Quá trình chuyển biến trong tư duy về chuyển nền Kinh tế chỉ huy sang nền kinh tế thị trường tại Việt Nam? Thị trường Việt Nam hiện nay đã phát triển đồng bộ chưa? Chứng minh?

(23 trang) Quá trình chuyển biến trong tư duy về chuyển nền Kinh tế chỉ huy sang nền kinh tế thị trường tại Việt Nam? Thị trường Việt Nam hiện nay đã phát triển đồng bộ chưa? Chứng minh? 1.Bối cảnh ra đời và quan điểm hình thành đường lối đổi mới của Đảng ta a. Bối cảnh ra đời b. Quá trình hình thành và phát triển đường lối đổi mới 2.Quá trình chuyển biến trong tư duy về chuyển nền Kinh tế chỉ huy sang Kinh tế thị trường 2. 1. Các bước chuyển đổi trong quá trình tư duy c. Quá trình chuyển đổi tư duy quản lý vĩ mô d. Quá trình chuyển đổi tư duy trong Quan điểm Đổi Mới về kinh tế đã được hoàn thiện dần trong quá trình thực hiện. 2.2 Các biển hiện của quá trình chuyển đổi tư duy trên phương diện chính sách vĩ mô * Cơ cấu chung: * Chính sách thuế * Chính sách tín dụng * Chính sách đất đai * Chính sách thương mại * Chính sách lao động 3. Thị trường Việt Nam hiện nay đã phát triển đồng bộ chưa? a. Quan niệm về phát triển thị trường đồng bộ: b. Thị trường Việt Nam hiện nay đã phát triển đồng bộ chưa?

doc23 trang | Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 2893 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Quá trình chuyển biến trong tư duy về chuyển nền Kinh tế chỉ huy sang nền kinh tế thị trường tại Việt Nam? Thị trường Việt Nam hiện nay đã phát triển đồng bộ chưa? Chứng minh?, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
BÀI TẬP NHÓM Chủ đề: Quá trình chuyển biến trong tư duy về chuyển nền Kinh tế chỉ huy sang nền kinh tế thị trường tại Việt Nam? Thị trường Việt Nam hiện nay đã phát triển đồng bộ chưa? Chứng minh? Bối cảnh ra đời và quan điểm hình thành đường lối đổi mới của Đảng ta a. Bối cảnh ra đời ♦ Bối cảnh trong nước: Xây dựng XHCN ở Việt Nam được đánh dấu bằng cột mốc tại Đại Hội Đại Biểu toàn quốc lần thứ III của Đảng Lao Động Việt Nam (nay là Đảng Cộng Sản Việt Nam) họp vào tháng 9- 1960 khi Đại Hội khẳng định: Đưa miền Bắc Việt Nam đi theo con đường XHCN. Đường lối chung của cách mạng XHCN ở Việt Nam về cơ bản là không thay đổi qua 3 kỳ Đại hội III, IV, V, mặc dù qua mỗi Hội nghị Trung Ương và qua mỗi kỳ Đại hội nó đều được tiếp tục phát triển, hoàn thiện dần để phù hợp, một mặt, với hoàn cảnh cả nước có chiến tranh(1960-1975), mặt khác, với thực tiễn xây dựng CNXH trong 15 năm đầu (1960-1975) ở một nửa nước và hơn 10 năm tiếp theo (1975-1986) trên phạm vi cả nước. Trong suốt hơn 25 năm đó, cơ chế quản lý kinh tế ở nước ta cũng như các nước XHCN trên thế giới là cơ chế Kế hoạch hóa tập trung, chế độ sở hữu toàn dân và tập thể cùng nguyên tắc phân phối theo lao động ( mà trên thực tế là phân phối bình quân) là những đặc trưng cơ bản nhất, đóng vai trò chủ đạo nhất của mô hình CNXH trước đổi mới. Cần phải nói rằng việc thực hiện mô hình kinh tế kế hoạch hóa tập trung trong những năm chiến tranh, khi cần phải tập trung tất cả sức người, sức của cho tiền tuyến vói tinh thần “ Tất cả để đánh thắng giặc Mỹ xâm lược” đã có tác dụng tích cực không thể phủ nhận. Chính mô hình ấy đã đảm bảo cho miền Bắc hoàn thành sứ mệnh là hậu phương lớn của tiền tuyến lớn. Nếu không có hậu phương lớn ấy thì không thể có thắng lợ của sự nghiệp kháng chiến chống Mỹ cứu nước. Tuy nhiên, trong điều kiện hòa bình, những khiếm khuyết của mô hình này được bộc lộ ngày càng rõ. Cuộc cách mạng quan hệ sản xuất đã biến nền kinh tế nước ta thành nền kinh tế XHCN thuần nhất dựa trên hai hình thức sở hữu là sở hữu nhà nước và sở hữu tập thể. Chế độ công hữu về tư liệu sản xuất đã biến các tư liệu sản xuất chủ yếu của nền kinh tế quốc dân trở thành vô chủ, và được sử dụng hết sức bừa bãi, lãng phí, và biến người lao động trở thành những người làm thuê (làm thuê cho các doanh nghiệp nhà nước và các hợp tác xã); họ là lực lượng chủ yếu tạo ra của cải cho xã hội, nhưng lại không phải là chủ nhân của chúng. Mọi của cải làm ra đều được phân phối bình quân (người ta vẫn thường dùng cụm từ: chia đều sự nghèo khổ cho tất cả mọi người). Có thể nói, dường như trong mọi hoạt động của nền kinh tế, người lao động đều thờ ơ với công việc mình được đảm nhiệm. Nền kinh tế do đó không còn động lực phát triển. Với cơ chế kế hoạch hóa tập trung, mô hình CNXH trước đổi mới đã loại trừ mọi quan hệ hàng hóa – tiền tệ, thực hiện việc quản lý nền kinh tế bằng mệnh lệnh hành chính là chủ yếu, với hệ thống chỉ tiêu pháp lệnh chi tiết từ trên giao xuống, theo đó nhà nước quy định chặt chẽ mọi khâu của quá trình sản xuất, lưu thông. Từ sản xuất cái gì, sản xuất bao nhiêu đến bán cho ai, bán theo giá nào… Các cơ sở sản xuất chỉ còn biết làm theo mệnh lệnh trên, nhận cấp phát ở đầu vào, giao nộp sản phẩm ở đầu ra, không cần biết và càng không cần tính toán đến lỗ lãi… Từ người lao động đến các cơ sở sản xuất kinh doanh chỉ làm việc một cách thụ động. Vì vậy, nền kinh tế vận động một cách thiếu năng động, kém hiệu quả. Bên cạnh những khiếm khuyết của mô hình kinh tế kế hoạch hóa tập trung, chúng