Cưới hỏi truyền thống của người Mường có những nghi lễ, tập tục mang
những nét riêng. Hôn nhân của người Mường là kết quả của tình yêu trai gái.
Hôn nhân theo sự áp đặt không phổ biến (trừ tầng lớp lang đạo). Điều này là một
trong những yếu tố giúp cho đời sống vợ chồng hạnh phúc, hôn nhân bền vững.
Bạn đang xem nội dung tài liệu Phong tục cưới gả truyền thống của người Mường ở huyện Ngọc Lặc (tỉnh Thanh Hóa), để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tạp chí KHOA HỌC ĐHSP TPHCM Phạm Thúc Sơn
_____________________________________________________________________________________________________________
PHONG TỤC CƯỚI GẢ TRUYỀN THỐNG CỦA NGƯỜI MƯỜNG
Ở HUYỆN NGỌC LẶC (TỈNH THANH HÓA)
PHẠM THÚC SƠN*
TÓM TẮT
Người Mường quan niệm cưới xin là một nghi lễ quan trọng cần được chuẩn bị chu
đáo. Trong đám cưới truyền thống của người Mường ở huyện Ngọc Lặc, vai trò của ông
Mơ, Mế già là rất quan trọng. Trước đám cưới, nhà trai phải đi thăm dò, tiếp đến là dạm
ngõ, đặt vấn đề, ăn hỏi, ra mặt rể mới và cắt của. Sau những lễ nghi đúng với truyền
thống, lễ cưới sẽ được tổ chức khi cả hai bên gia đình đã chuẩn bị đầy đủ.
Từ khóa: đám cưới truyền thống của người Mường.
ABSTRACT
The traditional marriage customs of Muong people in Ngoc Lac district
(Thanh Hoa province)
According to Muong people, marriage is an important ceremonial needed to be
prepared carefully. In traditional weddings of Muong people in Ngoc Lac district, the
matchmaker plays a very important role. Before the wedding, the bridegroom family has to
visit the bride family, wooing, proposing marriage, introducing the bridegroom, and
dividing possession. After the rites according to the tradition, the wedding ceremony is
held when both the bridegroom’s and the bride’s family have already prepared well.
Keywords: Muong traditional wedding.
1. Quan niệm của người Mường về
tục cưới gả
Hôn nhân của người Mường là hôn
nhân bình đẳng dựa trên cơ sở trai gái tự
do tìm hiểu, yêu đương. Khi đến tuổi “se
duyên kết mối”, con trai mường này đến
mường khác rất xa để tìm bạn (gọi là
“chơi con mái”). Khi thuận tình, người
con trai hay con gái có thể trực tiếp thưa
chuyện với bố mẹ. Thường thì họ nhờ
bạn bè, người quen đánh tiếng và quá
trình tìm hiểu giữa đôi trai gái ấy được
gọi là “ti sôống mái” (đi tìm hiểu). Khi
trai gái đã thuận tình, bên nhà trai tìm người
mai mối để sang bên nhà gái đặt vấn đề
cưới hỏi.
Hôn nhân của người Mường là hôn
nhân tự do, chỉ trừ tầng lớp lang đạo mới
chịu ảnh hưởng của lễ giáo “sừng đôi
sừng, lược đôi lược” (môn đăng hộ đối).
Hầu hết hôn nhân của người Mường là
hôn nhân bền vững dựa trên chế độ
“đồng đương” (tức là nhiều thế hệ sống
chung nhau trong một gia đình) với
những quy định khắt khe trong các quan
hệ cha - con, chồng - vợ, bố vợ - con dâu,
mẹ vợ - con rể Tất cả các mối quan hệ
đó được quy định rõ ràng và chính là
rường mối để giữ gìn nền tảng gia đình
Mường. Hôn nhân tự do nhưng rất bền
vững là đặc điểm nổi bật trong cộng đồng
dân tộc Mường nói chung và người
Mường ở Ngọc Lặc nói riêng.
