In recent years, Universities of Education in the whole country have been trying to take measures
to improve the training quality of future teachers (Ts) for educational facilities. Therefore, the
professional pedagogic training (PPT) must be considered as one of the most important steps that
underlie the formation of new humans with dynamics and creation and availability of direction of
sustainable professional development. Teaching capacity formed and developed is not only
lectures on psychology or education, but also trained in systematic practicing environment, depth
expertise under the training program, process and certain standard environment that is a
department of the pedagogic profession at university of Education
8 trang |
Chia sẻ: yendt2356 | Lượt xem: 382 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem nội dung tài liệu Phòng rèn luyện nghiệp vụ sư phạm với việc hình thành năng lực nghiệp vụ sư phạm cho sinh viên, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Nguyễn Mậu Đức Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 121(07): 41 - 48
41
PHÒNG RÈN LUYỆN NGHIỆP VỤ SƯ PHẠM VỚI VIỆC HÌNH THÀNH
NĂNG LỰC NGHIỆP VỤ SƯ PHẠM CHO SINH VIÊN
Nguyễn Mậu Đức*
Trường Đại học Sư phạm - ĐH Thái Nguyên
TÓM TẮT
Trong những năm qua, các trường Đại học Sư phạm trong cả nước đã và đang cố gắng đưa ra
những biện pháp nâng cao chất lượng đào tạo giáo viên (GV) tương lai cho các cơ sở giáo dục.
Chính vì lẽ đó mà việc rèn luyện nghiệp vụ sư phạm (RLNVSP) phải được coi là một trong những
khâu quan trọng nhất làm nền tảng cho việc hình thành con người mới năng động và sáng tạo và
có hướng phát triển nghề nghiệp bền vững. Việc hình thành và phát triển năng lực sư phạm không
chỉ qua những bài giảng về tâm lý hay giáo dục học, mà còn được rèn luyện trong môi trường thực
hành nghề mang tính hệ thống, chuyên môn sâu theo chương trình đào tạo, quy trình và môi
trường chuẩn mực nhất định, đó là phòng nghiệp vụ sư phạm ở trường sư phạm.
Từ khóa: nghiệp vụ, nghiệp vụ sư phạm, sinh viên, năng lực, trường đại học sư phạm
ĐẶT VẤN ĐỀ*
Nghề sư phạm là một nghề mang tính chuyên
nghiệp với những kỹ năng sư phạm riêng (kỹ
năng giảng dạy và giáo dục học sinh). Những
kỹ năng này được hình thành và phát triển
trong suốt quá trình đào tạo ở trường sư phạm
và tiếp tục hoàn thiện dần trong quá trình hoạt
động nghề nghiệp. Phòng RLNVSP hướng
đến hình thành cả năng lực chuyên môn lẫn
năng lực sư phạm (SP). Việc trang bị hệ
thống tri thức chuyên môn và rèn luyện kỹ
năng SP, giáo dục nghệ thuật làm thầy là
những vấn đề cực kỳ quan trọng, cần phải
được tiến hành trong suốt 4 năm học ở trường
Đại học Sư phạm.
Trong thực tế những phòng nghiệp vụ sư
phạm (NVSP) này chưa theo một quy chuẩn
nào và cho đến hiện nay cũng chưa có tiêu
chuẩn thiết kế cụ thể cho loại phòng học
mang tính chuyên sâu để hình thành tay nghề
cho sinh viên (SV). Nếu đối chiếu với yêu cầu
và chức năng của một phòng RLNVSP thì
hầu như chưa có phòng RLNVSP theo đúng
nghĩa, mà có chăng mới chỉ là phòng bộ môn
phương pháp với trang thiết bị tối thiểu và
giản đơn.
Thực hành RLNVSP cho SV đóng vai trò
quan trọng trong quá trình hình thành năng
lực nghề và cần thiết tiến hành thường xuyên
* Tel: 0983 834724, Email: mauducsptn@gmail.com
liên tục và trong những điều kiện tập luyện
tốt. Trên thực tế các cuộc khảo sát qua đợt
thực tập tốt nghiệp của SV hằng năm cho thấy
SV của trường ĐHSP có kiến thức vững chắc
về các môn khoa học cơ bản và phương pháp
giảng dạy môn học, song kĩ năng SP vẫn còn
những hạn chế nhất định, chưa đáp ứng được
ngay với những yêu cầu của thực tiễn giáo
dục mà nguyên nhân ít được thực hành trước
đó. Để góp phần nâng cao chất lượng đào
tạo thì phòng RLNVSP giúp SV nhanh
chóng tiếp cận với thực tế nghề nghiệp và
thực hành luyện tập một số kĩ năng dạy học,
giáo dục trước khi đi thực tập dưới trường
phổ thông [4]
NHỮNG PHẨM CHẤT VÀ NĂNG LỰC
NGHIỆP VỤ SƯ PHẠM CẦN PHÁT TRIỂN
Ở NGƯỜI GIÁO VIÊN
Khái niệm “nghiệp vụ” và “nghiệp vụ sư
phạm”
“Nghiệp vụ thường được hiểu là công việc
chuyên môn của một nghề xác định ”(Trần Bá
Hoành). Nghiệp vụ thể hiện tính chuyên biệt
của một nghề so với những nghề khác, đòi hỏi
tính chuyên nghiệp khi thực hiện hoạt động
của nghề cụ thể.