ta còn có những sai lầm, chủ quan, nóng vội trong đường lối, muốn bỏ qua những bước đi cần thiết, Việt Nam đã chủ trương đẩy mạnh công nghiệp hóa trong khi chưa có đủ tiền đề cần thiết, thiên về xây dựng công nghiệp nặng và những công trình quy mô lớn, coi nhẹ công nghiệp sản xuất tiêu dùng, kể cả tiểu thủ công nghiệp và công nghiệp nhẹ. Hậu quả là đầu tư nhiều nhưng hiệu quả rất thấp. Chính vì vậy mà sản xuất ngày càng giảm sút, đất nước rơi vào tình trạng thiếu hụt kinh niên. Đời sống nhân dân ngày càng khó khăn. Các căng thẳng xã hội do vậy đã xuất hiện và ngày càng gia tăng. ♦ Bối cảnh thế giới: Từ cuối thập kỷ 70, đầu thập kỷ 80 của thế kỷ XX, trên thế giới đã diễn ra những biến đổi to lớn. Trước âm mưu “diễn biến hòa bình” của chủ nghĩa đế quốc, trước tác động mạnh mẽ của cuộc cách mạng khóa học-công nghệ, xu hướng toàn cầu hóa kinh tế, chạy đua về kinh tế, cuộc đấu tranh giữa chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa tư bản có nhiều diễn biến phức tạp. Điều đó đã đặt hệ thống XHCN trước những thách thức mới. Việc vượt qua thách thức đó lại diễn ra trong bối cảnh hầu hết các nước XHCN lâm vào tình trạng khủng hoảng kinh tế-xã hội trầm trọng. Trong khi đó các nước tư bản chủ nghĩa tuy cũng phải đối phó với những nguy cơ mới, nhưng do có sự điều chỉnh cần thiết, đặc biệt là đã sử dụng được những thành quả của cuộc cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại, nên đã vượt qua được khó khăn, kinh tế có bước tăng trưởng đáng kể. Để thoát khỏi tình trạng khủng hoảng, Trung Quốc thực hiện cải cách, mở cửa từ 1978; Liên Xô và các nước XHCN ở Đông Âu tiến hành cải tổ, cải cách. Trong khi Trung Quốc có sự vương lên mạnh mẽ và đạt được nhiều thành tựu đáng kể, thì những sai lầm về đường lối và cách làm đã khiến công cuộc cải tổ, cải cách ở Liên Xô và các nước XHCN Đông Âu ngày càng khó khăn, sự khủng hoảng toàn diện dần dần xuất hiện ở các nước này. Như vậy, tình hình kinh tế trong nước và bối cảnh thế giới với những công cuộc cải cách, cải tổ ở các nước XHCN đã có nhiều tác động sâu sắc đến nước ta. Để đưa nước ta ra khỏi tình trạng đó, vấn đề có ý nghĩa quyết định là phải đổi mới mạnh mẽ, cơ bản cách nghĩ, cách làm. b. Quá trình hình thành và phát triển đường lối đổi mới Cuối những năm 70, ở một số địa phương ở nước ta đã bắt đầu có những tìm tòi, thử nghiệm cách làm ăn mới. Có thể lấy ví dụ như chế độ khoán hộ trong nông nghiệp do ông Kim Ngọc, Bí thư tỉnh ủy Vĩnh Phúc đưa ra thực hiện với cách làm khoán trực tiếp, giao ruộng cho người lao động. Hợp tác xã chỉ cung cấp giống, kỹ thuật, phân bón, thuốc trừ sâu và đến vụ thu hoạch thì người nông dân chia lại một phần lúa cho hợp tác xã từ sản lượng lúa mà họ thu hoạch được. Hạt lúa đã gắn với công sức và quyền lợi của người nông dân, do đó, năng suất lúa tăng lên đáng kể. …. Còn rất nhiều những hiện tượng “làm chui’, “Phá rào” trong sản xuất nông nghiệp, công nghiệp thời kỳ này là những cố gắng tìm kiếm cách làm ăn mới vượt ngoài khuôn khổ của cơ chế, chính sách lúc bấy giờ, mong tìm lối thoát ra khỏi những khó khăn gay gắt trong cuộc sống. Kết quả của những đổi mới “từ bên dưới” đó đã tạo cơ sở cho sự đổi mới từng phần với các quyết định từ bên trên. Bước đột phá đầu tiên của quá trình đổi mới ở nước ta: Hội nghị Trung ương 6 khóa IV (tháng 8-1979) với chủ trương quyết tâm làm cho sản xuất “bung ra”. Hội nghị đã tập trung vào những biện pháp nhằm khắc phục những yếu kém trong quản lý kinh tế và cải tạo XHCN; điều chỉnh những chủ trương, chính sách kinh tế lỗi thời, phá bỏ rào cản, mở đường cho sản xuất phát triển; ổn định nghĩa vụ lương thực trong 5 năm, phần dôi ra được bán cho Nhà nước hoặc lưu thông tự do khuyến khích mọi người tận dụng ao hồ, ruộng đất hoang hóa; đẩy mạnh chăn nuôi gia súc dưới mọi hình thức( quốc doanh, tập thể, gia đình); sửa lại thuế lương thực, giá lương thực để khuyến khích sản xuất; sửa lại chế độ phân phối trong nội bộ hợp tác xã nông nghiệp, bỏ lối phân phối theo định suất, định lượng để khuyến khích tính tích cực của người lao động,… Trọng tâm là đẩy mạnh sản xuất nông nghiệp, lâm nghiệp, ngư nghiệp, hàng tiêu dùng và xuất khẩu, điều chỉnh một số chính sách không còn phù hợp; cải tiến các chính sách lưu thông, phân phối(giá, lương, tiền, tài chính, ngân hàng); đổi mới công tác kế hoạch hóa, kết hợp kế hoạch với thị trường; kết hợp ba lợi ích: Nhà nước, tập thể, cá nhân người lao động. Chấn chỉnh công tác tổ chức và chỉ đaoh thực hiện. Chỉ thị 100-CT/TW, ngày 13-1-1981 của Ban Bí thư TW về công nhận một phần khoán hộ đã phát huy quyền làm chủ và tính tích cực trong sản xuất của mỗi người, mỗi gia đình, khuyến khích hơn nữa lợi ích thiết thực của người lao động, làm cho người lao động thực sự gắn bó với sản phẩm cuối cùng, do đó mà đem hết nhiệt tình lao động và khả năng ra sản xuất. “Khoán 100” đã bước đầu tạo ra một động lực mới trong sản xuất nông nghiệp. Quyết định 25/CP ngày 21-1-1981 của Chính phủ cùng với quyết định 26/CP về việc mở rộng hình thức trả lương khoán, lương sản phẩm và vận dụng hình thức tiền thưởng trong các