* ThS, Trường Đại học Thủ Dầu Một
81
Tạp chí KHOA HỌC ĐHSP TPHCM Số 35 năm 2012
_____________________________________________________________________________________________________________
2. Vai trò của ông mơ, mế già trong
việc cưới gả
Trong đám cưới của người Mường,
ông mơ, mế già (ông mối, bà mối) có vai
trò vô cùng quan trọng. Việc lựa chọn
ông mơ, mế già cũng được thông qua
những tiêu chuẩn nhất định, cụ thể như
sau:
Ông mơ là người khéo ăn nói, khéo
ứng biến, hoạt bát, am hiểu sự đời, có đủ
con trai, con gái, con dâu, con rể, cháu
nội, cháu ngoại; có phúc đức; gia đình
hòa thuận; được mọi người kính trọng và
đặc biệt có tài uống rượu. Ông mơ là
người được nhà trai đặt niềm tin và phó
thác trọng trách nặng nề. Cuộc hôn nhân
có thành công hay không phụ thuộc phần
lớn vào tài nghệ của ông mơ trong khi đi
hỏi, tổ chức gặp gỡ giữa nhà trai với nhà
gái và lo liệu mọi việc để đám cưới diễn
ra tốt đẹp. Thậm chí, ông mơ còn phải có
trách nhiệm đối với đôi vợ chồng trẻ cho
đến khi ông về “thế giới mường ma” mới
chấm dứt vai trò của mình.
Nếu là việc đánh tiếng không thành
công, nhà trai phải có lời tử tế an ủi để
ông mơ không phật ý, rồi xin phép tìm
người khác thay thế. Còn nếu thuận tình
đi đến hôn nhân, vợ chồng trẻ phải coi
ông mơ như cha mẹ mình, phải “sống tết,
chết giỗ”. Con cái sinh ra cũng phải coi
ông mơ như ông bà mình, vì ông đã có
công tác hợp cho pộ (bố) và cạy (mẹ)
mình. Ngày tết, ngày lễ phải có đồ lễ tới
biếu (mâm xôi, con gà) để tỏ lòng biết
ơn. Khi ông mơ về “thế giới mường ma”,
vợ chồng cũng phải để tang như cha, mẹ.
Nếu như vợ chồng nào không quan tâm,
kính trọng ông mơ sẽ bị dư luận lên án và
sau này con cái của họ cũng khó tìm
được ông mơ khi muốn dựng vợ gả
chồng.
Mế già cũng phải là người phụ nữ
khéo ăn nói, vợ chồng song toàn, lắm con
nhiều cháu, có con trai, con gái, có tài
ngoại giao và có khả năng uống rượu. mế
già luôn ở bên cạnh, an ủi và chỉ dẫn cho
cô dâu các nghi lễ trong ngày cưới. Vai
trò của mế già trong ngày cưới rất quan
trọng. Bà phải luôn ở bên cạnh cô dâu và
thay mặt cho nhà gái để tiếp chuyện nhà
trai. Mế già không chỉ giỏi giao tiếp mà
còn phải hiểu rất rõ các nghi lễ trong đám
cưới. Cho nên việc lựa chọn mế già cũng
rất khắt khe đối với những gia đình có
con gái sắp lấy chồng.
Các ông “ậuu” (thầy cúng), ông
mơ, mế già là những người có uy tín,
khéo ăn nói, am hiểu phong tục và văn
hóa của dân tộc, nên họ được hai họ tin
cậy mời đến để lo việc đám cưới của đôi
trai gái. Sau mỗi đám cưới, họ thường
nhận được quà biếu của gia đình cặp vợ
chồng mới, những món quà đó gọi là đồ
lễ. Đồ lễ không được người Mường quy
định chặt chẽ, mà thường tùy vào khả
năng của gia chủ và cô dâu chú rể. Đồ lễ
cho ông mơ thường là một đùi sau của
con lợn (lợn được làm thịt để cúng tổ tiên
nhà chú rể), một ít tiền, một cái nệm và
một cặp gối của cô dâu mới. Đồ lễ cho
mế già do nhà gái chuẩn bị và cũng tương
tự như đồ lễ của ông mơ.
Nh ư vậy, ông mơ là chủ trì bên họ
nhà trai, mế già chủ trì bên họ nhà gái. Cả
hai vai trò này đều quan trọng và không
thể thiếu trong suốt quá trình chuẩn bị
82
Tạp chí KHOA HỌC ĐHSP TPHCM Phạm Thúc Sơn
_____________________________________________________________________________________________________________
cho một đám cưới truyền thống của
người Mường.
3. Phong tục cưới gả truyền thống
Để có thể đi đến nghi lễ cuối cùng
là lễ cưới, thì thanh niên Mường phải
thực hiện đầy đủ những nghi lễ sau:
3.1. Đi thăm dò (thăm táng mạch khạ)
Nhà trai nhờ một người quen bên
nhà gái đi thăm dò ý kiến nhà gái. Người
này có thể là đàn ông hoặc phụ nữ nhưng
phải là người có tài ăn nói. Người dân
trong làng gọi là bà mối.
Bà mối đi thăm dò ý kiến nhà gái
thường mang theo một giỏ bánh, một vò
rượu. Khi đến nhà gái, bà mối hỏi gia
đình nhà gái có đồng ý cho nhà họ đi hỏi
vợ cho anh nọ, anh kia hay không. Nhà
gái chưa trả lời ngay mà hỏi lại: anh đó đi
bộ đội chưa, tính tình thế nào, có chăm
chỉ làm ăn hay không Thông thường,
bà mối trả lời một cách trung thực. Sau
đó, nếu nhà gái quyết định đồng ý thì
nhận quà nếu không thì trả lại quà. Sau
khi nhà gái đồng ý, nhà trai về chuẩn bị
những bước tiếp theo.
3.2. Dạm ngỏ (rạm ngỏ)
Sau khi chọn được bà mối, nhà trai
mang giỏ bánh, trầu cau, rượu đến nhà
gái để chính thức ngỏ lời cho đôi bạn trẻ
thành hôn. Hai bên gia đình bàn bạc ngày
“khạo xiềng ”. Vai trò của bà mối lúc này
rất quan trọng. Chính vì vậy, ông mơ, bà
mối phải có tài ăn nói, ứng xử khéo léo :
Hèn sức chớ đi đào núi
Không khôn mồm khéo miệng chớ
đi làm mơ.
Hay :
Cơm ngon vì miếng, tiếng tốt vì mơ.
3.3. Đặt vấn đề (khạo xiềng)
Đến ngày đã chọn, nhà trai chuẩn bị
chè, trầu cau gói lại trao cho ông mơ đến
nhà gái lúc chạng vạng tối. Đúng giờ, nhà
gái với sự tham gia của ông bà, bố mẹ
đợi nhà trai đến. Đồng thời, cho người ở
cổng chờ sẵn để đón lễ vật và mời nhà
trai vào nhà. Nhà gái mổ gà thiết đãi họ
nhà trai, chủ nhà giữ đôi chân gà để xem,
đoán việc tốt xấu về nhân duyên con gái.
Lễ vật của nhà trai được đặt lên bàn thờ
tổ tiên. Ba ngày sau, nếu nhà gái không
trả lại lễ vật là đã đồng ý. Sở dĩ phải đợi
đến ba ngày, vì trong ba ngày đó, phải
chờ xem có điềm gì xấu (như: gà gáy
trưa, cây đổ, vượn kêu) xảy ra không.
3.4. Ăn hỏi (ti hỏi)
Sau khi được nhà gái đồng ý, nhà
trai chuẩn bị lễ đi ăn hỏi. Sính lễ cho
ngày ăn hỏi rất nhiều và phải trải qua bốn
lần như sau:
Ăn hỏi lần một (ti hỏi lấn một): Lễ
vật gồm một gánh bánh chưng (bánh
chưng không nhân), một vò rượu, một
giỏ trầu cau. Sau bữa cơm thân mật, hai
gia đình quyết định ngày cho lần ăn hỏi
thứ hai.
Ăn hỏi lần thứ hai (ti hỏi lấn han):
Lần này nhà trai phải chuẩn bị ba gánh
bánh, gồm: một gánh bánh khô, một gánh
bánh chưng, một gánh bánh mật, trầu
cau, chè, rượu, thuốc lá. Đi hỏi lần thứ
hai xong, hai bên gia đình đã xưng hô
như thông gia với nhau.
