Thông tin cơ bản về liên hiệp quốc và quan hệ với Việt Nam

THÔNG TIN CƠ BẢN VỀ LIÊN HIỆP QUỐC VÀ QUAN HỆ VỚI VIỆT NAM. (The United Nations – UN) I. SỰ HÌNH THÀNH CỦA LIÊN HỢP QUỐC 1. Thành lập: Tổ chức Liên hợp quốc đã chính thức được thành lập ngày 24/10/1945 với sự tham gia của 51 quốc gia sáng lập. Tên "Liên hợp quốc" do Tổng thống Mỹ Franklin D. Roosevelt sử dụng trong Tuyên ngôn của Liên hợp quốc (01/01/1942). Trước năm 1945 Trước sự yếu kém của Hội Quốc Liên và nguy cơ xảy ra chiến tranh thế giới thứ ba, và bảo đảm một thế cân bằng mới trong quan hệ quốc tế sau chiến tranh, ba cường quốc chính của phe Đồng minh là Anh, Mỹ và Liên Xô đã tiến hành hai hội nghị Thượng đỉnh quan trọng (Tê-hê-ran 11/1943 và I-an-ta 02/1945). Nội dung trao đổi chính giữa Trớc-trin, Xta-lin và Ru-dơ-ven bao gồm số phận châu Âu và tương lai của Liên hợp quốc. Việc Liên Xô tán thành thiết lập Tổ chức Liên hợp quốc tại Hội nghị I-an-ta mở ra khả năng hợp tác giữa các nước đồng minh trong việc xây dựng một trật tự thế giới mới sau chiến tranh. Tại I-an-ta, ba cường quốc trên đã thống nhất với nhau về một số điểm then chốt trong việc thiết lập tổ chức Liên hợp quốc: chấp nhận ghế thành viên riêng rẽ của U-cờ-rai-na và Bạch Nga (nay là Bê-la-rút), dành quyền phủ quyết cho các thành viên thường trực của Hội đồng Bảo an, Liên hợp quốc có quyền giám sát việc tạo dựng trật tự châu Âu. Đến Hội nghị Pốt-xđam từ 17/7 đến 2/8/1945, ba cường quốc nhất trí thoả thuận thành lập cơ chế để giải quyết các vấn đề sau chiến tranh (bồi thường chiến tranh của Đức; xác định lại biên giới các quốc gia vv ). Hội đồng Ngoại trưởng 5 nước gồm Nga, Mỹ, Anh, Pháp và Trung Quốc được thành lập và trên cơ sở thoả thuận tại Hội nghị I-an-ta, đại biểu của 50 quốc gia đã tham dự Hội nghị Xan Phran-xít-xcô (Mỹ) tháng 4/1945 và dự thảo Hiến chương của Liên hợp quốc. Sự ra đời của Liên hợp quốc là một sự kiện quan trọng: Liên hợp quốc đã thay thế Hội Quốc Liên (hoạt động kém hiệu quả), trở thành một tổ chức quốc tế toàn cầu với mục tiêu hàng đầu là bảo đảm một nền hoà bình và trật tự thế giới bền vững. 2. Tôn chỉ và mục đích: LHQ hoạt động theo các mục tiêu và nguyên tắc qui định trong Hiến chương Liên hợp quốc. Điều 1 của Hiến chương nêu rõ bốn (04) mục tiêu cơ bản của Liên hợp quốc là: - (1) Duy trì hoà bình và an ninh quốc tế; - (2) Thúc đẩy quan hệ hữu nghị giữa các quốc gia trên cơ sở tôn trọng nguyên tắc bình đẳng về quyền lợi giữa các dân tộc và nguyên tắc dân tộc tự quyết; - (3) Thực hiện hợp tác quốc tế thông qua giải quyết các vấn đề quốc tế trên các lĩnh vực kinh tế, xã hội, văn hoá và nhân đạo trên cơ sở tôn trọng các quyền con người và quyền tự do cơ bản cho tất cả mọi người, không phân biệt chủng tộc, màu da, ngôn ngữ và tôn giáo; - (4) Xây dựng Liên hợp quốc làm trung tâm điều hoà các nỗ lực quốc tế vì các mục tiêu chung. Và 6 nguyên tắc hoạt động chủ yếu của Liên hợp quốc là: + (1) Bình đẳng về chủ quyền quốc gia; + (2) Tôn trọng toàn vẹn lãnh thổ và độc lập chính trị quốc gia; + (3) Cấm đe doạ sử dụng vũ lực hoặc sử dụng vũ lực trong quan hệ quốc tế; + (4) Không can thiệp vào công việc nội bộ các nước; + (5) Tôn trọng các nghĩa vụ quốc tế và luật pháp quốc tế; và + (6) Giải quyết các tranh chấp quốc tế bằng biện pháp hoà bình. Các mục tiêu và nguyên tắc hoạt động trên của Liên hợp quốc mang tính bao quát, phản ánh mối quan tâm toàn diện của các quốc gia. Các quan tâm ưu tiên này thay đổi tuỳ theo sự chuyển biến cán cân lực lượng chính trị bên trong tổ chức này. Thời gian đầu khi mới ra đời, cùng với sự tăng vọt về số lượng thành viên, Liên hợp quốc tập trung vào các vấn đề phi thực dân hoá, quyền tự quyết dân tộc và chủ nghĩa phân biệt chủng tộc Apácthai. Trong thời kỳ gần đây Liên hợp quốc ngày càng quan tâm nhiều hơn tới các vấn đề kinh tế và phát triển. Hoạt động của Liên hợp quốc trong gần 60 năm qua cho thấy trọng tâm chính của Liên hợp quốc là duy trì hòa bình an ninh quốc tế và giúp đỡ sự nghiệp phát triển của các quốc gia thành viên. Đặc điểm bao trùm của Liên hợp quốc là tổ chức này không phải là một nhà nước siêu quốc gia. Liên hợp quốc là tổ chức đa phương toàn cầu đầu tiên có những hoạt động thực chất và đã có nhiều cố gắng trong việc phối hợp và điều tiết các mối quan hệ giữa các quốc gia độc lập có chủ quyền trên nguyên tắc tôn trọng chủ quyền bình đẳng của các quốc gia. Theo Điều 2 mục 7 của Hiến Chương, Liên hợp quốc không được can thiệp vào các vấn đề thuộc quyền tài phán nội bộ của các nước. Tất cả các quốc gia tham gia Liên hợp quốc theo nguyên tắc bình đẳng chủ quyền. Nguyên tắc này được phản ánh triệt để nhất trong cơ chế tham gia bỏ phiếu các quyết định và nghị quyết tại Đại Hội Đồng Liên hợp quốc (các quốc gia lớn nhỏ đều có một phiếu). Một đặc điểm nổi bật khác của Liên hợp quốc là tổ chức này phản ánh sự dàn xếp và cân bằng quyền lực giữa các cường quốc thắng trận. Thực tế này được thể hiện trong cơ chế hoạt động của Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc - cơ quan chấp hành có thực quyền nhất của Liên hợp quốc và đảm nhiệm trách nhiệm hàng đầu của Liên hợp quốc là duy trì hoà bình và an ninh quốc tế. Chỉ các quyết định của Hội đồng Bảo an mới có tính cưỡng chế thực hiện. Các nghị quyết tại các cơ quan chính khác của Liên hợp quốc như Đại hội đồng, Hội đồng Kinh tế–Xã hội, Hội đồng Quản thác, và cả Toà án Quốc tế chỉ có tính khuyến nghị, đạo lý và tạo sức ép dư luận. Để bảo đảm lợi ích và thu hút sự tham gia của cho các cường quốc, Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc là cơ quan duy nhất dành cho 5 cường quốc quyền phủ quyết (veto) khi thông qua các nghị quyết, quyết định của Hội đồng. Quyền hạn của Hội đồng Bảo an tập trung vào hai lĩnh vực hoạt động chính là giải quyết hoà bình các tranh chấp quốc tế và tiến hành các biện pháp cưỡng chế. So với Hội Quốc Liên, Liên hợp quốc chứng tỏ đầy đủ hơn tính chất toàn cầu (thành phần gồm hầu hết các quốc gia độc lập trên mọi châu lục) và đặc biệt là tính toàn diện của nó: chương trình nghị sự không bó hẹp vào vấn đề duy trì hoà bình, an ninh, mà bao gồm cả việc thúc đẩy hợp tác vì phát triển kinh tế–xã hội của cộng đồng các dân tộc; bản thân Liên hợp quốc bao gồm hàng loạt cơ quan, chương trình, quỹ, tổ chức chuyên môn tập trung vào mọi lĩnh vực của đời sống các quốc gia và quan hệ quốc tế ngoài lĩnh vực chính trị - quốc phòng, từ tiền tệ đến nông nghiệp, văn hoá, khoa học–kỹ thuật . Tổ chức Liên hợp quốc ra đời thực sự có ý nghĩa to lớn trong đời sống chính trị quốc tế trong gần 60 năm qua. Đây là sự kiện quan trọng đánh dấu sự xuất hiện của các hoạt động ngoại giao đa phương hiện đại, một bước ngoặt quyết định trong lịch sử phát triển của nền ngoại giao đa phương nói chung. Tuy nhiên, sự ra đời của Liên hợp quốc và bản thân Hiến chương Liên hợp quốc tất nhiên chưa đủ để bảo đảm sự bình đẳng hoàn toàn và triệt để giữa các quốc gia lớn nhỏ. Sự đóng góp của Liên hợp quốc đối với hoà bình an ninh quốc tế trong hơn 60 năm qua là rất đáng kể. Tuy nhiên, thực tế cho thấy trong nhiều vấn đề, nhiều sự kiện, Liên hợp quốc không thể hiện được vai trò của mình hoặc có thể nói Liên hợp quốc chưa làm tròn sứ mệnh của mình. Các siêu cường vẫn có vai trò lớn và nhiều khi giữ vai trò quyết định trong quá trình ra quyết định của Liên hợp quốc, đặc biệt là cơ cấu và cơ chế hoạt động của Hội đồng Bảo an, Hiến chương Liên hợp quốc và các cơ quan chuyên môn của Liên hợp quốc.