đơn vị sản xuất kinh doanh được áp dụng. Có thể nhìn nhận những ý tưởng đột phá về kinh tế được thể hiện trong Nghị quyết Hội nghị TW 6 khóa IV, trong chỉ thị 100-CT/TW của ban bí thư và trong các quyết định của chính phủ thời kỳ này như sau: -Đó là những ý tưởng ban đầu, uy còn sơ khai, chưa cơ bản và toàn diện nhưng là bước mở đầu có ý nghĩa quan trọng. -Tư tưởng nổi bật trong những tìm tòi đó là “giải phóng lực lượng sản xuất” trên cơ sở khắc phục những khuyết điểm trong quản lý kinh tế, trong cải tạo xã hội chủ nghĩa, tạo ra động lực cho sản xuất: chú ý kết hợp các lợi ích, quan tâm hơn lợi ích thiết thân của người lao động. -Tác dụng thực tiễn của những ý tưởng đổi mới ban đầu còn có nhiều hạn chế. Những thiếu sót trong chỉ đạo cải tạo XHCN, trong quản lý giá, trong chính sách tiền lương được thực hiện ở thời kỳ trước khi có những chủ trương đổi mới đó cho thấy rõ trong một thời gian dài, chúng ta đã quản lý kinh tế theo lối tập trung quan liêu, bao cấp, nặng nề về động viên chính trị hơn là tính toán hiệu quả kinh tế. Bước đột phá thứ hai: Hội nghị TW 8 khóa V (tháng 6-1985) đánh dấu bước đột phá thứ hai bằng chủ trương dứt khoát xóa bỏ cơ chế tập trung quan liêu, bao cấp, thực hiện cơ chế một giá; xóa bỏ chế độ cung cấp hiện vật theo giá thấp; chuyển mọi hoạt động sản xuất kinh doanh sang cơ chế hạch toán kinh doanh xã hội chủ nghĩa; chuyển ngân hàng sang nguyên tắc kinh doanh. Điểm quan trọng là Hội nghị này đã thừa nhận sản xuất hàng hóa và những quy luật của sản xuất hàng hóa. Bước đột phá thứ ba: Tháng 8 – 1986, trong quá trình chuẩn bị dự thảo Báo cáo chính trị trình Đại hội VI, Bộ Chính Trị đã xem xét kyc ba vấn đề lớn, mang tính bao trùm trên lĩnh vực kinh tế, từ đó đưa ra kết luận đối với một số vấn đề thuộc về quan điểm kinh tế: -Trong bố trí cơ cấu kinh tế, cơ cấu đầu tư, phải lấy nông nghiệp làm mặt trận hàng đầu; ra sức phát triển công nghiệp nhẹ, công nghiệp nặng được phát triển có chọn lọc. -Trong cải tạo XHCN, xác định cơ cấu kinh tế nhiều thành phần là một đặc trưng của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta. -Trong cơ chế quản lý kinh tế, lấy kế hoạch làm trung tâm nhưng đồng thời phải sử dụng đúng quan hệ hàng hóa-tiền tệ, dứt khoát xóa bỏ cơ chế tập trung quan liêu, bao cấp; chính sách giá phải vận hành theo quy luật giá trị, tiến tới thực hiện cơ chế một giá. Đây là bước đột phá thứ ba, có ý nghĩa lơn trong đổi mới tư duy lý luận về CNXH, có vai trò định hướng cho việc soạn thảo lại một cách căn bản dự thảo báo cáo chính trị trình Đại Hội VI của Đảng. Nhìn một cách khái quát, những đổi mới nhận thức về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên CNXH ở nước ta trước Đại hội VI của Đảng là nhận thức đúng đắn hơn về tính khó khăn, phức tạp của con đường đi lên CNXH từ một nền kinh tế lạc hậu; sự cần thiết của sản xuất hàng hóa; sự cần thiết phải thay đổi cơ chế quản lý, xóa bỏ cơ chế tập trung quan liêu, bao cấp; thực hiện hạch toán kinh tế và kinh doanh xã hội chủ nghĩa; sự cần thiết phải tạo ra động lực mạnh mẽ cho người lao động,…Những tư tưởng đổi mới đó tuy mới mang tính chất từng mặt, từng bộ phận, chưa cơ bản và toàn diện, nhưng lại là những bước chuẩn bị quan trọng, tạo tiền đề cho bước phát triển nhảy vọt ở Đại hội VI Quá trình chuyển biến trong tư duy về chuyển nền Kinh tế chỉ huy sang Kinh tế thị trường 2. 1. Các bước chuyển đổi trong quá trình tư duy Nền kinh tế Việt Nam tiến hành xây dựng CNXH từ một điểm xuất phát rất thấp, từ một nền nông nghiệp lạc hậu, hệ thống chính trị kiểu cũ cũng chưa hoàn chỉnh nên không thể xác định được điểm xuất phát. Bên cạnh đó, Việt Nam bỏ qua giai đoạn phát triển TBCN và sự thống trị của thành phần kinh tế TBCN cùng với hậu quả nặng nề của chiến tranh trong nhiều năm làm cho cơ sở hạ tầng nền kinh tế càng tiêu điều. Về mặt lý luận, dựa trên quan điểm lực lượng sản xuất phải phù hợp với quan hệ sản xuất, cho thấy lực lượng sản xuất của Việt Nam chưa phát triển và thấp kém, trong khi quan hệ sản xuất thời kỳ trước Đổi Mới mang tính áp đặt chủ quan, duy ý chí, hoàn toàn không phù hợp với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất. Quá trình chuyển đổi tư duy quản lý vĩ mô Cụ thể là từ năm 1986, Việt Nam đã thực hiện công cuộc đổi mới toàn diện đất nước. So với công cuộc cải cách và chuyển đổi nền kinh tế kế hoạch tập trung sang nền kinh tế thị trường ở các quốc gia khác, đổi mới ở Việt Nam có những nét đặc thù khá riêng biệt nó diễn ra theo hai chiều: một là “từ dưới lên”, tức là từ các hợp tác xã, doanh nghiệp và hai là “từ trên xuống”, tức là các quyết định của Đảng và Nhà nước. Mối liên hệ hai chiều ấy đã làm cho công cuộc đổi mới ở Việt Nam diễn ra không có sự xung đột giữa “phía trên” và “phía dưới”, cũng như không có các “cú sốc” quá mạnh được tạo ra bởi các chính sách và biện pháp điều chỉnh vĩ mô quá cứng rắn và duy ý chí của bộ máy lãnh đạo “phía trên” và do đó, đổi mới đã dẫn đến những thành công đặc biệt là trên phương diện tư duy lý luận như sau: Thứ nhất là, chúng ta đã đạt được chuyển biến từ tư duy dựa trên mô