền Diệm) đều bị lực lượng cách mạng giải
tán. Các khu dinh điền, khu trù mật phần lớn bị
phá vỡ, nhân dân trở về quê cũ làng xưa tiếp tục
sinh sống và xây dựng cuộc sống mới. Các tổ
chức nhân dân tự quản được thành lập ở các xã,
ấp giải phóng nhằm thực thi quyền làm chủ của
nhân dân. Ngày 6/1/1960, Tỉnh ủy Cà Mau mở
Hội nghị quán triệt nội dung Nghị quyết 15 của
Trung ương Đảng cho các cán bộ chủ chốt của
Tỉnh nhằm phát huy và đẩy mạnh hơn nữa cao
trào nổi dậy của nhân dân trong toàn Tỉnh. Có thể
thấy, từ sau Hội nghị này, lực lượng cách mạng
của Tỉnh được tăng cường xây dựng, công tác
đào tạo cán bộ được chú trọng, các trường chính
trị trong Tỉnh được mở nhằm đào tạo nguồn cán
bộ phục vụ cho địa phương, các xưởng sản xuất,
chế tạo vũ khí cũng được thành lập nhằm cung
cấp đủ khí tài, vũ khí chiến đấu.
Trước sự nổi dậy và tấn công mạnh mẽ, kiên
cường của quân dân Cà Mau, chính quyền Ngô
Đình Diệm cho tăng cường lực lượng xuống càn
quét, đàn áp nhưng đều bị lực lượng cách mạng
phục kích tiêu diệt. Điển hình như ngày 6/3/1960,
một cánh quân của địch gồm một đại đội của
Tiểu đoàn Bác Ái, một tiểu đội bảo an địch đi
càn bị Tiểu đoàn Ngô Văn Sở tiêu diệt và bắt
sống 150 tên, thu 133 súng (Ban Chấp hành
Đảng bộ tỉnh Cà Mau, 2004, tr. 243). Ngày
29/3/1960, Đại đội Đinh Tiên Hoàng được sự hỗ
trợ của nhân dân tấn công vào khu dinh điền
Khánh Bình Đông, phá kho gạo địch, cấp phát
cho nhân dân và tuyên truyền vận động nhân dân
trong khu trở về làng cũ sinh sống. Tháng
3/1960, lực lượng vũ trang của Tỉnh phát triển
khi Tiểu đoàn U Minh được thành lập. Với
những hình thức đấu tranh phong phú, sáng tạo,
trong đó phổ biến là hình thức đấu tranh “quần
chúng vũ trang vũ khí thô sơ kết hợp với nội
tuyến chiếm trụ sở tề, lấy đồn, bao vây bứt rút và
bứt hàng đồn bót; có nơi lực lượng vũ trang tiến
công thẳng vào đồn bót, sau đó bố trí lực lượng
chống phản kích, hỗ trợ quần chúng vùng lên phá
các khu tập trung (trù mật, dinh điền), kéo về
làng ấp cũ nên đến cuối quý I năm 1960, nông
dân Cà Mau đã làm chủ hầu hết các vùng nông
thôn trong Tỉnh, phá tan 4 khu trù mật, 4 khu
dinh điền thắng lợi vượt quá yêu cầu” (Hội
đồng chỉ đạo biên soạn lịch sử Nam Bộ kháng
chiến, 2010, tr. 176).
Tháng 7/1960, Hội nghị Xứ ủy Nam Bộ đã họp
đánh giá tình hình cách mạng và đề ra chủ trương
đấu tranh phù hợp với tình hình mới. Tại Hội
nghị này, Xứ ủy đã chỉ thị cho các Tỉnh đồng loạt
nổi dậy vào tháng 9/1960, đây được xem là Đồng
Khởi đợt hai. Chưa cần đợi đến thời điểm Đồng
Khởi đợt hai, ngày 14/8/1960, các trận đánh tiêu
diệt tàu địch trên sông Cái Tàu được diễn ra và
giành thắng lợi. Các trận đánh chìm tàu địch trên
sông Cái Tàu góp phần cổ vũ và phát triển phong
trào tiêu diệt địch trên sông nước Cà Mau sau đó.