docx35 trang | Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1840 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Thông tin cơ bản về liên hiệp quốc và quan hệ với Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
và Liên Xô (cũ) là những nước sử dụng nhiều nhất. Trên thực tế, không nhất thiết nghị quyết có mang tính thực chất (có liên quan đến thủ tục) nào được thông qua cũng cần phải có đủ năm phiếu thuận của năm uỷ viên thường trực. Nếu như một nước uỷ viên thường trực không ủng hộ hoặc không muốn biểu thị sự ủng hộ của mình đối với một nghị quyết, đồng thời cũng không muốn ngăn cản việc thông qua nghị quyết, nước đó có thể bỏ phiếu trắng hoặc không tham gia bỏ phiếu, hành động này không bị coi là phủ quyết và nghị quyết vẫn được thông qua. Thông thường, các nước uỷ viên Hội đồng Bảo an cố tìm cách dàn xếp trước để nghị quyết có thể được thông qua. Tuy nhiên, đã không ít lần, nhiều nước, cho dù biết trước dự thảo nghị quyết của mình sẽ bị phủ quyết nhưng vẫn đưa ra bỏ phiếu nhằm gây sức ép chính trị. 3.1 Cơ sở pháp lý và tôn chỉ mục đích Hội Đồng Kinh tế Xã Hội Liên hợp quốc (Economic and Social Council - ECOSOC) là một trong 6 cơ quan chính của Liên hợp quốc. Theo Hiến chương Liên hợp quốc, một trong những mục tiêu chính của Tổ chức này là: "Thực hiện hợp tác quốc tế trong việc giải quyết những vấn đề quốc tế về kinh tế, xã hội, văn hóa hoặc nhân đạo, thúc đẩy và khuyến khích sự tôn trọng nhân quyền và những quyền tự do căn bản cho tất cả mọi người, không phân biệt chủng tộc, nam nữ, ngôn ngữ hoặc tôn giáo" (Chương I, điều 1, điểm 3). Cụ thể, Liên hợp quốc sẽ thúc đẩy (Chương IX, điều 55, điểm a,b,c): - Nâng cao mức sống, đầy đủ việc làm, điều kiện tiến bộ và phát triển kinh tế xã hội - Giải quyết những vấn đề quốc tế về kinh tế, xã hội, y tế và các vấn đề liên quan, và sự hợp tác quốc tế về văn hóa và giáo dục, và - Tôn trọng và thực hiện quyền con người và các quyền tự do cơ bản cho tất cả mọi người không phân biệt chủng tộc, nam nữ, ngôn ngữ hoặc tôn giáo Trách nhiệm thực hiện những chức năng trên trước hết thuộc về Đại hội đồng Liên hợp quốc. Theo điều 60 của Hiến chương Liên hợp quốc, ECOSOC được đặt dưới quyền của Đại hội đồng và được Đại hội đồng giao trách nhiệm trực tiếp thực hiện các chức năng về kinh tế, xã hội của Liên hợp quốc. 3.2 Thành viên: Số thành viên ban đầu của ECOSOC là 18. Từ tháng 8/1965 tăng lên 27 và từ tháng 10/1973 cho đến nay là 54 nước thành viên Liên hợp quốc do Đại hội đồng bầu. Các ghế được phân theo khu vực địa lý : 14 nước Châu Phi, 11 nước Châu Á, 6 nước Đông Âu, 10 nước Mỹ La tinh và Caribe, 13 nước Tây Âu và các nước khác. Hàng năm Đại hội đồng Liên hợp quốc phải bầu lại 18 nước thành viên ECOSOC với nhiệm kỳ 3 năm, thông thường bắt đầu từ 1/1 đến 31/12. Nước thành viên vừa hết nhiệm kỳ có thể tái ứng cử. 3.3 Chức năng và quyền hạn: ECOSOC là cơ quan soạn thảo và điều phối các chính sách thúc đẩy hợp tác quốc tế trong các lĩnh vực kinh tế, xã hội và nhân quyền của Liên hợp quốc. Phần lớn các Nghị quyết và Quyết định của Đại hội đồng Liên hợp quốc về kinh tế, xã hội, nhân quyền, nhân đạo đều bắt nguồn từ các khuyến nghị do ECOSOC trình lên. Theo Hiến chương Liên hợp quốc, ECOSOC có những chức năng và quyền hạn chính sau: - Thực hiện hoặc đề xuất những nghiên cứu, điều tra và làm báo cáo về các vấn đề quốc tế trong lĩnh vực kinh tế, xã hội, văn hóa, và giáo dục, y tế và những vấn đề liên quan khác, và có thể đưa ra những khuyến nghị về các vấn đề đó đối với Đại hội đồng, các nước thành viên Liên hợp quốc và các tổ chức chuyên môn hữu quan; - ECOSOC có thể đưa ra những khuyến nghị nhằm thúc đẩy tôn trọng và thực hiện quyền con người; - ECOSOC soạn thảo các văn kiện và điều ước quốc tế về những vấn đề thuộc thẩm quyền của mình để trình Đại hội đồng và có thể triệu tập các Hội nghị quốc tế về những vấn đề đó, theo các thủ tục của Liên hợp quốc; - ECOSOC có thể phối hợp hoạt động với những tổ chức chuyên môn của Liên hợp quốc, thông qua tham khảo và khuyến nghị với các tổ chức đó, cũng như bằng cách khuyến nghị với Đại hội đồng và các thành viên Liên hợp quốc; - ECOSOC có quyền tiến hành mọi biện pháp thích hợp để các tổ chức chuyên môn phải báo cáo đều đặn cho mình những công việc của họ. Hội đồng có thể thỏa thuận với các thành viên Liên hợp quốc và các tổ chức chuyên môn về việc các thành viên và các tổ chức này báo cáo về những biện pháp đã được áp dụng trong việc thi hành những khuyến nghị của Hội đồng và trong việc thi hành những khuyến nghị của Đại hội đồng về những vấn đề thuộc thẩm quyền của ECOSOC; - Với sự đồng ý của Đại hội đồng, ECOSOC có thể làm những việc do các thành viên Liên hợp quốc, hoặc các tổ chức chuyên môn yêu cầu; - ECOSOC sẽ mời bất cứ nước thành viên Liên hợp quốc nào tham dự, không bỏ phiếu, các cuộc thảo luân của Hội đồng về vấn đề liên quan đến nước thành viên đó; - ECOSOC có thể thu xếp cho đại diện các tổ chức chuyên môn Liên hợp quốc tham dự, không bỏ phiếu, các cuộc thảo luận của Hội đồng và các cuộc thảo luận của các Ủy ban do Hội đồng lập ra, và cho các đại diện của Hội đồng tham gia các cuộc thảo luận của các tổ chức chuyên môn Liên hợp quốc; - ECOSOC có thể có những thu xếp thích hợp để tham khảo các tổ chức phi chính phủ liên quan đến những vấn đề thuộc thẩm quyền của Hội đồng, thu xếp qua các tổ chức quốc tế và khi thích hợp, có thể qua các tổ chức quốc gia của nước thành viên sau khi đã tham khảo nước thành viên đó; - ECOSOC có nghĩa vụ thực hiện những chức năng khác được quy định trong Hiến chương Liên hợp quốc, hoặc có thể được Đại hội đồng giao cho. 3.4 Hoạt động và thủ tục ra quyết định: Mỗi nước thành viên ECOSOC có một phiếu. ECOSOC thông qua quyết định theo đa số những thành viên có mặt tham gia bỏ phiếu. ECOSOC có 2 phiên họp trong một năm: phiên họp về nội dung (substantive session) được tổ chức trong vòng 4 tuần vào khoảng tháng 7, luân phiên ở New York và Geneva, và trước đó là phiên họp về tổ chức (organizational session) diễn ra trong 4 ngày thường vào đầu tháng 2 và được họp lại vào khoảng cuối tháng 4, đầu tháng 5 hàng năm. Trong phiên họp về nội dung của ECOSOC có 4 ngày họp cấp Bộ trưởng của các nước thành viên Hội đồng để xem xét những chủ đề lớn về kinh tế và/hoặc xã hội; 1 ngày đối thoại về chính sách liên quan những vấn đề quan trọng của kinh tế thế giới và hợp tác kinh tế quốc tế, những người đứng đầu các tổ chức tài chính, thương mại quốc tế của LHQ có thể được mời tham dự cuộc đối thoại này. Sau phần họp cấp cao (high level segment) là phần họp về phối hợp (coordination segment), phần họp về hoạt động tác nghiệp (operational activities segment), và phần họp chung (general segment) để xem xét những vấn đề kinh tế, xã hội và những vấn đề liên quan. Phiên họp về tổ chức thường bầu ra Chủ tịch và các Phó chủ tịch ECOSOC, cũng như bầu bổ sung thành viên của các cơ quan chức năng của Hội đồng. Việc bầu cử, bổ nhiệm, đề cử sẽ diễn ra tại phiên họp về tổ chức được nối lại (resumed session) thường vào tháng 4, đầu tháng 5 hàng năm. Theo Hiến chương Liên hợp quốc, ECOSOC sẽ thông qua những quy định riêng về thủ tục, kể cả cách thức chọn Chủ tịch. Hội đồng sẽ họp khi cần phù hợp với những quy định của Hội đồng, kể cả triệu tập họp theo yêu cầu của đa số các nước thành viên Hội đồng. 3.5 Các cơ quan trực thuộc ECOSOC: Điều 68 của Hiến chương Liên hợp quốc quy định rằng: "ECOSOC sẽ thành lập những Ủy ban trong lĩnh vực kinh tế, xã hội và thúc đẩy nhân quyền, và các Ủy ban khác theo nhu cầu để thực hiện chức năng của Hội đồng". Có 5 loại cơ quan trực thuộc ECOSOC: - Ủy ban chức năng (Funtional Commission); - Ủy ban khu vực (Regional Commission); - Ủy ban thường trực (Standing Committee); - Cơ quan chuyên môn (Expert Bodies) và - Ủy ban hành chính điều phối (Administrative Committee on Coordination). Mỗi Ủy ban có thể thành lập các tiểu ban (Subcommission) hoặc nhóm làm việc (Working Group) Các Ủy ban chức năng (Funtional Commission): + Ủy ban Phát triển Xã hội (Commission for Social Development - CSD): Ủy ban có chức năng tư vấn cho ECOSOC về những chính sách xã hội chung, và đặc biệt về tất cả những vấn đề xã hội mà các tổ chức chuyên môn liên Chính phủ không đề cập đến. UB còn có nhiệm vụ theo dõi việc thực hiện tiếp kết quả Hội nghị thượng đỉnh thế giới về phát triển xã hội họp tại Copenhagen 1995. Hiện Uỷ ban có 46 thành viên do ECOSOC bầu nhiệm kỳ 4 năm. Uỷ ban họp hàng năm ở New York khoảng 8 ngày. + Ủy ban về ngăn ngừa tội phạm và tư pháp hình sự (Commission on Crime prevention and Criminal Justice - CCPCJ): Ủy ban có trụ sở tại Vienna gồm 40 nước thành viên do ECOSOC bầu nhiệm kỳ 3 năm, họp hàng năm thường ở Vienna. Ủy ban có chức năng: - Hướng dẫn về chính sách cho các nước thành viên Liên hợp quốc trong lĩnh vực phòng ngừa tội phạm và tư pháp hình sự; - Theo dõi và kiểm điểm việc thực hiện các chương trình Liên hợp quốc về phòng ngừa tội phạm; - Giúp phối hợp các hoạt động của các viện khu vực và liên khu vực về phòng ngừa tội phạm và xử lý người phạm tội; - Huy động sự ủng hộ của các nước thành viên; - Chuẩn bị cuộc họp của Liên hợp quốc về ngăn ngừa tội phạm và xử lý người phạm tội. + Ủy ban nhân quyền (Commission on Human Rights - CHR): Ủy ban có trụ sở tại Geneva, hiện gồm 53 nước thành viên do ECOSOC bầu nhiệm kỳ 3 năm, họp hàng năm tại Geneva. Uỷ ban có các chức năng chủ yếu như xây dựng các văn kiện và tài liệu pháp lý quy định về các quyền con người và các quyền tự do cơ bản; đưa ra những khuyến nghị và báo cáo về các vấn đề liên quan đến việc thúc đẩy và bảo vệ các quyền con người trong lĩnh vực dân sự, chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội, các quyền phụ nữ, trẻ em, quyền của các nhóm thiểu số về chủng tộc, giới tính, ngôn ngữ, hay tôn giáo...; xây dựng các dự thảo tuyên bố hoặc công ước quốc tế về các quyền con người. Để giúp việc cho mình, Ủy ban nhân quyền đã thiết lập các cơ chế nhân quyền như các nhóm làm việc (working groups) hoặc cử các báo cáo viên đặc biệt theo chủ đề (giam giữ độc đoán, tự do tôn giáo, tự do chính kiến, chống tra tấn...) và về tình hình nhân quyền ở các nước cụ thể. Việc lập ra các cơ chế nêu trên phải được ECOSOC và Đại hội đồng chấp thuận. Năm 2005, Hội nghị Thượng đỉnh LHQ đã quyết định thành lập Hội đồng Nhân quyền để thay thế Ủy ban Nhân quyền. + Ủy ban về Ma túy (Commission on Narcotic Drugs - CND): có trụ sở tại Vienna, hiện gồm 53 thành viên do ECOSOC bầu nhiệm kỳ từ 3 đến 4 năm, họp hàng năm tại Vienna. Ủy ban có chức năng tư vấn cho Hội đồng và xây dựng dự thảo hiệp định quốc tế về các vấn đề liên quan tới kiểm soát ma túy, theo dõi việc thực hiện chương trình hành động toàn cầu và hướng dẫn về chính sách trong lĩnh vực kiểm soát ma tuý. Ủy ban là cơ quan điều hành Chương trình kiểm soát ma tuý của Liên hợp quốc (UNDCP), xây dựng và thông qua các chương trình dự án của UNDCP. Văn phòng Ma tuý và Tội phạm của Liên hợp quốc (UNODC) có chức năng là ban thư ký cho Uỷ ban. + Ủy ban Dân số và Phát triển (Commission on Population and Development - CPD): gồm 47 nước thành viên do ECOSOC bầu nhiệm kỳ 4 năm, họp hàng năm ở New York. UB có nhiệm vụ nghiên cứu và tư vấn ECOSOC về những thay đổi về dân số, kể cả việc di cư và ảnh hưởng của nó tới các điều kiện kinh tế, xã hội; theo dõi, kiểm điểm, đánh giá việc thực hiện chương trình hành động của Hội nghị quốc tế về Dân số và Phát triển (ICPD) ở cấp quốc gia, khu vực và quốc tế. + Ủy ban Khoa học, Công nghệ vì Phát triển (Commssion on Science and Technology for Development - CSTD): gồm 53 nước do ECOSOC bầu, họp hai năm một lần. + Ủy ban về Phát triển bền vững (Commission on Sustainable Development - CSD): gồm 53 thành viên do ECOSOC bầu nhiệm kỳ 3 năm. Ủy ban có chức năng chủ yếu theo dõi việc thực hiện Chương trình nghị sự 21 (Agenda 21) của Hội nghị Liên hợp quốc về Môi trường và Phát triển tổ chức tại Riođờ Gianerô, Braxin (21-27/6/1997). + Ủy ban về địa vị phụ nữ (Commission on the Status of Women - CSW): hiện gồm 45 nước thành viên nhiệm kỳ 4 năm, có trụ sở ở New York, họp hàng năm. Uỷ ban có nhiệm vụ chuẩn bị các báo cáo và đưa ra các khuyến nghị cho Hội đồng về các vấn đề liên quan đến việc cải thiện các quyền của phụ nữ trong lĩnh vực chính trị, kinh tế, xã hội và giáo dục; Ủy ban đóng vai trò chính theo dõi việc thực hiện Chương trình hành động của Hội nghị thế giới lần thứ 4 về Phụ nữ (Bejing 1995). + Ủy ban Thống kê (Statistical Commission - SC): hiện gồm 24 nước thành viên nhiệm kỳ 4 năm, họp 2 năm một lần tại New York. Ủy ban có nhiệm vụ giúp Hội đồng thúc đẩy phát triển thống kê quốc gia, phối hợp công tác thống kê của các cơ quan chuyên môn và nâng cấp công tác thống kê của Ban thư ký Liên hợp quốc; tư vấn cho các cơ quan Liên hợp quốc về các vấn đề chung liên quan tới việc thu thập, phân tích và phổ biến những thông tin thống kê, thúc đẩy cải tiến phương pháp chung làm thống kê. Các Ủy ban Thường trực (Standing Committees): + Ủy ban Chương trình và Điều phối (Committee for Programme and Co-ordination - CPC): hiện có 34 thành viên nhiệm kỳ 3 năm. Uỷ ban có nhiệm vụ xem xét các chương trình của Liên hợp quốc trong kế hoạch trung hạn, kiến nghị những chương trình ưu tiên, chỉ đạo Ban thư ký cụ thể hóa những luật lệ thành chương trình, kiến nghị bỏ những văn bản chồng chéo, xây dựng các thủ tục thẩm định, và giúp Hội đồng trong thực thi chức năng điều phối. + Ủy ban các Tổ chức phi Chính phủ (Committee on Non-Governmental Organisations - CNGO): gồm 19 thành viên do ECOSOC bầu nhiệm kỳ 4 năm, có nhiệm vụ chính là thẩm tra, xem xét và cấp quy chế tư vấn của ECOSOC cho các NGOs có đơn yêu cầu, giám sát hoạt động của các NGOs có quy chế tư vấn theo quy định của Hội đồng, đưa ra những khuyến nghị về những gì các tổ chức NGO phải trình ECOSOC. Các cơ quan chuyên môn (Expert Bodies): - Nhóm Adhoc các chuyên gia hợp tác quốc tế về các vấn đề thuế (Ad hoc Group of Experts on International Cooperation in Tax Matters); - Ủy ban về chính sách phát triển (Committee for Development Policy); - Ủy ban chuyên gia về vận chuyển hàng nguy hiểm (Committee of Expert on the Transport of Dangerous Good and on the Globally Harmonized System of Classification and Labelling of Chemicals); - Ủy ban về quyền kinh tế, văn hóa và xã hội (Committee on Economic, Social and Cultural rights); - Ủy ban chuyên gia về Hành chính công ( Committee of Experts on Public Administration); - Diễn