hình kinh tế hiện vật với sự tuyệt đối hoá sở hữu nhà nước và tập thể với sự phát triển vượt trước của quan hệ sản xuất đối với lực lượng sản xuất sang tư duy mới là xây dựng nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo trong sự thống nhất biện chứng với tính đa dạng của các hình thức sở hữu và phân phối, lấy phân phối theo kết quả lao động và hiệu quả kinh tế là chủ yếu, đồng thời phân phối dựa trên mức đóng góp của các nguồn lực khác vào kết quả sản xuất – kinh doanh và phân phối thông qua phúc lợi xã hội nhằm thúc đẩy phát triển sản xuất. Thứ hai là, chúng ta đã đạt được chuyển biến từ tư duy quản lý kinh tế dựa trên mô hình kinh tế tập trung, kế hoạch hoá với cơ chế bao cấp và bình quân sang tư duy quản lý mới thích ứng với nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, vận động theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của nhà nước, theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Thứ ba là, chúng ta đổi mới tư duy về chính trị theo hướng xoá bỏ phương thức quản lý hành chính mệnh lệnh để thực hiện dân chủ hoá các lĩnh vực của đời sống xã hội, dân chủ gắn liền với tôn trọng pháp luật, pháp chế, kỷ cương xã hội, phát huy quyền làm chủ của nhân dân. Thứ tư là, Đảng ta quan niệm sự hình thành và phát triển của chủ nghĩa xã hội phải dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác-Lênin và điều kiện thực tiễn cụ thể. Thứ năm là, Đảng ta quan tâm đến các nhận thức mới về nhân tố con người, khắc phục những hạn chế và khiếm khuyết của nhận thức về xã hội chủ nghĩa có liên quan đến vấn đề con người đó là phải thừa nhận và bảo vệ lợi ích chính đáng của cá nhân, coi lợi ích cá nhân của người lao động là một trong những động lực trực tiếp thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội… Quá trình chuyển đổi tư duy trong Quan điểm Đổi Mới về kinh tế đã được hoàn thiện dần trong quá trình thực hiện. Ngày nay, Đổi Mới về kinh tế được Việt Nam định nghĩa là: Quá trình chuyển đổi từ nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung bao cấp sang nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, hoạt động theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước, theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Đổi Mới ở Việt Nam có 4 đặc điểm chính sau: - Đảng và Nhà nước cho rằng kinh tế thị trường là thành tựu chung của loài người, không mâu thuẫn với chủ nghĩa xã hội. Định hướng xã hội chủ nghĩa được hiểu là vẫn giữ vai trò chủ đạo của kinh tế Nhà nước trong nền kinh tế, vì theo quan điểm của chủ nghĩa Marx về chủ nghĩa xã hội thì mọi tư liệu sản xuất đều thuộc sở hữu toàn dân và Nhà nước xã hội chủ nghĩa là Nhà nước đại diện cho nhân dân Nhà nước chấp nhận sự tồn tại bình đẳng và hợp pháp của nhiều thành phần kinh tế (Đại hội đại biểu toàn quốc Đảng Cộng sản Việt Nam lần X quy định có 5 thành phần kinh tế: kinh tế Nhà nước, kinh tế tập thể, kinh tế tư bản tư nhân, kinh tế tư bản Nhà nước, kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài), nhiều hình thức sở hữu (sở hữu toàn dân, sở hữu tập thể, sở hữu tư nhân, sở hữu hỗn hợp). Tuy nhiên, kinh tế Nhà nước vẫn giữ vai trò chủ đạo. Nền kinh tế là nền kinh tế hỗn hợp có sự quản lý và điều tiết của Nhà nước nhằm khắc phục các khuyết tật thị trường và đảm bảo công bằng xã hội.. Nền kinh tế chuyển từ khép kín, tự cung tự cấp, sang mở cửa, hội nhập với kinh tế quốc tế. 2.2 Các biển hiện của quá trình chuyển đổi tư duy trên phương diện chính sách vĩ mô *  Cơ cấu chung:       - Về sở hữu, nền kinh tế  Việt Nam là hệ thống nhiều thành phần, trong đó kinh tế  nhà nước giữ  vị trí chủ đạo, đảm nhận chức năng dẫn dắt các thành phần khinh tế khác phát triển theo định hướng XHCN, KTTN phát triển bình đẳng với mọi thành phần kinh tế khác.          -  Nhà nước Việt Nam cho phép các thành phần kinh tế  đầu tư trên mọi vùng lãnh thổ  theo quy hoạch thống nhất của Nhà  nước.  Luật Khuyến khích đầu tư trong nước sửa  đổi (1998) đưa ra nhiều biện pháp hỗ trợ và ưu đãi mạnh mẽ các hoạt động đầu tư trong nước nhằm phát huy tôí đa nội lực của nền kinh tế, đặc biệt dành nhiều ưu đãi cho các dự án đầu tư vào những địa bàn khó khăn.       - KVTN không bị giới hạn lĩnh vực kinh doanh. Luật DN mới ban hành gần đây nhất cho phép mọi loại hình kinh tế, trong đó có KTTN, được đầu tư kinh doanh trong mọi ngành nghề, trừ lĩnh vực an ninh quốc phòng.          - Trong tiến trình CNH - HĐH, và phát triển  theo định hướng XHCN,Việt Nam dành những ưu tiên đặc biệt cho  đầu tư phát triển kinh tế ở các vùng sâu, vùng xa, ở khu vực nông nghiệp và nông thôn. Hệ thống các chính sách ưu tiên theo hướng này đã đưa đến những thay đổi hết sức quan trọng ở khu vực nông nghiệp và nông thôn. Biểu hiện tập trung nhất của những thay đổi này là sự phát triển  của kinh tế nông hộ và sự xuất hiện của loại hình kinh tế trang trại. Tuy nhiên, trong thực tế, KTTN hoạt động yếu trong công nghiệp, chưa được tham gia hệ thống ngân hàng và chưa dược tham gia hoạt động kinh tế đối ngoại với mức độ như DN  nhà nước, và do đó, chưa có cơ hội tham gia chuyển giao công nghệ, thực hiện mục tiêu CNH và HĐH.       * Chính sách thuế       - Từ năm 1990, những cải cách thuế  đã thực hiện đối xử  bình đẳng giữa KVTN với KVNN. Nói một cách cụ thể, trong các luật  thuế hiện nay không có bất cứ một sự phân biệt đối xử nào đối với KVKTTN.        Tuy nhiên, ở một mức  độ nào đó, hiện nay trong chính sách thuế, các  DN có vốn đầu tư nước ngoài, các DNNN được hưởng nhiều lợi ích hơn so với KTTN. Vấn đề không phải là ở chỗ các luật thuế tạo ra những kỳ thị đối với khu vực KTTN, mà là ở chỗ, những quy định dưới luật đã đưa lại những lợi ích cho các loại hình DN khác, mà KTTN không được hưởng. Chẳng hạn, những quy định về việc miễn giảm thuế lợi tức, quy định về hoàn thuế giá trị gia tăng, hay gần đây, quyết định giảm thuế xuất nhập khẩu… đều là những chính sách không nhằm vào khuyến khích khu vực KTTN.      - Một khó khăn khác trong việc thực hiện chính sách thuế là quy chế lỏng lẻo, lạc hậu về kế toán và kiểm toán trong KVTN. Điều này tạo nhiều sơ hở, gây thất thoát thuế từ khu vực này, nhất là trong điều kiện áp dụng Luật Thuế giá trị gia tăng (1/1/1999).       * Chính sách tín dụng       Chính sách về tín dụng và  hỗ trợ vốn là  vấn đề hết sức nhạy cảm  đối với giới kinh doanh. Theo chính sách hiện hành, KVTN có quyền bình đẳng với các khu vực khác trong việc tiếp cận các nguồn vốn tín dụng. Theo Luật Khuyến khích đầu tư trong nước, các DNTN cũng được nhận mọi sự ưu đãi cần thiết như các DN trong nước khác, được xét ưu đãi vay vốn sản xuất hàng xuất khẩu, và kể cả việc ưu đãi vay vốn từ Quỹ hỗ trợ đầu tư quốc gia.         Tuy nhiên, trên thực tế, trong nhiều năm qua, hầu hết các  DNTN gặp khó khăn khi vay vốn ngân hàng do bị ràng buộc bởi các điều kiện thế chấp tài sản, không được thế chấp bằng quyền sử dụng đất, càng không được hưởng quy chế bảo lãnh như các DNNN. Các DNTN không đủ khả năng gọi vốn liên doanh. Chỉ có một bộ phận dân cư (nhất là nông thôn) được sự ưu đãi tín dụng qua các chương trình xoá đói giảm nghèo và cho vay phát triển kinh tế. Có thể nói rằng, trên thực tế vẫn tồn tại sự phân biệt đối xử rất lớn giữa DNTN và DNNN. Bằng chứng là, trong khi các DNTN và các loại hình dân doanh gặp khó khăn rất lớn về vốn, thì trong các năm 1997- 1999, các DNNN đã nhận được những khoản hỗ trợ khổng lồ: 6.482 tỷ đồng do cấp bổ sung vốn, 1.465 tỷ bù lỗ; ngoài ra, từ năm 1996- 1999, được miễn giảm thuế 2.228 tỷ đồng, xoá nợ 1.088,5 tỷ đồng, khoanh nợ 3.392 tỷ đồng, giảm nợ 540 tỷ, và cho vay vốn tín dụng ưu đãi 8.685 tỷ đồng; ở nhiều DNNN, số nộp của DN vào ngân sách ít hơn số tiền do nhà nước hỗ trợ. Theo hướng này, dù có thế nào đi nữa, KVKTTN cũng không thể có được vị thế bình đẳng, không thể cạnh tranh một cách lành mạnh với các DNNN.           Một cố gắng tích cực gần  đây nhất nhằm cải thiện tình hình nói trên là Nghị định 178 ngày 29/12/1999 của Chính phủ về bảo đảm tiền vay của các tổ chức tín dụng. Theo  quy định, các biện pháp bảo đảm tiền vay bao gồm bảo đảm bằng tài sản (cầm cố, thế chấp, bảo lãnh, bảo đảm bằng tài sản hình thành từ vốn vay) và bảo đảm tiền vay trong trường hợp không có bảo đảm bằng tài sản. Các quy định trước đây buộc các DNTN khi vay vốn của các ngân hàng thương mại quốc doanh, ngân hàng thương mại cổ phần đều phải có tài sản thế chấp. Theo Nghị định 178, kể từ 1/1/2000, các DN  thuộc mọi thành phần kinh tế, khi vay các tổ chức tín dụng không cần có bảo đảm bằng tài sản; các tổ chức tín dụng căn cứ vào uy tín, khả năng tài chính của khách hàng, hiệu quả và tính khả thi của dự án vay vốn của khách hàng để xem xét  việc cho vay có cần đảm bảo bằng tài sản hay không. Có thể cho đây là một cơ hội mới đã mở ra cho các DNTN. Song điều này cũng không có nghĩa là các DNTN đương nhiên sẽ dễ dàng nhận được sự hỗ trợ tài chính của các ngân hàng, nhất là các ngân hàng thương mại quốc doanh. Về nguyên tắc, sau khi xem xét, các ngân hàng và tổ chức tín dụng vẫn hoàn toàn có quyền từ chối hoặc đòi hỏi phải có bảo lãnh (do điều kiện kém kỷ cương của thị trường tài chính hiện nay) thì các DN thuộc KVKTTN vẫn khó có thể tiếp cận được các nguồn vốn cần thiết.          Một vấn đề khác cần phải nói thêm là, sau khi ban hành Luật Khuyến khích đầu tư  trong nước (1994), chính phủ  đã tiến hành lập Quỹ  hỗ trợ Đầu tư  Quốc gia (từ Trung ương đến địa phương) với mục  tiêu ưu đãi tín dụng cho các dự án đầu tư trong nước được ưu đãi. Tuy nhiên phần lớn các khoản tín dụng từ quỹ này lại đang được dành cho các DNNN: tính đến hết tháng 6/1998, có tới 81% tín dụng từ quỹ này dành cho các DNNN; một số địa phương dành hết quỹ này cho DNNN, thậm chí dồn cho cả các DNNN không thuộc diện ưu đãi; bên cạnh đó, có tới 11 tỉnh trong nước, các nhà đầu tư tư nhân không thể tiếp cận được nguồn vốn này. Năm 1999, việc điều hành Quỹ hỗ trợ Đầu tư Quốc gia đã có cải thiện chút ít theo hướng có lợi cho KVTN. Cả nước (54/61 tỉnh, thành phố) đã duyệt ưu đãi đầu tư cho 586 dự án với tổng số vốn 7.112 tỷ đồng. Trong số này, KVTN có 429 dự án (chiếm 73,2% số dự án) được ưu đãi đầu tư. Tuy nhiên, xét về cơ cấu vốn, hơn 65% của tổng số vốn ưu đãi đầu tư là dành cho dự án của các DN  nhà nước, chỉ có gần 35% là dành cho KVTN.       