“Nghiệp vụ sư phạm là hoạt động dạy học và
giáo dục (nghĩa hẹp) học sinh của nhà giáo” .
“Nghiệp vụ sư phạm là công việc chuyên môn
của người làm “nghề dạy học”. Khả năng
Nguyễn Mậu Đức Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 121(07): 41 - 48
42
thực hiện công việc chuyên môn đó với một
chất lượng nhất định gọi là năng lực nghề
nghiệp. Người có năng lực nghề nghiệp hay
năng lực sư phạm hay năng lực nghiệp vụ sư
phạm là người biết vận dụng linh hoạt, sáng
tạo vốn kinh nghiệm cá nhân vào giải quyết
tốt các nhiệm vụ giáo dục, dạy học trong các
hoàn cảnh, các điều kiện cụ thể của nhà
trường. Rèn luyện NVSP cho SV cần phải đặt
ra một cái đích nào đấy thuộc về năng lực [2].
Rèn luyện nghiệp vụ sư phạm
Rèn luyện là một quá trình tập luyện, thực hành
một cách có hệ thống những kĩ năng chuyên
môn, nghiệp vụ cần thiết của một nghề [2].
"Rèn luyện là luyện tập nhiều trong thực tế để
đạt tới những phẩm chất hay trình độ vững
vàng, thông thạo". Muốn rèn luyện một năng
lực nào đó, một phẩm chất nào đó phải tiếp
xúc với thực tế, làm lại nhiều lần các thao tác
cụ thể. Phẩm chất ấy, năng lực ấy có thể được
hình thành, nảy sinh trong quá trình học tập.
Song muốn đạt được một trình độ vững vàng,
một phẩm chất bền vững, ổn định thì người
học phải thường xuyên được luyện tập trong
thực tế.
Theo đó, "Rèn luyện nghiệp vụ sư phạm là
một quá trình, trong đó SV được luyện tập,
thực hành một cách có hệ thống những kỹ
năng sư phạm cần thiết của một nhà giáo
tương lai; đồng thời củng cố, đào sâu, mở
rộng những tri thức về chuyên môn nghiệp vụ
và bồi dưỡng tình cảm, thái độ đối với nghề
giáo dục"[2].
Năng lực nghiệp vụ sư phạm[2],[4]
Người giáo viên vừa tốt nghiệp trường Đại
học Sư phạm, khoa Sư phạm của các trường
Đại học khác, hoặc trường Cao đẳng Sư phạm
và mới bắt đầu làm nhiệm vụ ở cấp THPT
hoặc cấp THCS cần luôn liên hệ đối chiếu
bản thân với những yêu cầu về phẩm chất và
năng lực NVSP của người giáo viên, đó là :
+ Có kiến thức kỹ năng cơ bản về tâm lí học,
giáo dục học, phương pháp dạy học, biết vận
dụng vào dạy học - giáo dục (DH - GD) ở
trường THPT hoặc THCS.
+ Nắm vững mục tiêu, chương trình, kế hoạch
dạy học của cấp THPT hoặc THCS và của
môn học, biết các quy định, chủ trương chỉ thị
hiện hành của Bộ, của Sở Giáo dục và Đào
tạo về công tác DH - GD ở trường THPT
hoặc THCS.
+ Biết chẩn đoán nhu cầu, đặc điểm đối tượng
dạy học của mình để thiết kế kế hoạch DH -
GD phù hợp.
+ Biết lập kế hoạch DH - GD: nghiên cứu
mục tiêu, nội dung chương trình sách giáo
khoa, dựa vào đặc điểm đối tượng đã khảo sát
để lập kế hoạch phù hợp, khả thi, có thể kiểm
soát được, đánh giá được; bản kế hoạch có
định rõ các điều kiện (đầu vào) và sản phẩm
(đầu ra) cùng với các họat động (có định rõ
tiến độ và phân công trách nhiệm).