Ăn hỏi lần thứ ba (ti hỏi lấn pa): Số
bánh lần này là năm hoặc sáu gánh với lễ
vật như lần hai, thêm một gánh cơm gà
và một gánh gạo nếp. Trước khi đi, nhà
trai cúng tổ tiên. Trên đường sang nhà
gái, người ta kiêng gặp con gái và người
83
Tạp chí KHOA HỌC ĐHSP TPHCM Số 35 năm 2012
_____________________________________________________________________________________________________________
có vía xấu. Để tránh việc này, họ cử một
bé trai ra đầu ngõ chơi để lấy may. Ngày
hôm đó, nhà gái có đầy đủ hai bên nội
ngoại, các vị cao niên trong dòng tộc để
chứng kiến. Sau khi ăn uống xong, hai
bên gia đình cùng bàn bạc và chuẩn bị
cho lễ ăn hỏi tiếp theo.
Ăn hỏi lần thứ tư (ti hỏi lấn pộn):
Số bánh lần này từ bảy đến chín gánh,
gồm có: bánh chưng, bánh khô, bánh
mật, bánh lá. Riêng bánh chưng thì có
buộc thêm một liếp cá tươi, một giỏ trầu
cau cùng với chè và thuốc.
Sau lễ ăn hỏi, phải ba năm nữa lễ
cưới chính thức mới bắt đầu. Trong thời
gian đó, nhà trai tích cực chuẩn bị lễ vật
và những nhu cầu cần thiết cho đám cưới.
Đây là những năm thử thách chàng rể và
họ nhà trai. Trong thời gian này, có hai
dịp lễ lớn nhà trai phải đi đến nhà gái: ra
mắt con rể (xa mặt dậu) và cắt của (ngáy
cẳt của). Chính vì vậy, đối với gia đình
nghèo thì khó có thể lo được.
Trong các dịp lễ tết như tết Nguyên
Đán, tết Đoan Ngọ, nhà trai đều có quà
biếu nhà gái. Tết Nguyên Đán, có lợn
luộc chín úp vào thúng xôi đậu, bánh các
loại, rượu, trầu cau. Tết cơm mới phải có
cá sông, 2 con gà, gạo nếp hoặc xôi.
Ngày 15-7 âm lịch có hai con gà, rượu và
gạo. Nhà gái đáp lại bằng cách cho con
gái sang biếu mẹ chồng tương lai những
sản phẩm do chính tay mình dệt, như:
nệm, gối, váy áo
Trong thời gian này, cô dâu và
chàng rể thường xuyên qua lại, thăm hỏi,
giúp đỡ hai gia đình, nhất là những lúc
mùa màng bận rộn. Các cụ già thường
nói: “Khàng mưới chăng ti bẩt dậu,
khàng thậu chăng tệnh bẩt du” (tháng 10
không đi mất rể, tháng 6 không đến mất
dâu) là có ý nhắc khéo cô dâu và chàng rể
mới không được lơ là việc gia đình đôi
bên.
3.5. Lễ ra mặt rể (xa mặt dậu)
Trong lễ ra mặt rể, nhà trai cũng
phải chuẩn bị đầy đủ các lễ vật như lợn,
gà, bánh, gạo, trầu cau, chè, thuốc. Dẫn
đầu đoàn nhà trai là ông mơ và hai ông
họ nhà chú rể, các trai “viếng” và mái
“viếng” khiêng đồ lễ và chàng trai “biêng”
(phụ rể) đi cùng chàng rể mới. Lần này,
nhà gái tổ chức ăn uống linh đình hơn.
3.6. Cắt của (cẳt của)
Sau khoảng 3 năm qua lại với nhau,
nếu nhà trai đã chuẩn bị đầy đủ các lễ vật
thách cưới và tỏ ý muốn cưới thì cho ông
mơ đến nhà gái để hẹn ngày tốt đón dâu
và hỏi xem những lễ vật mà nhà gái yêu
cầu gồm những gì. Người Mường ở Ngọc
Lặc gọi đây là lễ cắt của. Nhà trai chuẩn
bị giỏ bánh, rượu, mâm cơm sang nhà
gái, cùng nhau bàn chọn ngày tốt để tổ
chức đám cưới.