đàn Thường trực về các vấn đề Người Bản xứ (Permanent forum on Indigenous Issues); - Nhóm chuyên gia Liên hợp quốc về Địa danh (UN Group of Experts on Geographical Names). Ủy ban Hành chính Điều phối (Administrative Committee on Coordination  - ACC) Thành phần gồm Tổng thư ký Liên hợp quốc và các Giám đốc các cơ quan chuyên môn của LHQ và IAEA, họp 2 lần một năm. Ủy ban có chức năng phối hợp các chương trình của LHQ, thúc đẩy sự hợp tác trong hệ thống Liên hợp quốc nhằm mục tiêu chung của tất cả các nước thành viên Liên hợp quốc. Trực thuộc và báo cáo trực tiếp với Ủy ban có 5 tiểu ban là: Tiểu ban tổ chức (Organizational Committee), Tiểu ban tư vấn về những vấn đề hành chính (Consultative Committee on Administrative Questions), Tiểu ban tư vấn về chương trình và các vấn đề tác nghiệp (Consultative Committee on Programme and Operational Questions), Tiểu ban liên ngành về phát triển bền vững (Inter-Agency Committee on Sustainable Development) và Tiểu ban liên ngành về phụ nữ và bình đẳng giới (Inter-Agency Committee on Women and Gender Equality). Các Ủy ban khu vực (Regional Commissions) gồm: Ủy ban Kinh tế Châu Phi-ECA, Ủy ban Kinh tế Xã hội Châu Á-Thái bình Dương - ESCAP, Ủy ban Kinh tế Châu Âu - ECE, Ủy ban Kinh tế Mỹ la tinh và vùng Caribe - ECLAC và Ủy ban Kinh tế Xã hội Tây Á - ESCWA. 3.6. Uỷ ban Kinh tế - Xã hội Châu Á - Thái Bình Dương (ESCAP) 3.6.1 Mục đích thành lập: Tiền thân của ESCAP là Uỷ ban Kinh tế Châu Á-Viễn đông (ECAFE) được thành lập 10/1947 tại Thượng Hải, Trung Quốc theo Nghị quyết 46(1) ngày 11/12/1946 của Đại Hội đồng Liên hợp quốc và Nghị quyết 37 tại khoá họp lần IV (1947) của Hội đồng Kinh tế-Xã hội Liên hợp quốc (ECOSOC). ECAFE được thành lập do nhu cầu của các nước trong khu vực cần có sự giúp đỡ để tái thiết lại đất nước và phát triển kinh tế-xã hội sau chiến tranh thế giới lần thứ hai. Từ năm 1974, ECAFE được đổi tên thành ESCAP cho phù hợp với quy mô và phương hướng hoạt động mới và rộng lớn hơn của tổ chức này. ESCAP được Liên hợp quốc và ECOSOC trao trọng trách như một "Trung tâm phát triển Kinh tế-Xã hội của khu vực Châu Á-Thái bình dương" và có những chức năng và nhiệm vụ sau: Thúc đẩy sự hợp tác phát triển kinh tế –xã hội và tăng cường quan hệ hợp tác giữa các nước trong và ngoài khu vực ; nghiên cứu và phổ biến thông tin về các vấn đề kinh tế- xã hội, kỹ thuật và phát triển ở các nước trong khu vực; hỗ trợ kỹ thuật cho các nước trong khu vực giải quyết các vấn đề liên quan đến phát triển kinh tế-xã hội và có trách nhiệm phối hợp chung các hoạt động của các cơ quan Liên hợp quốc tại khu vực. 3.6.2. Thành viên: Với 10 thành viên khi mới thành lập, đến nay ESCAP có tất cả 53 thành viên chính thức và 9 thành viên liên kết (associate member), đại diện cho 3,84 tỉ người (khoảng 65% dân số thế giới). Các nước và lãnh thổ trong khu vực Châu Á-Thái bình dương, nếu đã là thành viên Liên hợp quốc đều có quyền tham gia ESCAP với tư cách là thành viên chính thức. Tại diễn đàn ESCAP, các nước thành viên có quyền tham gia hoạch định chính sách cho các hoạt động của ESCAP nhằm đáp ứng những nhu cầu phát triển của các nước thành viên, giải quyết những khó khăn và thách thức đối với phát triển kinh tế-xã hội ở khu vực. Với đội ngũ chuyên gia có khả năng chuyên môn sâu rộng trong nhiều lĩnh vực khác nhau, ESCAP có khả năng giúp đỡ các nước thành viên trong khu vực giải quyết những vấn đề khó khăn trong công cuộc phát triển kinh tế-xã hội của quốc gia. 3.6.3. Các hoạt động chủ yếu của ESCAP: Thông qua các hoạt động đa dạng của mình, tập trung chủ yếu vào trợ giúp về kỹ thuật, dịch vụ cố vấn cho Chính phủ các nước khi được yêu cầu; nghiên cứu và phân tích đánh giá tình hình kinhtế-xã hội ở khu vực và các nước thành viên, huấn luyện và đào tạo chuyên gia, phổ biến thông tin và kinh nghiệm, ESCAP thể hiện vai trò hỗ trợ thúc đẩy phát triển kinh tế-xã hội ở khu vực trên 3 mặt quan trọng sau: - Phối hợp nỗ lực chung của Liên hợp quốc cho công cuộc phát triển kinh tế-xã hội ở khu vực. - Diễn đàn chính của các nước trong khu vực để thảo luận và trao đổi kinh nghiệm về các vấn đề liên quan đến chính sách phát triển kinh tế-xã hội ở khu vực. - Hỗ trợ kỹ thuật trong nỗ lực phát triển kinh tế-xã hội ở các nước thành viên. 3.6.4. Cải tổ ESCAP đáp ứng đòi hỏi của tình hình mới: Trong bối cảnh cải tổ chung hệ thống Liên hợp quốc, ECOSOC đã tiến hành xem xét lại vai trò của các Uỷ ban khu vực, kể cả ESCAP, và khuyến khích các Uỷ ban khu vực này có những bước cải tổ nhằm nâng cao hơn nữa tính phù hợp và hiệu quả trong các hoạt động của mình và đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu phát triển kinh tế-xã hội của các nước thành viên trong khu vực trước những vấn đề và thách thức nổi lên từ cuộc khủng hoảng kinh tế-tài chính khu vực năm 1997-98. Trên cơ sở những khuyến nghị cải tổ được thông qua tại khoá 58, ESCAP sẽ tập trung nhân lực và tài lực vào việc hoạch định chương trình hoạt động, vào các vấn đề ưu tiên nhất hiện nay đối với khu vực.  Cụ thể: a. Các chương trình hoạt động của ESCAP sẽ được hoạch định dựa trên những nguyên tắc sau: - Dựa trên cơ sở Tuyên bố thiên niên kỷ của Liên hiệp quốc, các vấn đề toàn cầu khác và các nghị quyết của ESCAP - Giải quyết các vấn đề nổi lên và dự báo những phát triển trong tương lai - Có tính khu vực hoặc xuyên biên giới. - Ưu tiên cho việc cung cấp tư vấn về chính sách và chiến lược dựa trên kết quả các nghiên cứu và dự án thí điểm b. Các chương trình công tác sẽ tập trung các hoạt động vào 3 nội dung ưu tiên sau: - Xoá đói nghèo: Đói nghèo là thách thức lớn nhất đối với khu vực hiện nay. có khoảng 900 triệu người, chiếm 2/3 số người nghèo trên toàn thế giới. Sứ mạng chung của ESCAP trong lĩnh vực này là giúp các nước cải thiện vị trí kinh tế-xã hội của những người nghèo. Mục tiêu đặt ra là các nước thành viên ESCAP có đủ khả năng hoạch định và thực hiện các chính sách và chiến lược giành cho người nghèo một cách có hiệu quả. - Quản lý toàn cầu hoá: Toàn cầu hoá đang định hình một môi trường kinh tế-xã hội mới với những tác động sâu sắc đối với phát triển kinh tế-xã hội và trên hết là tác động đến phúc lợi kinh tế của các nước thành viên. Duới tác động của toàn cầu hoá, một thách thức lớn đối với các nước trong khu vực là làm thế nào để nắm được cơ hội và hạn chế tối đa những mặt tiêu cực đối với phát triển. Sứ mạng chung của ESCAP là giúp các nước thành viên nắm bắt được cơ hội và hạn chế tối đa chi phí để phát triển Mục tiêu chung đặt ra là các nước thành viên có khả năng hoạch định và thực hiện các chính sách và chiến lược cho phép họ giành được tối đa những lợi ích từ quá trình toàn cầu hoá. - Giải quyết các vấn đề xã hội mới nổi lên: Thế giới đang bước vào quá trình toàn cầu hoá nhanh chóng gây tác động lớn đối với từng cá nhân, gia đình và cộng đồng ở khu vực. Thậm chí khi cơ hội cải thiện cuộc sống tăng lên, nhưng nhiều khác biệt về mặt xã hội vẫn tồn tại ở nhiều nước. Giải quyết những vấn đề xã hội còn là một thách thức lớn đối với nhiều nước. Sứ mạng chung của ESCAP là giúp các nước thành viên giải quyết các vấn đề xã hội tồn tại lâu nay cũng như những vấn đề mới nổi lên. Mục tiêu chung đặt ra là các nước thành viên có khả năng hoạch định và thực hiện các chính sách và chiến lược thúc đẩy việc tạo ra