+ Biết tổ chức thực hiện kế hoạch DH - GD:
Bước đầu có kỹ năng vận dụng các tri thức
khoa học và khoa học giáo dục đã được đào
tạo, biết lựa chọn phối hợp và vận dụng hợp lí
phù hợp với hoàn cảnh và điều kiện, biết sử
dụng đồ dùng dạy học, thí nghiệm và các
phương tiện kỹ thuật dạy học hiện đại, biết
phát triển năng lực học tập của học sinh, biết
tư vấn cho học sinh xây dựng các kế hoạch
học tập, cải tiến phương pháp học tập, góp
phần giáo dục hướng nghiệp, biết quản lí các
họat động DH - GD được giao, bảo đảm kế
hoạch đề ra được triển khai đầy đủ, được điều
chỉnh khi cần thiết, biết cách cuốn hút sự
tham gia của các lực lượng giáo dục trong và
ngoài nhà trường, biết khích lệ động viên và
giúp đỡ các HS đóng góp vào tiến bộ chung
của lớp, của trường.
+ Biết cách giám sát, đánh giá kết quả các
hoạt động DH - GD. Nắm được các phương
pháp kĩ năng đánh giá chính xác, công bằng
kết quả học tập của học sinh. Biết phát triển
năng lực đánh giá và đánh giá lẫn nhau trong
HS, giúp các em tự điều chỉnh cách học tập
rèn luyện.
Biết tự đánh giá kết quả DH - GD của bản
thân và điều chỉnh cách DH-GD cho hợp lí.
Nắm vững các phương pháp kiểm tra truyền
Nguyễn Mậu Đức Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 121(07): 41 - 48
43
thống, biết vận dụng một số phương pháp
kiểm tra hiện đại trên các thiết bị thông tin.
+ Bước đầu giải quyết những vấn đề nảy sinh
trong thực tiễn DH - GD bằng con đường
nghiên cứu khoa học và tổng kết kinh
nghiệm. Có kĩ năng phát triển, nhận dạng nắm
được cách phát triển vấn đề cần giải quyết
thành đề tài nghiên cứu, biết xây dựng giả
thiết khoa học, xây dựng đề cương nghiên
cứu, bố trí điều tra nghiên cứu cơ bản, thực
nghiệm sư phạm, xử lí kết quả điều tra và thực
nghiệm, báo cáo khoa học, ứng dụng triển khai
kết quả nghiên cứu, đúc rút kinh nghiệm.
+ Có năng lực hoạt động nhóm: Biết phối hợp
với đồng nghiệp, biết xây dựng tập thể các
đồng nghiệp.
CHỨC NĂNG CỦA PHÒNG RÈN LUYỆN
NGHIỆP VỤ SƯ PHẠM ĐỐI VỚI VIỆC
HÌNH THÀNH NĂNG LỰC NGHIỆP VỤ
SƯ PHẠM CHO SINH VIÊN [2],[3]
Như trên đã trình bày, năng lực được hình
thành và phát triển trong một môi trường hoạt
động nhất định. Song ngoài chương trình đào
tạo rèn luyện nghiệp vụ sư phạm, người
hướng dẫn thì môi trường (môi trường
phòng/ lớp, trang thiết bị cơ sở vật chất, môi
trường tâm lí của sinh viên và giảng viên sư
phạm) cũng tạo nên những điều kiện cần
thiết để sinh viên có cơ hội thực hành, trải
nghiệm, rèn luyện tay nghề dạy học và giáo
dục theo nhiều cách khác nhau.
Phòng rèn luyện nghiệp vụ sư phạm là một
phòng chuyên môn, mà ở đó giảng viên và
sinh viên thực hiện những nhiệm vụ nhất
định. Do đó phòng rèn luyện nghiệp vụ sư
phạm có những chức năng giúp sinh viên:
+ Làm một bộ phận giúp thực hiện chương
trình RLNVSP cho SV nhằm hình thành
phẩm chất và năng lực nghề nghiệp cho SV
sư phạm. Phòng RLNVSP ở trường sư phạm
kết hợp trường mầm non, phổ thông theo mô
hình liên kết đào tạo như dạy học, dự giờ,
sinh hoạt chuyên môn trực tuyến. Các phòng
học có kết cấu chuyên biệt sao cho sinh viên
có thể quan sát được hoạt động giữa giáo viên
và học sinh, học sinh với học sinh trong quá
trình tương tác. Có thể quan sát các hoạt động
dạy và học của học sinh và giáo viên, mối
quan hệ tương tác giữa thầy – trò; trò – trò với
nhau: những biểu hiện tâm lý của học sinh
trong quá trình họat động, những thao tác của
học sinh trong quá trình thực hiện nhiệm vụ,
những hành động dạy học của giáo viên, quan
hệ giao tiếp Trong quá trình quan sát đối
tượng giáo dục dần hình thành cho sinh viên
kĩ năng quan sát và hiểu đối tượng dạy học và
giáo dục.