3.7. Lễ cưới (đàm khảch)
Sau lễ cắt của, hai bên gia đình thỏa
thuận ngày cưới. Lễ cưới thường được tổ
chức ba ngày, đối với nhà Lang thì từ 5 -
7 ngày. Lễ vật ngày cưới gồm 2 con lợn
hơi, một con 40 kg và một con 60 kg (con
nhỏ thịt ngày nạp tài, con lớn thịt ngày
đưa dâu), vài thúng gạo nếp, khoảng 24
vò rượu, trầu cau, chè khô, thuốc lá, bánh
chưng bốn gánh, khoảng 10 con gà. Nếu
là nhà Lang hoặc gia đình khá giả có thể
có một con trâu hoặc bò.
Lễ dẫn của diễn ra trước hôm đón
dâu. Trước lúc dẫn của sang nhà gái, nhà
84
Tạp chí KHOA HỌC ĐHSP TPHCM Phạm Thúc Sơn
_____________________________________________________________________________________________________________
trai phải làm mâm cơm cúng tổ tiên, cầu
mong mọi việc diễn ra tốt đẹp. Đoàn
người đi phải là số lượng chẵn, với thành
phần đông đủ hai bên nội ngoại của chú
rể và không thể thiếu ông mơ, cùng với
rất nhiều trai “viếng”, mái “viếng” (các
chàng trai, cô gái được mời đến để giúp
việc trong đám cưới) và chàng
“biêng cạnh” (chàng trai được mời đến
để phụ giúp các công việc và luôn đứng
cạch chàng rể trong suốt quá trình đám
cưới).
Trên đường đi, nếu qua làng khác bị
giăng dây đón đường, khi đó ông mơ
trình bày lí do khiêng của, mời trầu, nộp
tiền chuộc rồi lại vui vẻ lên đường. Đến
gần nhà cô dâu, đoàn người đi chậm lại,
sửa sang quần áo rồi đi vào nhà cô dâu.
Bên nhà gái cử người ra đón, đồng thời
xem có đủ lễ vật hay không. Nếu thiếu
nhà trai phải chuẩn bị cho đủ như đã thỏa
thuận. Nếu không, ông mơ, bà mối bị
phạt bằng những chén rượu vì đã không
truyền đạt ý kiến của nhà gái với nhà trai
một cách rõ ràng. Đại diện nhà gái mời
đoàn người nhà trai vào nhà uống nước,
ăn trầu, hút thuốc và uống rượu. Trong
lúc đó, nhà gái chuẩn bị cho việc thờ
cúng tổ tiên nhà mình với đồ lễ của nhà
trai trước sự chứng kiến của hai bên gia
đình. Điều không thể thiếu trong phần lễ
này chính là việc lạy ma nhà cô dâu của
chú rể mới. Sau khi việc thờ cúng tổ tiên
xong, chàng rể mới sẽ mời trầu và nhận
đồ lễ do những người cao niên có vai vế
trong thân tộc của cô dâu trao tặng. Đồ
trao tặng có thể là vải vóc hoặc tiền. Sau
phần ra mắt và nhận tổ tiên cũng như
thân tộc nhà cô dâu của chàng rể mới, hai
họ sẽ dùng cơm. Đây chính là lúc diễn ra
nhiều hoạt động thể hiện nét đặc sắc
trong đám cưới của người Mường. Hai họ
ăn uống, nhảy múa từ lúc cúng tổ tiên
xong cho đến tối. Những điệu xường của
các vị cao niên hai họ, các bài hát đối
giao duyên của nam thanh, nữ tú vang lên
trong tiếng chiêng, tiếng trống xập xình
hòa quyện với các điệu múa xéc bùa
tạo nên một không gian sinh hoạt văn hóa
vô cùng sinh động và đặc sắc.
Những hoạt động ấy kéo dài từ trưa
hôm trước cho đến sáng hôm sau – lúc
chuẩn bị đưa cô dâu về nhà chồng. Trước
khi rời nhà mình, cô dâu vái lạy bàn thờ
tổ tiên 3 lạy, lạy bố mẹ và các vị cao tuổi
trong dòng tộc ba lạy. Sau đó cô dâu mới
được mế già và cô gái “biêng” (phù dâu)
đưa xuống cầu thang rồi đi thẳng ra cổng.
Từ bàn thờ tổ tiên ra đến cổng, cô dâu
phải hướng mắt về phía trước, không
được quay mặt trở lại nhìn ai. Nếu cô dâu
quay lại thể hiện sự lưu luyến với gia
đình, không toàn tâm toàn ý với người
chồng, đó là điềm rủi. Cho nên trong
ngày cưới, dù rất lưu luyến nhưng không
cô gái nào ngoảnh đầu lại cả.