Tuy mới thành lập không lâu nhưng Tiểu đoàn U
Minh phát triển mạnh mẽ và trở thành lực lượng
nòng cốt cho phong trào Đồng Khởi đợt hai của
Tỉnh. Từ tháng 9 đến tháng 11/1960, các trận
đánh phục kích tiêu diệt địch của quân dân Cà
Mau liên tiếp diễn ra và thu được kết quả to lớn
như trận tiêu diệt chi khu quận sông Ông Đốc,
vây bắt tề, điệp ác ôn, san bằng đồn và trụ sở Hội
đồng xã Khánh Bình Tây, lực lượng vũ trang
An Giang University Journal of Science – 2017, Vol. 18 (6), 79 – 87
86
huyện Cái Nước tập kích và tiêu diệt đồn Giá
Ngựa. Cuối năm 1960, phần lớn các xã trong
toàn Tỉnh được giải phóng từ Tân Thành, An
Xuyên, Thạnh Phú đến Hòa Thành, Định
Thành Ngoài ra, các cuộc mít tinh, biểu tình,
rải truyền đơn nhằm tố cáo tội phản quốc, hại dân
của chính quyền Diệm từ các đồng bào, sư sãi
Khmer diễn ra rầm rộ và tạo được tiếng vang lớn.
Hơn một năm tiến hành Đồng Khởi, trong toàn
tỉnh Cà Mau đã “san bằng 62 đồn, thu 3.000
súng, giải phóng 55/56 xã, 500/550 ấp” (Ban
Chấp hành Đảng bộ tỉnh Cà Mau, 2004, tr. 247).
Lực lượng và cơ sở cách mạng của Tỉnh được
củng cố, xây dựng. Phong trào xã, ấp chiến đấu
được nhân rộng phát triển trong toàn Tỉnh. Có
thể nói, thắng lợi to lớn của phong trào Đồng
Khởi ở Cà Mau năm 1960 là sự tất yếu của quá
trình anh dũng đấu tranh giữ gìn lực lượng cách
mạng, là kết tinh của sự kiên cường, bất khuất và
cả sự hy sinh nhiều xương máu của quân dân Cà
Mau trong gần 6 năm chống lại đàn áp, khủng bố
dã man từ chính quyền Diệm. Đồng thời, thắng
lợi của Đồng Khởi ở Cà Mau cũng là sự minh
chứng sáng ngời nhất phương cách đấu tranh
đánh địch vô cùng linh loạt, sáng tạo và độc đáo
của quân dân trong Tỉnh. Từ những “làng rừng”
ẩn sâu giữa rừng U Minh bạt ngàn, bất thần xuất
hiện những đội quân “chân trần chí thép” đánh và
làm tan rã, lung lay từng mảng lớn chính quyền
cai trị của địch tại nông thôn và chính lực lượng
“thoát ẩn thoát hiện” ấy làm nên huyền thoại bất
tử trên quê hương đất Mũi anh hùng. Đó là chiến
thắng vang dội của quân dân Cà Mau trong cuộc
Đồng Khởi diệu kì năm 1960 trong toàn Tỉnh.