Có  thể nói, cả chính sách tín dụng và  cơ chế thực hiện  đang còn nhiều bất cập, khiến cho vấn  đề vốn cho KVTN còn trong tình trạng bế tắc.        * Chính sách đất đai       Trong điều kiện Việt Nam, đất đai thuộc sở hữu nhà nước, chính sách đất đai giữ vai trò quan trọng đặc biệt đối với sự phát triển KVTN. Luật Đất đai năm 1993 đã đặt cơ sở pháp lý cho việc các thành phần kinh tế sử dụng hợp pháp đất đai vào mục đích kinh doanh. Sau khi có Luật Đất đai, Nhà nước cũng đã ban hành Pháp lệnh về quyền và nghĩa vụ của các tổ chức trong nước được nhà nước giao đất và cho thuê đất.         Tuy thế, hiện nay, các nhà  đầu tư tư nhân chưa  được quyền chuyển nhượng, góp vốn, thế  chấp hoặc cho thuê lại đối với đất kinh doanh (như trong nông nghiệp). Thêm vào đó, các quy định về việc thuê đất đối với tư nhân hết sức phiền hà, nhiều thủ tục, nhiều đầu mối; chính sách cho thuê đất đối với người đầu tư là người Việt Nam ở nước ngoài và người nước ngoài cư trú lâu dài ở Việt Nam vẫn còn chưa rõ. Bởi vậy, việc giao đất và cho thuê đất đối với KVTN còn hết sức khó khăn. Chẳng hạn, sau khi có Luật Khuyến khích đầu tư trong nước, tính đến hết tháng 6/1998, có 149 dự án đầu tư được cấp đất và cho thuê đất với tổng diện tích đất là 111,42 triệu m2, thì có tới 110 dự án (73,8%) với 108,6 triệu m2 (97,47% diện tích đất) là dành cho khu vực quốc doanh, KVTN chỉ nhận được rất ít trong số đó (16,2% của tổng số dự án, và 2,53% diện tích đất).       Do điều này, chính sách đất đai còn là trở ngại lớn cần phải sửa đổi nhằm thực sự khuyến khích KVTN.       *  Chính sách thương mại       Từ  1989, Việt Nam thi hành chính sách tự  do thương mại, cho phép các  DNTN được tham gia hoạt động xuất nhập khẩu. Năm 1998, Nhà nước đã nới lỏng quy chế, cho phép một cách hạn chế tư nhân được phép xuất khẩu gạo. Năm 2000, Việt Nam gia nhập WTO, đánh dấu một bước chuyển biến lớn trong quá trình hội nhập kinh tế.          Tuy thế, các văn bản dưới luật hiện gây khó  khăn rất nhiều cho KVTN. Các DNTN gặp nhiều trở ngại khi dăng ký và xin giấy phép kinh doanh do thủ tục rườm rà và bộ máy quan liêu; họ cũng rất khó khăn để nhận được quota, so với DNNN, kể cả trong lĩnh vực gia công xuất khẩu. Có thể nói rằng, những chính sách ưu đãi trong kinh doanh xuất nhập khẩu hiện nay, phần lớn rơi vào tay các DN  nhà nước. Sở dĩ nói như vậy là vì, hầu hết quota xuất nhập khẩu là dành cho các DNNN, các DNNN lại không phải khó khăn gì nhiều để nhận được sự bảo lãnh của ngân hàng khi tiến hành các thủ tục xuất nhập khẩu, nhất là trong việc thanh toán với ngân hàng nước ngoài. Điều này hạn chế sức cạnh tranh của KVTN.       * Chính sách lao động       Ngày 23/6/1994, Quốc hội Việt Nam ban hành Luật lao động. Sau Luật lao động, đến nay đã có 1 Pháp lệnh, 26 Nghị  định, quyết định, 62 thông tư  liên bộ và nhiều văn bản pháp luật khác  được ban hành, căn bản tạo nên khung thể  chế cho thị trường lao động. Chính sách lao động mới cho phép KVTN tự do thuê mướn, ký hợp đồng sử dụng lao động, nhưng cũng đặt ra những nghĩa vụ đối với chủ DN. Có thể nói, hiện không có bất cứ rào cản nào lớn nào ngăn trở KVTN thuê mướn và sử dụng lao động.          Tuy nhiên, KVTN vấp phải tâm lý e ngại, chưa có được lòng tin của dân cư về quan hệ lao động. Thêm vào đó, khó khăn lớn hiện nay là sự yếu kém của các cơ quan quản lý lao động của chính phủ. Các cơ quan này trên thực tế là không kiểm soát được tình hình thuê mướn và sử dụng lao động ở các DN thuộc KVTN, trong khi ở phần lớn các DNTN hiện nay đều có vấn đề vi phạm Luật lao động. Các văn bản pháp lý dưới luật cũng chưa có khả năng chi phối các DNTN trong việc chấp hành các nghĩa vụ của người sử dụng lao động đối với người lao động. Rõ rệt nhất xung quanh vấn đề này là việc trả công lao động, đóng bảo hiểm xã hội và quyền lợi cho người lao động khi chấm dứt hợp đồng lao động . Cũng bởi vậy, có ý kiến cho rằng, KVTN hiện nay chỉ là nơi trú chân tạm thời của người lao động- có rất ít ai muốn làm việc lâu dài ở KVTN, kể cả lớp trẻ. Đây chắc chắn là một nhân tố gây bất ổn định cho sự phát triển của KVTN.       Nhìn chung, đổi mới các chính sách kinh tế  đã thúc đẩy sự phát triển của  KVTN. Tuy nhiên, trên thực tế, đóng góp của KVTN vào ngân sách nhà nước hiện thấp hơn nhiều so với KVNN, tốc độ tăng trưởng của khu vực KTTN cũng thấp hơn KVNN và của nền kinh tế. Điều này chứng tỏ rằng còn có những trở ngại chính sách làm hạn chế khả năng của KVTN. 3. Thị trường Việt Nam hiện nay đã phát triển đồng bộ chưa? a. Quan niệm về phát triển thị trường đồng bộ: ♦ Quan niệm của một số nhà kinh tế về phát triển thị trường đồng bộ - Các loại thị trường có mối quan hệ mật thiết và tương tác lẫn nhau tạo nên một cơ chế thị trường hoàn chỉnh. Vì vậy trong nền kinh tế thị trường ở nước ta cần phải tạo lập đồng bộ các loại thị trường như thị trường hàng hoá - dịch vụ, thị trường tài chính, thị trường lao động, thị trường đất đai - bất động sản, thị trường KHCN...... - Phát triển thị trường theo cả hai khía cạnh: • Một là, hình thành đồng bộ các loại thị trường phù hợp với các thể chế thị trường định hướng XHCN, bao gồm các loại thị trường cơ bản như thị trường hàng hoá - dịch vụ, thị trường tài chính, thị trường lao động, thị trường đất đai - bất động sản, thị trường KHCN......