Trên đường đi về, đoàn đón dâu
phải đi đường thẳng không được đi
đường tắt, kiểm soát không cho bất cứ đồ
vật gì của cô dâu rơi xuống dọc đường và
tuyệt đối tránh các việc xung đột. Người
Mường tránh những chuyện như thế vì
cho đó là điềm gở và cầu mong không có
việc “đứt gánh giữa đường của đôi vợ
chồng trẻ, hay sau này cô gái không đi
ngang về tắt”. Nếu lúc đầu đi đón dâu,
đoàn nhà trai đi số lượng người lẻ thì lúc
85
Tạp chí KHOA HỌC ĐHSP TPHCM Số 35 năm 2012
_____________________________________________________________________________________________________________
về sẽ phải là chẵn. Người Mường quan
niệm đi lẻ về chẵn mới là điều tốt.
Đoàn đón dâu về tới cổng, tiếng
chiêng, tiếng trống nổi lên dồn dập. Mẹ
chồng chuẩn bị sẵn một thau nước sạch
và một gáo nước, một thảm than dọc
đường đi trước cầu thang để đón nàng
dâu. Khi cô dâu mới được đoàn hộ tống
tháp tùng đến cầu thang, mẹ chồng chính
là người múc nước để nàng dâu rửa chân.
Sau đó, nàng dâu mới phải bước qua
thảm lửa để đi lên cầu thang. Theo quan
niệm của người Mường, điều đó thể hiện
sự yêu mến của người mẹ chồng với con
dâu mới, việc bước qua thảm than nhằm
xua đuổi hết tà ma và khí độc bám theo
cô dâu trong cuộc hành trình vừa rồi.
Khi lên khỏi cầu thang, cô dâu được
đưa vào gian buồng nơi bố trí sẵn cho cặp
vợ chồng mới. Ở đây, trước sự chứng
kiến các mế, các cô và các cụ bà cao tuổi
họ nhà chú rể cùng rất nhiều mái “viếng”,
cô dâu lấy những bộ đồ mình dệt vắt lên
sào. Đồ vắt lên sào càng nhiều thì càng
thể hiện được sự siêng năng, chăm chỉ,
chịu khó của nàng dâu mới và cũng phần
nào thể hiện được điều kiện của nhà cô
dâu. Trang phục có hai loại vải chính là
vải thường (dệt từ sợi bông), vải “sại”
(được dệt từ sợi tơ tằm). Vải sại càng
nhiều thì cô dâu mới càng được đánh giá
cao; bởi dệt bằng sợi tơ tằm rất công phu,
mất nhiều thời gian và công sức hơn.
Việc vắt đồ lên sào còn nhằm mục đích
khác là giáo dục các mái “viếng” sắp đến
tuổi lấy chồng, xem đó mà học hỏi.
Xong nghi thức trong buồng cưới,
cô dâu được ra ngoài khi ông “ậuu” đã
thờ cúng tổ tiên chàng rể xong. Tại đây,
cô dâu mới lạy bàn thờ tổ tiên ba lạy, các
vị cao tuổi bốn lạy, sau đó là nhận họ
hàng và mời trầu. Trước sự chứng kiến
của hai họ, nàng dâu mới sẽ tặng những
món quà do chính tay mình làm cho ông,
bà nội, bố, mẹ, cô, dì, chú, bác của chàng
rể. Quà tặng thường là chăn, nệm hoặc
gối.
Sau đó, hai gia đình dùng bữa trưa
và tổ chức các hoạt động văn nghệ để
chúc mừng đôi vợ chồng mới. Tiếng hát,
điệu múa, tiếng chiêng, tiếng trống...,
không khí vui nhộn kéo dài từ lúc đó cho
đến vài ngày sau. Những gia đình khá giả
mổ cả trâu, bò thết đãi nhà gái và hàng
xóm. Việc kéo dài số ngày ăn uống phụ
thuộc vào điều kiện kinh tế của gia đình
chàng rể. Nếu nhà khá giả thì vài ngày,
còn nhà khó khăn thì chỉ ngày hôm ấy
đến sáng hôm sau là kết thúc.