những cơ hội bình đẳng để mọi tầng lớp dân cư trong xã hội đều được tham gia và trên hết là cải thiện chất lượng cuộc sống của họ. Trên cơ sở những nguyên tắc hoạch định chương trình hoạt động và lựa chọn 3 chủ đề ưu tiên nêu trên, ESCAP đề ra chiến lược chung để thực hiện chương trình hoạt động như sau: - Đạt được sự cân bằng giữa công tác sự vụ, phân tích và nghiên cứu chính sách với các hoạt động hợp tác kỹ thuật. - Huy động thêm nguồn hỗ trợ của các nước và tổ chức tài trợ, của khu vực tư nhân cho việc thực hiện các hoạt động hợp tác kỹ thuật để nâng cao hiệu quả của chương trình hoạt động ESCAP. - Tập trung vào các dự án hợp tác kỹ thuật có quy mô lớn hơn mà có thể đóng góp đáng kể vào nỗ lực phát triển chứ không tiếp tục các dự án nhỏ ít tác dụng. - Tất cả các dự án nhằm đóng góp vào việc thực hiện và đạt được các mục tiêu của 3 lĩnh vực ưu tiên nêu trên. - Các chương trình và hoạt động của ESCAP là nhằm phục vụ nhu cầu của nước thành viên. Để thực hiện chiến lược trên, các hoạt động của ESCAP sẽ dựa trên trên cơ sở những nguyên tắc: - Cung cấp tư vấn về chiến lược và chính sách phát triển, đặc biệt trong việc giải quyết các vấn đề kinh tế-xã hội mà các nước phải đối phó lâu nay cũng như mới nổi lên. - Cung cấp dịch vụ tư vấn để giúp vượt qua những vấn đề cụ thể về phát triển kinh tế-xã hội. - Đào tạo và trợ giúp kỹ thuật giúp tăng cường năng lực quốc gia. -Ưu tiên các nước kém phát triển nhất, các nước không có biển và các nước hải đảo đang phát triển. - Gắn các mối quan tâm về giới và các quyền /nhu cầu của các nhóm xã hội khó khăn trong các hoạt động của ESCAP. - Hợp tác với các đối tác trên phạm vi toàn cầu, khu vực và quốc gia tham gia vào các hoạt động phát triển ở khu vực. - Dựa trên các quyết định và khuyến nghị của các Hội nghị toàn cầu, đề ra những hoạt động phù hợp đối với khu vực. - Sử dung công nghệ thông tin để phổ biết kiến thức và tư vấn cho các nước thành viên, tạo thuận lợi cho việc trao đổi kinh nghiệm giữa các nước. 3.6.5. Cơ cấu tổ chức của ESCAP: Uỷ ban (Commision) là cơ quan cao nhất của ESCAP, gồm đại diện của tất cả các nước thành viên. Uỷ ban mỗi năm họp một lần. Cuộc họp hàng năm này tạo cơ hội cho các nước thành viên xem xét và thảo luận tất cả các vấn đề kinh tế-xã hội và hợp tác khu vực trên các lĩnh vực cùng quan tâm, đồng thời xem xét các chương trình hoạt động của ESCAP. Dưới Uỷ ban có 3 Ban chuyên ngành sau: * Ban Xoá đói Giảm nghèo (Committee on Poverty Reduction): Ban này có chức năng, nhiệm vụ giúp các nước thành viên (a) có khả năng hoạch định và thực hiện tốt hơn các chính sách và chiến lược hỗ trợ, giúp đỡ người nghèo nhằm đạt được những mục tiêu thiên niên kỷ (MDG’s) được Hội nghị Thiên niên kỷ LHQ năm 2000 đề ra và cải thiện chất lượng cuộc sống cho người nghèo, (b) tăng cường cơ sở số liệu thống kê của quốc gia và (c) xây dựng và chia sẻ kinh nghiệm về vấn đề xoá đói giảm nghèo ở các vùng đô thị và nông thôn. Ban này bao gồm đại diện của tất cả các nước thành viên và họp hai năm một lần. Hỗ trợ công việc cho Ban Xoá đói Giảm nghèo là hai Tiểu ban sau: - Tiểu ban về Thực hiện về Xoá đói Giảm nghèo (Sub-Committee on Poverty Reduction.Practices). - Tiểu ban Thống kê (Sub-Committee on Statistics). Hai tiểu ban này sẽ họp hai năm một lần. * Ban Quản lý Toàn cầu hoá (Committee on Managing Globalization): Ban này có chức năng nhiệm vụ giúp các nước thành viên giải quyết các vấn đề (a) thương mại quốc tế và đầu tư, (b) phát triển cơ sở hạ tầng và giao thông vận tải, (c) môi trường và phát triển bền vững và (d) công nghệ thông tin và viễn thông. Ban này bao gồm đại diện của tất cả các nước thành viên và họp hai năm một lần. Hỗ trợ cho Ban Quản lý toàn cầu hoá là 4 Tiểu ban sau: - Tiểu ban Thương mại và Đầu tư (Sub-Committee on Trade and Investment). - Tiểu ban về Hạ tầng cơ sở và Tạo điều kiện thúc đẩy phát triển giao thông vận tải (Sub-Commitee on Transport Infrastructure and Facilitation). - Tiểu ban về Môi trường và Phát triển bền vững (Sub-Commitee on Environment and Sustainable Development). - Tiểu ban về Công nghệ Tin học và Thông tin liên lạc (Sub-Committee on Information and Communication Technologies). Các tiểu ban này sẽ họp hai năm một lần. *Ban về Các Vấn đề Xã hội mới nảy sinh (Commitee on Emerging Social Issues) Ban này có chức năng và nhiệm vụ giúp các nước thành viên hoạch định và thực hiện các chính sách và chiến lược thúc đẩy tạo cơ hội bình đẳng cho mọi nhóm người trong cộng đồng tham gia có hiệu quả và cải thiện chất lượng cuộc sống. Ban này gồm đại diện của tất cả các nước thành viên và họp hai năm một lần. Hỗ trợ công việc của Ban về các vấn đề xã hội mới nảy sinh có các Tiểu ban sau: - Tiểu ban về Các nhóm người dễ bị tổn thương về mặt xã hội (Sub-Commitee on Socially Vulnerable Groups). - Tiểu ban về Y tế và Phát triển (Sub-Commitee on Health and Development). Hai Tiểu ban này sẽ họp hai năm một lần. Ngoài ra, ESCAP còn có 2 Tiểu Ban đặc biệt sau: - Tiểu ban đặc biệt về Các nước Hải đảo Thái bình dương đang phát triển (Special Body on Facific Island Developing Countries). - Tiểu ban đặc biệt về Các nước Kém phát triển nhất và Các nước đang phát triển không đường ra biển (Special Body on Least Developed and Landlocked Developing Countries). Hai Tiểu ban đặc biệt này có chức năng, nhiệm vụ giúp các nước liên quan giải quyết các vấn đề đặc biệt liên quan đến họ. Hai Tiểu ban này họp hai năm một lần. Đặc biệt, ESCAP có Ban Cố vấn (ACPR), gồm Đại diện Thường trực tại ESCAP của các nước thành viên" (Adviory Commitee of Permanent Representatives and Other Representatives). Ban cố vấn họp mỗi tháng một lần để đóng góp và trao đổi ý kiến với Thư ký chấp hành ESCAP về mọi mặt hoạt động và công việc của ESCAP. Ban Cố vấn có nhiệm vụ cùng Ban thư ký hoạch định chương trình công tác của ESCAP cũng như xác định các vấn đề ưu tiên trong các hoạt động, theo dõi và đánh giá việc thực hiện các chương trình công tác đã được Uỷ ban đề ra. Ban Thư ký ESCAP là cơ quan giúp việc cho Uỷ ban để thực hiện các chương trình công tác được Uỷ ban thông qua. Đứng đầu Ban Thư ký là Thư ký Chấp hành do Tổng Thư ký Liên hợp quốc bổ nhiệm với nhiệm kỳ 5 năm. 3.6.6. Nguồn Tài chính: Nguồn ngân sách của ESCAP gồm hai phần: * Ngân sách thường xuyên: Lấy từ nguồn Ngân sách Thường xuyên của Liên hợp quốc (Regular Resources) do các nước thành viên Liên hợp quốc đóng góp. Ngân sách thường xuyên này được dùng để duy trì hoạt động của Ban Thư ký ESCAP. * Đóng góp tự nguyện của các nước thành viên ESCAP hay của các tổ chức quốc tế và các Tổ chức Phi Phính phủ (NGos). Nguồn ngân sách này được sử dụng cho các chương trình và dự án của ESCAP. 