ở các nước kinh tế phát triển khá đồng bộ. Trình độ phát triển cao của hệ thống các loại thị trường ở các nước này hoạt động tích cực, có hiệu quả. • Hai là, tạo lập và phát triển đồng bộ các yếu tố thị trường trong từng loại thị trường. Một số thị trường ở nước ta mới hình thành sơ khai là do còn thiếu nhiều yếu tố thị trường. Vậy yếu tố thị trường là gì? Trên thị trường có hai nhóm người hoạt động. Nhóm thứ nhất là những người mua hàng hóa, sử dụng dịch vụ, nhóm thứ hai là những người bán hoặc cung cấp hàng hóa, dịch vụ cho tiêu dùng.( Sự phân nhóm này chỉ là tương đối và với mỗi người khi này thì thuộc nhóm người mua nhưng khi khác lại thuộc nhóm người bán). Thị trường là giao điểm gặp gỡ, tác động của hai nhóm người này. Cùng thông qua thị trường để giải quyết mâu thuẫn giữa người mua và người bán, bảo đảm thực hiện cân đối giữa cung và cầu. Mâu thuẫn trên thị trường phản ánh mâu thuẫn kinh tế, chính trị, xã hội. Khi mâu thuẫn được giải quyết thì người mua, người bán, người sản xuất, người tiêu dùng đều thực hiện được mục tiêu của mình. Những ách tắc trên thị trường có nguy cơ dẫn tới khủng hoảng kinh tế, mâu thuẫn gây mất ổn định xã hội. Như vậy các yếu tố thị trường là : cung - cầu, người mua - người bán. Mức độ phát triển của từng loại thị trường là còn tuỳ thuộc vào tính đồng bộ của các yếu tố trong thị trường đó. Để hình thành một thị trường mới, cần tạo lập điều kiện cho các yếu tố thị trường đó được hình thành và từng bước phát triển đồng bộ. ♦ Quan niệm của Đảng về phát triển thị trường đồng bộ - Đại hội IX của Đảng Cộng sản Việt Nam đã xác định phải xây dựng thể chế kinh tế thị trường hoàn chỉnh, có hiệu quả góp phần nâng cao năng lực cạnh tranh của nền kinh tế quốc dân. Vì vậy việc tạo lập một hệ thống đồng bộ các loại thị trường là yêu cầu cấp thiết. Tính đồng bộ của các thị trường trong nền kinh tế thị trường ở nước ta được thể hiện ở các khía cạnh sau: Đồng bộ về các loại thị trường: Dựa theo cách phân chia thị trường, các thị trường cần phát triển đồng bộ theo trình tự của thời gian lưu thông hàng hoá (như thị trường giao hẹn, thị trường có sẵn, thị trường bán buôn, thị trường bán lẻ), theo khu vực của lưu thông hàng hoá (thị trường hàng hóa.......) Đồng bộ về các điều kiện để tạo lập và phát triển hệ thống thị trường hoàn chỉnh: • Xây dựng và hoàn thiện môi trường pháp lý để thị trường hoạt động trong một hành lang rõ ràng, minh bạch. • Đào tạo nguồn nhân lực để vận hành nền kinh tế thị trường • Thúc đẩy nhanh sự phát triển lực lượng sản xuất và phân công lao động xã hội • Hoàn thiện và nâng cao hiệu lực và hiệu quả của bộ máy nhà nước trong việc tổ chức, quản lý thị trường Đồng bộ về trình độ phát triển: • Giữa các thị trường có mối liên hệ chặt chẽ với nhau trong một hệ thống thị trường thống nhất, hoàn chỉnh. Vì vậy các loại thị trường phải có sự tương thích điều kiện nhất định, không phải tất cả các thị trường đều cùng phát triển ở một trình độ như nhau. Một thị trường nào đó có thể hình thành và phát triển trước tạo điều kiện cho các thị trường khác phát triển theo. Trong lịch sử phát triển thị trường, thị trường hàng hoá phát triển trước, sự phát triển của thị trường hàng hoá và tích luỹ nguyên thuỷ tư bản đã thúc đẩy thị trường lao động và thị trường đất đai - bất động sản phát triển. Trình độ phát triển của từng loại thị trường còn tuỳ thuộc vào điều kiện cụ thể các chủ thể tham gia vào thị trường. Từ những quan niệm trên ta có thể trả lời được câu hỏi như thế nào là một thị trường phát triển đồng bộ? => Trong nền kinh tế thị trường có rất nhiều các loại thị trường khác nhau, như thị trường hàng hoá, thị trường lao động, thị trường tiền tệ.....Nền kinh tế thị trường sẽ có một thị trường phát triển đồng bộ khi các thị trường này có sự thống nhất và kết hợp chặt chẽ lẫn nhau. Hay nói cách khác: sự phát triển đồng bộ các loại thị trường là sự ăn khớp giữa các thị trường về loại hình, trình độ phát triển và quy mô tạo nên một sự hoạt động nhịp nhàng của hệ thống thị trường và nền kinh tế quốc dân. b. Thị trường Việt Nam hiện nay đã phát triển đồng bộ chưa? Từ những nội dung trên thì thị trường Việt Nam hiện nay chưa phát triển đồng bộ vì những lý do sau: Thứ nhất: Các loại hình thị trường ở Việt Nam chưa có sự ăn khớp, thống nhất. Ta xét thị trường lao động với một số thị trường khác trong nền kinh tế thị trường. Hiện nay với thời đại của khoa học kỹ thuật, các máy móc, trang thiết bị rất hiện đại, đòi hỏi nguồn lực lao động phải có trình độ tay nghề, trình độ lao động cao. Nhưng một thực trạng ở Việt Nam là đại bộ phận người lao động ở Việt Nam chưa có tay nghề, trình độ lao động rất thấp. Chúng ta sẽ mất nhiều thời gian, nhiều tiền của để có thể ứng dụng khoa học công nghệ vào các lĩnh vực sản xuất để phát triển