Sau khi từ nhà gái trở về, ba ngày
sau vợ chồng mới cùng với ông mơ làm
một lễ nhỏ sang nhà gái gọi là lễ “lại
mặt” mà người Mường gọi là “trại tộô”
(lại dấu).
Sau lễ lại mặt, cô dâu chính thức về
cư trú bên nhà chồng. Vào dịp tết
Nguyên Đán, ngày 5-5 âm lịch và 15-7
âm lịch, hai vợ chồng sẽ đi tết ông ngoại.
4. Kết luận
Văn hóa truyền thống của người
Mường được cấu thành từ nhiều yếu tố
khác nhau; trong đó, nghi lễ vòng đời,
đặc biệt là phong tục cưới hỏi, là một
trong những yếu tố cấu thành văn hóa
tâm linh, văn hóa tinh thần của người
Mường. Qua việc tìm hiểu nghi lễ vòng
đời, đặc biệt là phong tục cưới hỏi truyền
thống của người Mường ở huyện Ngọc
86
Tạp chí KHOA HỌC ĐHSP TPHCM Phạm Thúc Sơn
_____________________________________________________________________________________________________________
Lặc tỉnh Thanh Hóa, chúng tôi rút ra
những nhận định sau:
Cưới hỏi truyền thống của người
Mường có những nghi lễ, tập tục mang
những nét riêng. Hôn nhân của người
Mường là kết quả của tình yêu trai gái.
Hôn nhân theo sự áp đặt không phổ biến
(trừ tầng lớp lang đạo). Điều này là một
trong những yếu tố giúp cho đời sống vợ
chồng hạnh phúc, hôn nhân bền vững.
Bên cạnh đó, tục cưới hỏi truyền
thống của người Mường còn chứa đựng
rất nhiều yếu tố đạo lí, văn hóa tốt đẹp
như vai trò của ông mơ, mế già, sự giúp
đỡ của cộng đồng... Tuy nhiên, phong tục
cưới hỏi truyền thống của người Mường
còn rất nhiều nghi lễ rườm rà, gây tốn
kém và mất nhiều thời gian.
Có thể nói rằng văn hóa Mường còn
nhiều nét nguyên sơ, mang bản sắc của
văn hóa Việt cổ. Người Mường ở huyện
Ngọc Lặc, tỉnh Thanh Hóa thuộc nhánh
Mường trong, nên các nghi lễ trong cưới
hỏi đều mang đậm nét đặc trưng của văn
hóa Mường.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Vương Anh (2006), Tiếp cận văn hóa bản Mường, Nxb Thanh Hóa.
2. Toan Ánh (2000), Phong tục thờ cúng trong gia đình Việt Nam, Nxb Văn hóa Dân
tộc, Hà Nội.
3. Nguyễn Từ Chi (1996), Góp phần nghiên cứu văn hóa và tộc người, Nxb Văn hóa
Thông tin.
4. Bùi Chỉ (2000), Văn hóa ẩm thực dân gian Mường, Nxb Văn hóa Dân tộc, Hà Nội.
5. Nguyễn Đăng Duy (1996), Văn hóa tâm linh, Nxb Hà Nội.
6. Nguyễn Thẩm Thu Hà (2010), “Tục lệ cưới xin của người Mường ở xóm Đa, xã Tân
Mỹ, huyện Lạc Sơn, tỉnh Hòa Bình”, Tạp chí Dân tộc học, (3).
7. Trương Sĩ Hùng (1992), Sử thi thần thoại Mường, Nxb Văn hóa Dân tộc, Hà Nội.
8. Jeane Cuisinier (1995), Người Mường, Nxb Lao động, Hà Nội.
9. Trần Thị Liên, Nguyễn Hữu Kiên (1986), Văn hóa truyền thống Mường Đủ, Sở Văn
hóa - Thông tin Thanh Hóa.
10. Cao Hải Sơn (2006), Văn hóa dân gian Mường, Nxb Văn hóa Dân tộc, Hà Nội.
(Ngày Tòa soạn nhận được bài: 21-02-2011; ngày chấp nhận đăng: 17-4-2012)
87
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 10_pham_thuc_son_3261.pdf