3.6.7. Hợp tác giữa Việt Nam và ESCAP trong tình hình mới: * Trong những năm tới các hoạt động của ESCAP sẽ xoay quanh 3 lĩnh vực ưu tiên như nêu trên nhằm giúp các nước thành viên giải quyết những khó khăn và thách thức lớn nhất đối với khu vực. Trong bối cảnh của tình hình nước ta hiện nay, những vấn đề ESCAP quan tâm ưu tiên cũng là những vấn đề lớn được Chính phủ ta quan tâm. Sự đồng nhất này là điều kiện thuận lợi cho các Bộ, nghành tăng cường hợp tác và tranh thủ sự giúp đỡ của ESCAP, đặc biệt trên 3 phương diện: - Hoạch định chính sách và chiến lược phát triển kinh tế-xã hội, - Phương hướng và chính sách để tháo gỡ những khó khăn trên một lĩnh vực hay một vấn đề cụ thể, -Nâng cao năng lực cán bộ, nhân viên thông qua các khoá đào tạo, hội thảo do ESCAP tổ chức. - Đối với vấn đề xoá đói giảm nghèo ở nước ta hiện nay, ta có thể tranh thủ ESCAP giúp đỡ trên các mặt sau: hoạch định chiến lược, chính sách, tăng cường năng lực trong công tác thống kê phục vụ cho chương trình xoá đói giảm nghèo; hoạch định chính sách và các quy chế hỗ trợ người nghèo ở thành thị và nông thôn để giúp họ nâng cao đời sống và cải thiện vị trí trong xã hội. - Đối với vấn đề quản lý toàn cầu hoá, ta có thể tranh thủ sự giúp đỡ của ESCAP trên các mặt sau: hội nhập thương mại mậu dich khu vực và thế giới (nâng cao năng lực quốc gia trong việc nắm và hiểu những tác động của các thoả thuận trong WTO và các Hiệp định mậu dịch đa phương khác,hỗ trợ về đào tạo kỹ năng đàm phán chuẩn bị gia nhập WTO, tham gia thương lượng các hiệp định đa, song phương khác về mậu dịch quốc tế v.v..); nâng cao hiệu quả và tính cạnh tranh trong thương mại và mậu dịch, nâng cao kỹ năng và kiến thức quản lý xuất khẩu, hiểu các quy tắc trong thương mại, đặc biệt các nguyên tắc liên quan đến WTO; tranh thủ những kinh nghiệm tốt trong việc thúc đẩy, tạo môi trường và cải thiện môi trường đầu tư; thực hiện đầu tư, nâng cao năng lực trong việc hoạch định và thực hiện chiến lược và chính sách hỗ trợ cho các xí nghiệp nhà nước và tư nhân, phát triển du lịch, giao thông vận tải, bảo vệ môi trường, phát triển tài nguyên nước và năng luợng. - Đối với các vấn đề xã hội: ta có thể tranh thủ ESCAP trên các mặt như hoach định chính sách đối với phụ nữ nhằm nâng cao địa vị về mặt chính trị và kinh tế của phụ nữ trong xã hội, xây dựng các chính sách và chiến lược phát triển nguồn nhân lực, phuơng hướng giải quyết các vấn đề nan giải như nạn dịch HIV/AIDS, ma tuý, các bệnh hiểm nghèo khác (SARS, Cúm Gia cầm v.v..); xây dựng các chính sách đối với người già, người tàn tật và các đối tượng xã hội khác để giúp họ có điều kiện tham gia vào quá trình phát triển. - Chuyến thăm Việt Nam vào đầu tháng 3/2004 của Viên Thư ký Chấp hành ESCAP, ông Kim Hak-su là một dịp để cho ESCAP thấy được những nỗ lực và thành tựu của Việt Nam trong những lĩnh vực được coi là ưu tiên của khu vực châu Á - Thái bình dương hiện nay. Qua các buổi tiếp xúc phía Việt Nam đánh giá cao sự hợp tác Việt Nam - ESCAP trong những năm vừa qua. Yêu cầu ESCAP tăng cường hơn nữa sự hỗ trợ, đặc biệt là trong những lĩnh vực mà ESCAP có thế mạnh như đã nêu trên. Ông Thư ký Chấp hành cam kết sẽ tiếp tục và tăng cường hợp tác với Việt Nam nhất là các lĩnh vực hoạt động chính của ESCAP hiện nay và đặc biệt là tư vấn chính sách. Ông hứa sẽ thông tin cho các bộ phận liên quan của ESCAP xem xét việc cử chuyên gia chuyên ngành khu vực vào giúp Việt Nam trong các lĩnh vực kế hoạch hoá, xoá đói giảm nghèo, môi trường và vấn đề giới. 4. Hội đồng quản thác: 4.1. Cơ sở pháp lý Theo Chương XII Hiến chương Liên hợp quốc, Hệ thống Quản thác với nhiệm vụ giám sát các vùng Lãnh thổ quản thác được đặt trong Hệ thống theo các thoả thuận riêng với quốc gia quản lý các vùng lãnh thổ này. Hệ thống này áp dụng với: (i) các vùng lãnh thổ nằm trong nhiệm vụ quản lý do Hội quốc liên đưa ra; (ii) các vùng lãnh thổ tách ra từ các quốc gia kẻ thù sau Chiến tranh thế giới thứ hai; các vùng lãnh thổ do các quốc gia có trách nhiệm quản lý được tự nguyện đặt trong Hệ thống. Mục tiêu căn bản của Hệ thống là thúc đẩy tiến bộ chính trị, kinh tế, xã hội tại các vùng lãnh thổ quản thác và sự phát triển của các vùng này hướng tới chính phủ tự quản và độc lập. 4.2. Thành phần Hội đồng Quản thác gồm những thành viên sau đây của Liên hợp quốc: * Những thành viên được quyền quản lý những vùng lãnh thổ quản thác; * Những thành viên thường trực của Hội đồng Bảo an; * Một số thành viên do Đại hội đồng bầu ra trong thời hạn 3 năm để đảm bảo đủ số lượng thành viên của Hội đồng; * Quản thác được phân bổ ngang nhau giữa những thành viên Liên hợp quốc quản lý các lãnh thổ quản thác và những thành viên không quản lý những lãnh thổ đó. 4.3. Chức năng, quyền hạn * Xem xét những báo cáo của nhà đương cục được giao quản lý lãnh thổ quản thác; * Nhận xét và đơn thỉnh cầu sau khi tham khảo ý kiến nhà đương cục nói trên; * Cử người đến quan sát định kỳ từng lãnh thổ do nhà đương cục nói trên quản lý theo thời hạn được thoả thuận với nhà đương cục ấy; * Tiến hành những việc trên hay những việc khác theo đúng những điều khoản của các hiệp định về quản thác. 4.4. Tình hình hiện nay Với việc kết thúc Hiệp định Quản thác cho vùng lãnh thổ quản thác của các hòn đảo thuộc Thái Bình Dương theo Nghị quyết 956 (1994) và việc Palau trở thành thành viên thứ 185 của Liên hợp quốc, Hội đồng Quản thác đã hoàn thành nhiệm vụ được Hiến chương Liên hợp quốc giao phó đối với lãnh thổ cuối cùng trong 11 lãnh thổ quản thác nằm trong Hệ thống quản thác. Năm 1994, trong bản báo cáo thường niên về công việc của Liên hợp quốc, Tổng thư ký đã đề nghị Đại hội đồng giải tán cơ quan này theo điều 108 của Hiến chương Liên hợp quốc. Năm 1997, trong Báo cáo về chương trình cải tổ Liên hợp quốc, Tổng thư ký đã đề xuất tổ chức lại Hội đồng Quản thác thành một diễn đàn để các nước thành viên thực hiện quản thác tập thể vì sự toàn vẹn của môi trường toàn cầu và các khu vực chung như đại dương, khí quyển và khoảng không vũ trụ; đồng thời, làm nhiệm vụ cầu nối giữa Liên hợp quốc và xã hội dân sự trong việc giải quyết các lĩnh vực thuộc mối quan tâm của toàn cầu. Tại Phiên toàn thể cấp cao Đại hội đồng Liên hợp quốc khoá 60 (2005), các nhà Lãnh đạo đã nhất trí cần xoá bỏ chương XIII và một số nội dung trong chương XII của Hiến chương Liên hợp quốc liên quan đến Hội đồng Quản thác. 5. Toà án Quốc tế: 5.1. Cơ sở pháp lý Nhiệm vụ trọng tâm của Liên hợp quốc là giải quyết các cuộc xung đột bằng biện pháp hoà bình phù hợp với các nguyên tắc của công lý và luật pháp quốc tế (Điều 1 của Hiến chương Liên hợp quốc). Điều 33 của Hiến chương cũng chỉ rõ, trong số các phương pháp giải quyết hoà bình có phương pháp sử dụng trọng tài và giải quyết của toà án (theo luật pháp). Theo điều 13 của Hiến chương, một trong những chức năng của Đại hội đồng là " thúc đẩy việc pháp điển hoá và sự phát triển của luật quốc tế theo hướng tiến bộ". Chức năng này đã được Đại hội đồng và các cơ quan khác thực hiện thông qua việc soạn thảo, chuẩn bị rất nhiều công ước quốc tế. Trong vòng năm thập kỷ qua, Liên hợp quốc đã bảo trợ cho trên 456 thoả thuận đa phương bao gồm mọi lĩnh vực hoạt động giữa các nhà nước và nỗ lực của loài người. Liên hợp quốc cũng là người tiên phong quan tâm tới những vấn đề toàn cầu mới hiện nay như: môi trường, khoảng không vũ trụ, lao động di cư, buôn lậu ma tuý và chủ nghĩa khủng bố. 5.2. Thành phần Toà án quốc tế gồm 15 thẩm phán, là công dân của các quốc gia thành viên Liên hợp quốc, do Đại hội đồng và Hội đồng Bảo an cùng bầu ra. 5.3. Chức năng Chức năng chính của Toà án quốc tế là giải quyết hoà bình các tranh chấp quốc tế, vụ kiện do các quốc gia đưa lên phù hợp với luật pháp quốc tế. Mục tiêu của toà án là áp dụng các tập quán quốc tế để thiết lập các quy tắc được các quốc gia liên quan chính thức công nhận; các thông lệ quốc tế được chấp nhận như luật; các nguyên tắc chung của luật