kinh tế. Không chỉ riêng thị trường khoa học công nghệ, tất cả các thị trường hiện nay đều hướng tới một nguồn lực lao động có tay nghề cao. Thứ hai là trình độ phát triển của các loại thị trường Một số loại thị trường còn có trình độ phát triển còn chưa cao. Đối với thị trường hàng hoá - dịch vụ, thị trường này đã được thông suốt và thống nhất trong cả nước, mở rộng và phát triển ra thị trường quốc tế. Tuy nhiên quy mô thị trường này vẫn còn nhỏ, năng lực cạnh tranh của hàng hoá Việt Nam, doanh nghiệp Việt Nam còn rất hạn chế. Hàng hoá của Việt Nam chưa có thị phần tương thích tại chính Việt Nam. Những người có thu nhập thấp, thu nhập trung bình thì hướng tới dùng hàng Trung Quốc với giá rẻ và nhiều mẫu mã. Những người có thu nhập cao có xu hướng tiêu dùng hàng ngoại, chất lượng tốt... Gần đây nhiều doanh nghiệp, tổ chức kêu gọi người dân “Người Việt Nam dùng hàng Việt Nam” một phần thể hiện hàng hoá Việt Nam chưa có tính cạnh tranh cao tại chính Việt Nam. Các vụ kiện bán phá giá thể hiện tính cạnh tranh thấp trên thị trường quốc tế của hàng hoá Việt Nam. Hay khi hàng hoá của Việt Nam xuất khẩu lại đổi tên do không có thương hiệu...... Với thị trường mua bán công nghệ nhằm đáp ứng yêu cầu đổi mới, hoàn thiện và nâng cao trình độ công nghệ của các nhà sản xuất kinh doanh. Thị trường này hiện nay chưa nhộn nhịp vì khả năng thanh toán của người mua còn hạn Với thị trường đất đai - bất động sản : Đất đai ở Việt Nam thuộc sở hữu nhà nước. Các cá nhân, doanh nghiệp, tổ chức, theo quy định của pháp luật không được tự do mua bán đất. Trong thực tế, người ta vẫn mua, bán đất nhưng dưới hình thức khác. Như vậy, thị trường "ngầm" mua bán đất đang tồn tại. Do đó, giá trị thật và giá trị danh nghĩa của đất đai có khoảng cách rất lớn. Giá trị của đất chuyển vào giá trị sản phẩm hàng hóa dịch vụ không phản ánh đúng giá trị thực tế và mang tính áp đặt hành chính. Nó không bảo đảm tương đồng về giá trị với các yếu tố chi phí khác của hàng hóa tiêu dùng trên thị trường. Với thị trường lao động, thì như đã trình bày ở trên, hiện nay nước ta đang có nguồn lao độg với trình độ thấp, “giá rẻ”. Điều này không những chưa đáp ứng được yêu cầu của những ngành nghề đang áp dụng tiến bộ ký thuật mới, mà nó còn kìm hãm sự phát triển chung của KTTT cũng như của riêng thị trường lao động. Với thị trường lao động, chúng ta có nguồn lực lao động dồi dào, nhưng lại chưa tận dụng triệt để, chưa khai thác được hết tiềm năng. Điều này có thể so sánh với Nhật Bản - một nước có tháp dân số già, nhưng tỷ trọng công nghiệp cao, giá trị kinh tế lớn. So sánh về sức trẻ, sức lao động chúng ta có thể hơn họ, nhưng so sánh về trình độ. Tay nghề thì còn rất lâu nữa Việt Nam mới có thể bằng họ bây giờ. ....... Thứ ba về quy mô tạo nên một sự hoạt động của hệ thống thị trường và nền kinh tế quốc dân Tương quan giữa các thị trường trong tổng thể nền kinh tế quốc dân hợp lý thì hoạt động mới có hiệu quả. Từng loại thị trường cũng như hệ thống thị trường trong nền kinh tế quốc dân là một chỉnh thể thống nhất, không bị chia cắt bởi địa giới hành chính. Sự ăn khớp nhịp nhàng, cân đối giữa các loại thị trường theo yêu cầu của sản xuất và đời sống. Tính nhịp nhàng, cân đối về mặt lượng là tương quan tỷ lệ hợp lý giữa hàng và tiền, cung và cầu ở tầm vĩ mô. Sự nhịp nhàng cân đối còn thể hiện ở sự khớp nhau về tiến độ, thời gian, phạm vi trong tiến trình hình thành và phát triển thị trường "đầu vào", "đầu ra" của quá trình sản xuất. Sự ra đời của các loại thị trường và khả năng đồng bộ của chúng do trình độ và yêu cầu sản xuất xã hội quyết định. Nói một cách khác là nó mang tính khách quan. Nhà nước tạo môi trường và điều kiện để phát triển sản xuất hàng hóa và tạo cơ sở cho thị trường phát triển. Nhà nước điều tiết, điều chỉnh thị trường bằng các công cụ quản lý vĩ mô. Mọi sự tác động duy ý chí sẽ tạo ra thị trường ngầm, Nhà nước không quản lý được. Hiện nay Nhà nước tham gia điều tiết nền kinh tế bằng các công cụ quản lý vĩ mô. Vận hành nền kinh tế được quyết định bởi hai chủ thể là thị trường và Nhà nước. Nhà nước đã kịp thời đưa ra những chính sách ổn định nền kinh tế, ổn định thị trường. 1.Bối cảnh ra đời và quan điểm hình thành đường lối đổi mới của Đảng ta a. Bối cảnh ra đời b. Quá trình hình thành và phát triển đường lối đổi mới 2.Quá trình chuyển biến trong tư duy về chuyển nền Kinh tế chỉ huy sang Kinh tế thị trường 2. 1. Các bước chuyển đổi trong quá trình tư duy Quá trình chuyển đổi tư duy quản lý vĩ mô Quá trình chuyển đổi tư duy trong Quan điểm Đổi Mới về kinh tế đã được hoàn thiện dần trong quá trình thực hiện. 2.2 Các biển hiện của quá trình chuyển đổi tư duy trên phương diện chính sách vĩ mô *  Cơ cấu chung: * Chính sách thuế * Chính sách tín dụng * Chính sách đất đai *  Chính sách thương mại * Chính sách lao động 3. Thị trường Việt Nam hiện nay đã phát triển đồng bộ chưa? a. Quan niệm về phát triển thị trường đồng bộ: b. Thị trường Việt Nam hiện nay đã phát triển đồng bộ chưa?

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docQuá trình chuyển biến trong tư duy_.doc