3. KẾT LUẬN
Trong gần 6 năm (1954 - 1960) đấu tranh kiên
cường giữ gìn và xây dựng lực lượng cách mạng,
tiến tới Đồng Khởi, quân dân Cà Mau làm nên
huyền thoại anh hùng. Đối lập với các hoạt động
khủng bố, đàn áp khốc liệt từ chính quyền Diệm
là sự lãnh đạo, chỉ đạo đấu tranh sáng suốt, linh
hoạt cùng tinh thần đoàn kết, chiến đấu kiên
cường, bất khuất của quân dân Cà Mau. Lực
lượng cách mạng không những được củng cố,
bảo tồn mà còn được xây dựng và phát triển vững
mạnh đưa đến thắng lợi to lớn của phong trào
Đồng Khởi ở Cà Mau năm 1960. Trong quá trình
đấu tranh giữ gìn, xây dựng và phát triển lực
lượng cách mạng, quân dân Cà Mau đã có những
phương cách đấu tranh bảo tồn lực lượng rất
riêng, độc đáo và đã vận dụng sáng tạo phù hợp
với đặc điểm và lợi thế của địa phương. Những
“Đội dân canh chống cướp”, những lực lượng
giáo phái ly khai được Tỉnh ủy Cà Mau chủ động
khai thác, chỉ đạo đấu tranh, xây dựng và hoạt
động để “che mắt” chính quyền Diệm. Và những
“làng rừng” được dựng lên trở thành căn cứ địa
cách mạng quan trọng, nơi ươm mầm cho việc tái
xây dựng lực lượng vũ trang, chính trị để tiến tới
Đồng Khởi thắng lợi vang dội trong toàn Tỉnh.
Có thể khẳng định, cuộc Đồng Khởi diệu kỳ của
quân dân Cà Mau đã làm tan rã chính quyền
thống trị của địch ở cơ sở, góp phần cùng miền
Nam đẩy chế độ Mỹ - Diệm lâm vào tình trạng
khủng hoảng triền miên. Đồng thời thắng lợi to
lớn của phong trào Đồng Khởi ở Cà Mau mở ra
bước ngoặt quan trọng chuyển phong trào đấu
tranh cách mạng của Tỉnh phát triển sang trang
và tạo tiền đề tích cực cho những chiến công
oanh liệt hơn của quân dân đất Mũi anh hùng sau
này.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Cà Mau. (2004).
Lịch sử Đảng bộ tỉnh Cà Mau, tập 1, (1930-
1975). Nhà xuất bản Mũi Cà Mau.
Bộ Tư lệnh Quân khu 9. (1996). Quân khu 9 - 30
năm kháng chiến (1945-1975). Hà Nội: Nhà
xuất bản Quân đội Nhân dân.
Cao Văn Lượng - Phạm Quang Toàn - Quỳnh
Cư. (1981). Tìm hiểu phong trào Đồng Khởi ở
miền Nam Việt Nam. Hà Nội: Nhà xuất bản
Khoa học Xã hội.
Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh.
(2015). Lịch sử Xứ ủy Nam Bộ và Trung ương
Cục miền Nam (1954-1975). Hà Nội: Nhà
xuất bản Chính trị Quốc gia - Sự thật.
An Giang University Journal of Science – 2017, Vol. 18 (6), 79 – 87
87
Hội đồng chỉ đạo biên soạn lịch sử Nam Bộ
kháng chiến. (2010). Lịch sử Nam Bộ kháng
chiến, tập 2, (1954-1975). Nhà xuất bản
Chính trị Quốc gia.
Nhiều tác giả. (2010). Phong trào Đồng Khởi 50
năm nhìn lại. Hà Nội: Nhà xuất bản Chính trị
Quốc gia.
Phông phủ Tổng thống Đệ nhất Cộng hòa. (1954-
1963). Hồ sơ ấn định Luật trừng phạt sự phá
họai, xâm phạm an ninh Quốc gia, xâm phạm
sinh mạng hay tài sản của nhân dân và thiết
lập Tòa án Quân sự Đặc biệt năm 1956-1959.
Hồ sơ số: 6024. (Tư liệu lưu trữ của Việt Nam
Cộng hòa tại Trung tâm lưu trữ quốc gia II -
TP. Hồ Chí Minh).
Trần Văn Giàu. (2006). Tổng tập (Miền Nam giữ
vững thành đồng, tập 1, (1954-1960). Nhà
xuất bản Quân đội Nhân dân.
Trần Văn Trà. (2005). Kết thúc cuộc chiến tranh
30 năm. Nhà xuất bản Quân đội Nhân dân.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 09_thai_van_tho_0_0422_2034790.pdf