pháp được các quốc gia công nhận; các phán quyết của tòa án... Tòa án cũng khuyến nghị Đại hội đồng, Hội đồng Bảo an về lĩnh vực luật pháp, các vấn đề luật pháp nổi lên trong phạm vi hoạt động của các cơ quan này, khuyến nghị các cơ quan khác của Liên hợp quốc, các cơ quan chuyên môn với sự uỷ quyền của Đại hội đồng. 5.4. Hoạt động * Giải quyết theo luật pháp các tranh chấp Cơ quan chính của Liên hợp quốc giải quyết các tranh chấp là Toà án quốc tế. Kể từ khi thành lập năm 1946, đến nay đã có 72 vụ được các nước đưa ra trước Toà án quốc tế, 22 trường hợp hỏi ý kiến của các tổ chức quốc tế. Hầu hết các trường hợp được Toà giải quyết song kể từ năm 1981, đã có 4 trường hợp được chuyển cho các Uỷ ban đặc biệt giải quyết theo đề nghị của các bên liên quan. 11 trường hợp vẫn chưa được giải quyết. Các trường hợp đưa ra giải quyết tại Toà án quốc tế bao gồm nhiều lĩnh vực như: quyền về lãnh thổ (vụ tranh chấp giữa Pháp và Anh năm 1953, giữa Bỉ và Hà Lan năm 1959, giữa Ấn Độ và Bồ Đào Nha năm 1960, giữa Buốckina Phaxô và Mali năm 1986, giữa Libi và Sát năm 1990), liên quan đến luật biển (trường hợp Anbani phải chịu trách nhiệm về những thiệt hại do thuỷ lôi trong vùng lãnh hải của mình gây ra cho tầu của Anh năm 1949, tranh chấp giữa Anh và Na uy về đánh cá), các cuộc tranh chấp liên quan đến nguyên tắc và luật lệ quốc tế trong việc phân định ranh giới thềm lục địa, trên biển và trên bộ (vụ giữa Libi và Manta năm 1985, Canađa và Mỹ năm 1984, Đan mạch và Na uy năm 1993, giữa En Xanvađo và Honđurat năm 1992 ...), về bảo vệ ngoại giao, bảo vệ môi trường, thực hiện các nghĩa vụ của lực lượng uỷ thác tại lãnh thổ Tây Nam châu Phi, các vấn đề liên quan đến xung đột khu vực, việc thực hiện các công ước quốc tế của các nước ... các trường hợp liên quan đến quan hệ giữa Liên hợp quốc và các nước thành viên như việc phái viên của Liên hợp quốc bị sát hại, đóng góp của các nước vào ngân sách hoạt động gìn giữ hoà bình... cũng được các bên liên quan đưa ra tại Toà án quốc tế để nhận được ý kiến tham khảo. * Pháp điển hoá luật pháp quốc tế Uỷ ban về luật pháp quốc tế đã được Đại hội đồng thành lập năm 1947 nhằm thúc đẩy sự phát triển và pháp điển hoá luật pháp quốc tế theo hướng tiến bộ. Uỷ ban gồm 34 thành viên, nhóm họp hàng năm, các thành viên được Đại hội đồng bầu ra với nhiệm kỳ 5 năm, hoạt động với tư cách cá nhân chứ không phải là đại diện của các chính phủ. Công việc chủ yếu của Uỷ ban là soạn thảo luật pháp quốc tế, lĩnh vực luật pháp cần soạn thảo có thể do Uỷ ban tự chọn hoặc do Đại hội đồng hoặc Hội đồng Kinh tế - Xã hội (ECOSOC) gợi ý. Khi Uỷ ban hoàn tất dự thảo các điều khoản, Đại hội đồng sẽ triệu tập một hội nghị quốc tế để quyết định đưa các điều khoản dự thảo đó vào một công ước quốc tế, sau đó sẽ mở cho các nước tham gia. Năm 1966, đáp ứng đòi hỏi của Liên hợp quốc phải giữ một vai trò tích cực trong việc giảm bớt và loại bỏ các cản trở đối với thương mại quốc tế, Đại hội đồng đã thành lập Uỷ ban Liên hợp quốc về luật thương mại quốc tế (UNCITRAL) để thúc đẩy sự thống nhất và hài hoà theo hướng tiến bộ của luật thương mại quốc tế. Uỷ ban gồm 36 thành viên, đại diện cho các khu vực địa lý và các hệ thống kinh tế và luật pháp khác nhau, có báo cáo hàng năm lên Đại hội đồng và trình báo cáo lên Hội nghị Liên hợp quốc về Thương mại và Phát triển. 6. Ban Thư ký Liên hợp quốc: 6.1. Khái quát Ban thư ký Liên hợp quốc (gọi tắt là Ban thư ký) là một trong sáu cơ quan chính của Liên hợp quốc. Trụ sở chính của Ban thư ký đặt tại Niu Oóc, Mỹ. Tổng thư ký hiện nay là Ngài Ban Ki-mun, quốc tịch Hàn Quốc, nhậm chức từ ngày 1/1/2007. 6.2. Cơ cấu tổ chức Theo Chương XV của Hiến chương Liên hợp quốc, Ban thư ký gồm có một Tổng thư ký và một số nhân viên tuỳ theo nhu cầu của tổ chức. Tổng thư ký do Đại hội đồng bổ nhiệm, theo kiến nghị của Hội đồng Bảo an. Tổng thư ký là viên chức cao cấp nhất của Tổ chức Liên hợp quốc (Điều 97). 6.3. Chức năng, nhiệm vụ * Tổng thư ký hoạt động với tư cách là người có cương vị cao nhất của Ban thư ký trong tất cả các cuộc họp của Đại hội đồng, của Hội đồng Bảo an, của Hội đồng Kinh tế - Xã hội và của Hội đồng Quản thác. Tổng thư ký thực hiện các chức năng theo quy định của Hiến chương Liên hợp quốc và các nhiệm vụ khác do các cơ quan này giao phó. Tổng thư ký trình Đại hội đồng báo cáo hàng năm về hoạt động của Liên hợp quốc (Điều 98). * Tổng thư ký có thẩm quyền lưu ý Hội đồng Bảo an về bất cứ vấn đề nào mà theo ông, có thể đe doạ việc duy trì hoà bình và an ninh quốc tế (Điều 99). * Trong khi thực thi nhiệm vụ của mình, Tổng thư ký và các nhân viên không được tìm kiếm hay chấp nhận những chỉ thị của bất cứ một chính phủ nào hoặc của một cơ quan quyền lực nào ngoài Liên hợp quốc. Tổng thư ký và các nhân viên không được hành động trái với địa vị viên chức quốc tế của họ và chỉ chịu trách nhiệm trước Liên hợp quốc (Điều 100, khoản 1). * Tổng thư ký bổ nhiệm các nhân viên của mình theo những quy định do Đại hội đồng xác lập (Điều 101, khoản 1). * Một số nhân viên thích hợp được bổ nhiệm để phục vụ thường trực Hội đồng Kinh tế - Xã hội, Hội đồng Quản thác và nếu cần, các cơ quan khác của Liên hợp quốc. Số nhân viên này thuộc biên chế cơ quan Tổng thư ký (Điều 101, khoản 2). Trợ giúp Tổng thư ký gồm: - Phó Tổng thư ký; - Các trợ lý Tổng thư ký; - Các vụ, phòng, ban do các quan chức cao cấp chịu trách nhiệm trực tiếp với Tổng thư ký: + Văn phòng Tổng thư ký; + Vụ các vấn đề của Đại hội đồng và phục vụ hội nghị; + Vụ các vấn đề chính trị; + Vụ giải trừ quân bị (hiện đang trong quá trình tái cơ cấu); + Vụ về các hoạt động gìn giữ hoà bình (hiện đang trong quá trình tái cơ cấu); + Văn phòng pháp lý; + Vụ kinh tế, xã hội; + Phòng về các vấn đề phối hợp và nhân đạo; + Vụ thông tin; + Vụ quản trị; + Phòng dịch vụ nội bộ. - Các quan chức cao cấp khác: + Điều phối viên về an ninh Liên hợp quốc; + Giám đốc điều hành chương trình Irắc; + Điều phối viên về cải tổ Liên hợp quốc;  + Điều phối viên về các hoạt động nhân đạo cho Irắc. Ngoài ra Tổng thư ký còn cử các đặc phái viên, đại diện cho mình theo các nước, khu vực như: châu Phi, Ăngôla, Cămpuchia, Crôatia, Irắc, Trung Đông... 6.4. Các Tổng thư ký Liên hợp quốc từ khi tổ chức này được thành lập * Trygve Lie, Na Uy, nhậm chức ngày 2/2/1946 * Dag Hammarskjold, Thuỵ Điển, nhậm chức ngày 10/4/1953 * U Thant, Mianma, nhậm chức ngày 3/11/1961 * Kurt Waldheim, Áo, nhậm chức ngày 22/12/1971 * Javier Perez De Cuillar, Pê-ru, nhậm chức ngày 15/12/1981 * Boutros Boutros Ghali, Ai Cập, nhậm chức ngày 1/1/1992 * Kofi Annan, Gana, nhậm chức ngày 1/1/1997 * Ban Ki-moon, Hàn Quốc, nhậm chức ngày 1/1/2007 7. Hội đồng Nhân quyền Liên hợp quốc Năm 2005, Hội nghị thượng đỉnh Liên hợp quốc (LHQ) quyết định thay thể Uỷ ban Nhân quyền (thành lập năm 1946) (UBNQ) bằng Hội đồng Nhân quyền (HĐNQ) mới trong nỗ lực để đưa vấn đề nhân quyền trở thành một trong ba trụ cột chính của LHQ cùng với hoà bình an ninh và phát triển. Theo nghị quyết A/60/251 được ĐHĐ thông qua ngày 16/3/2006, Hội đồng Nhân quyền là một cơ quan trực thuộc ĐHĐ với quy chế sẽ được ĐHĐ xem xét lại sau 5 năm. HĐNQ bao gồm 47 thành viên (Châu Á: 13 ghế, Châu phi 13, Đông Âu 6, Mỹ Latinh và Ca-ri-bê 8, phương Tây 7) so với 53 của UBNQ trước đây và trở thành một cơ quan trực thuộc và báo cáo trực tiếp lên ĐHĐ. Để được bầu làm thành viên HĐNQ, phải được sự chấp thuận thông qua bỏ phiếu kín của đa số thành viên (trên 96 phiếu thuận ). Khác với UBNQ trước đây thành viên HĐNQ được giới hạn 2 nhiệm kỳ liên tiếp và có thể bị đình chỉ nếu 2/3 ĐHĐ LHQ tán thành. HĐNQ họp ít nhất là 4 phiên và không dưới 10 tuần. HĐNQ có thể triệu tập phiên họp đặc biệt nhằm đối phó với tình hình khẩn cấp khi có được sự chấp thuận ít nhât 1/3 thành viên. Về chức năng, cơ bản HĐNQ kế thừa các chức năng của UBNQ trước đây. Ngoài ra theo nghị quyết A/60/251, trong năm đầu tiên, HĐNQ có nhiệm vụ phải ra soát, cải tiến và hợp lý hoá các cơ chế, nhiệm vụ và chức năng của UBNQ, đồng thời xây dựng một cơ chế mới là Kiểm điểm định kỳ tình hình thực hiện nhân quyền của các nước trên thế giới (UPR). III. VIỆT NAM VÀ LIÊN HỢP QUỐC Việt Nam chính thức gia nhập Liên hợp quốc ngày 20/9/1977. Kể từ khi gia nhập Liên hợp quốc, quan hệ của Việt Nam với Liên hợp quốc ngày càng được cải thiện và phát triển tốt hơn. Ngay sau khi tham gia Liên hợp quốc, Việt Nam đã tranh thủ được sự đồng tình và ủng hộ của các nước thành viên Liên hợp quốc để Đại hội đồng Liên hợp quốc khóa 32 (1977) thông qua Nghị quyết 32/2 kêu gọi các nước, các tổ chức quốc tế viện trợ, giúp đỡ Việt Nam tái thiết sau chiến tranh. Việt Nam cũng đã chủ động và tích cực phối hợp với các nước Không Liên Kết và đang phát triển để đấu tranh và bảo vệ các nguyên tắc cơ bản của Hiến chương Liên hợp quốc như nguyên tắc về bình đẳng chủ quyền, không can thiệp công việc nội bộ các nước, không sử dụng hay đe dọa sử dụng vũ lực..., đồng thời và bảo vệ lợi ích của các nước đang phát triển trong đó có Việt Nam. Mặt khác, chúng ta cũng tranh thủ được sự giúp đỡ về nguồn vốn, chất xám, kỹ thuật của Liên hợp quốc phục vụ cho công cuộc phát triển kinh tế–xã hội của đất nước. Liên hợp quốc trở thành một diễn đàn để Việt Nam triển khai các yêu cầu của chính sách đối ngoại. Vị thế và vai trò của Việt Nam tại Liên hợp quốc ngày càng được nâng cao. Sự phát triển của quan hệ Việt Nam và Liên hợp quốc có thể tạm chia thành các giai đoạn như sau: Giai đoạn từ 1977-1991: Chịu tác động của Chiến tranh lạnh, nhìn chung quan hệ giữa Việt Nam và Liên hợp quốc còn ở mức hạn chế. Về chính trị, vai trò và vị thế của Việt Nam tại Liên hợp quốc bị hạn chế do bối cảnh Chiến tranh lạnh. Về kinh tế, mặc dù phải chịu nhiều khó khăn do bao vây cấm vận, Việt Nam vẫn tranh thủ được các nguồn lực từ viện trợ trực tiếp không hoàn lại của hệ thống phát triển của Liên hợp quốc, với tổng trị giá trên 500 triệu đô-la Mỹ. Các tổ chức chuyên môn thuộc hệ thống phát triển của Liên hợp quốc đã góp phần giúp Việt Nam khắc phục những khó khăn kinh tế–xã hội, hậu quả chiến tranh, thiên tai, hỗ trợ giải quyết các vấn đề xã hội nhất là trong các lĩnh vực y tế, giáo dục chăm sóc bảo vệ bà mẹ trẻ em và kế hoạch hoá gia đình, tạo điều kiện cho ta nâng cao trình độ công nghệ và thúc đẩy tiến bộ về khoa học–kỹ thuật, góp phần phục hồi và xây dựng mới một số cơ sở sản xuất, tăng cường năng lực phát triển. Giai đoạn từ 1991 đến nay: Đặc trưng của giai đoạn này là việc Việt Nam tham gia tích cực và chủ động hơn trên nhiều lĩnh vực liên quan đến hoà bình an ninh, giải trừ quân bị cũng như phát triển kinh tế xã hội, dân số và bảo vệ môi trường là những chủ đề chíng trong chương trình nghị sự của Liên hợp quốc. Sự tham gia đóng góp và vị thế của Việt Nam tại Liên hợp quốc được từng bước cải thiện và nâng cao cả về chiều rộng và chiều sâu, phù hợp với chính sách đối ngoại độc lập tự chủ, rộng mở, đang phương hóa, đa dạng hóa các quan hệ quốc tế, sẵn sàng là bạn là đối tác tin cậy của các nước. Lần đầu tiên, ta đã tham gia vào một số chức vụ và ứng cử vào một số cơ quan của Liên hợp quốc như là Phó Chủ tịch Đại Hội đồng Liên hợp quốc năm 1997, 2000 và 2003, là thành viên Hội đồng Kinh tế-Xã hội (1997-2000), Chủ tịch Đại Hội đồng Tổ chức Nông Lương khoá 33, thành viên Uỷ ban Nhân quyền (2001-2003), Hội đồng Chấp hành Chương trình Phát triển và Quỹ Dân số LHQ (2000-2002), Hội đồng Thống đốc Cơ quan Năng lượng Nguyên tử Quốc tế (1991-1993, 1997-1999 và 2003-2005), Hội đồng điều hành Liên minh Bưu chính Thế giới (1999-2004), Liên minh Viễn thông Quốc tế (1994-1998, 1998-2002, 2002-2006).... Đặc biệt, trong khoá họp thứ 62 Đại Hội đồng Liên hợp quốc, Việt Nam đã được bầu vào cương vị thành viên không thường trực Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc nhiệm kỳ 2008-2009 với số phiếu rất cao (183/190 phiếu hợp lệ). Về an ninh giải trừ quân bị : Việt Nam đã tích cực tham gia vào quá trình thương lượng và là thành viên chính thức của Công ước Cấm Vũ khí Hoá học (CWC) năm 1998, ký Hiệp ước Cấm thử hạt nhân toàn diện (CTBT) năm 1996 và phê chuẩn Hiệp ước này năm 2006, đã tham gia và đã trở thành thành viên của Hội nghị Giải trừ Quân bị (CD) từ 17/6/1996, hiện đang chuẩn bị ký Nghị định thư bổ sung Hiệp định bảo đảm hạt nhân với Cơ quan năng lượng nguyên tử quốc tế. Hàng năm, Việt Nam tham gia đều đặn vào Cơ chế Đăng kiểm Vũ khí thông thường của Liên hợp quốc nhằm thực hiện một trong các biện pháp xây dựng lòng tin với các nước và làm tốt nghĩa vụ thành viên của Liên hợp quốc. Về hợp tác phát triển: Trọng tâm mới của Liên hợp quốc tại Việt Nam được thể hiện trong UNDAF (đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt tại văn bản số 603/TTg-QHQT ngày 16/5/2005). Đây là tài liệu định hướng chung cho các hoạt động của các tổ chức Liên hợp quốc tại Việt Nam, trên cơ sở các định hướng ưu tiên của Việt Nam đề ra trong Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2001-2010, Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 2006 - 2010, Chiến lược toàn diện về tăng trưởng và xoá đói, giảm nghèo (CPRSG)..., đồng thời phù hợp với những lĩnh vực mà các tổ chức Liên hợp quốc quan tâm và có thế mạnh, trong đó có ưu tiên tập trung là việc phấn đấu đạt các Mục tiêu phát triển Thiên niên kỷ (MDGs). Hiện nay, hướng ưu tiên hợp tác giữa Việt Nam và các tổ chức Liên hợp quốc được thể hiện bằng việc đạt được 3 mục tiêu chính nêu trong UNDAF là: xây dựng các chính sách kinh tế hỗ trợ quá trình tăng trưởng mang tính công bằng, hoà nhập và bền vững; nâng cao chất lượng cung cấp các dịch vụ xã hội và an sinh xã hội và tính công bằng trong việc tiếp cận các dịch vụ này; các chính sách, luật pháp và cơ cấu quản trị quốc gia hỗ trợ một cách có hiệu quả cho sự phát triển dựa trên quyền để thực hiện các giá trị và mục tiêu của Tuyên bố Thiên niên kỷ. Liên hợp quốc đánh giá cao hoạt động ngày càng tích cực của ta tại Liên hợp quốc. Các hoạt động gặp gỡ cấp cao của ta với Liên hợp quốc đã diễn ra thường xuyên hơn. Nhân dịp Liên hợp quốc kỷ niệm 50 năm thành lập, ta đã tặng Liên hợp quốc phiên bản Trống Đồng Ngọc lũ, hiện được đặt trang trọng tại Trụ sở của Liên hợp quốc. Tại Liên hợp quốc, các hoạt động của ta liên quan đến Phong trào Không Liên Kết và ASEAN cũng ngày càng được tăng cường. Tháng 5/2006, Tổng Thư ký Liên hợp quốc Cô-phi Annan tới thăm Việt Nam. Hiện ta là một trong 8 nước triển khai thí điểm sáng kiến «Một LHQ» ở cấp độ quốc gia- một nội dung về cải tổ được LHQ ./.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docxThông tin cơ bản về liên hiệp quốc và quan hệ với việt nam.docx