+ Tổ chức thực hiện các hoạt động SP mang
tính thực tiễn cho SV, giúp hiểu sâu sắc hơn
lý thuyết được học (trong tâm lý học, giáo
dục học, phương pháp giảng dạy bộ môn)
và hình thành kĩ năng cần thiết của GV (quan
sát, tìm hiểu đối tượng, nhận dạng các tình
huống SP và cách xử lí).
+ Nghiên cứu các tài liệu tham khảo (sổ ghi
đầu bài, giáo án, kế hoạch của lớp, nhật kí
hàng ngày của lớp, sáng kiến kinh nghiệm, kế
hoạch tổ chức hoạt động giáo dục, sách giáo
khoa và sách giáo viên, các công trình nghiên
cứu khoa học hoặc luận văn tốt nghiệp, luận
văn cao học, các bài tập đánh giá).
+ Có những điều kiện để nghiên cứu bài học,
nghiên cứu những tài liệu tham khảo chuyên
môn. Từ đó sinh viên có thể tập lập kế hoạch
dạy học và giáo dục dưới sự hỗ trợ giúp đỡ
của giảng viên, chuẩn bị giáo án hay kế hoạch
hoạt động giáo dục, tùy theo mục đích đặt ra.
Vào đây, sinh viên có những tài liệu tham
khảo, trao đổi với bạn bè và chuẩn bị giáo án
cho chính mình.
+ Tập soạn giáo án và chuẩn bị đồ dùng dạy
học cho tiết dạy. Ở đây, có luyện cách soạn
giáo án của các môn học, các loại tiết.
+ Chuẩn bị những điều kiện để dạy học hay tổ
chức họat động GD như: chuẩn bị và làm đồ
dùng dạy học, tập sử dụng đồ dùng dạy học,
các tài liệu ấn phẩm, tranh/ ảnh, các vật liệu,
luyện cách sử dụng dụng cụ thí nghiệm và
Nguyễn Mậu Đức Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 121(07): 41 - 48
44
phối kết hợp với việc trình bày diễn giải hay
ra câu hỏi thảo luận, luyện cách viết bảng, tập
sử dụng các thiết bị nghe nhìn hiện đại.
+ Tập giảng và rèn luyện các kĩ năng cụ thể
như: kĩ năng trình bày bảng và lời nói; kĩ
năng giao tiếp SP; kĩ năng ra câu hỏi; kĩ năng
sử dụng phương tiện, đồ dùng trong dạy học,
kĩ năng kết hợp giảng dạy với sử dụng đồ
dùng thiết bị dạy học, kĩ năng đánh giá học
sinh, kĩ năng tổ chức thảo luận nhóm
+ Thực hành giảng dạy, đóng vai trước khi đi
xuống thực tập tốt nghiệp tại trường mầm
non, phổ thông. Việc thực hành giảng dạy kết
hợp ghi hình theo phương pháp nghiên cứu
bài học để sinh viên có thể nghiên cứu, xem
lại băng hình, trao đổi sinh hoạt chuyên môn
sau giờ dạy, rút kinh nghiệm sau giờ dạy.
Việc ghi hình giúp cho sinh viên và giảng
viên có cơ hội xem lại, phân tích sâu sắc những
thành công và bài học rút kinh nghiệm – là điều
kiện để sinh viên tập luyện trước khi thực tập tốt
nghiệp tại trường mầm non, phổ thông.
Xét từ khía cạnh môn học, ngành học hay bậc
học cho thấy: mỗi khoa học và phương pháp
giảng dạy môn học có những đặc điểm riêng:
có những môn đòi hỏi việc giảng giải kết hợp
với làm thí nghiệm, thực nghiệm (môn hóa
học, vật lí học, sinh học) nhưng có những
môn học có liên quan nhiều đến việc sử dụng
mẫu vật, tranh ảnh, thậm chí cả trang thiết bị
nghe nhìn như: xem phim, xem video, nghe
băng nhạc (môn lịch sử, địa lí, văn học, âm
nhạc). Vì vậy mà phòng rèn luyện nghiệp
vụ sư phạm cho sinh viên của từng khoa
(khoa học tự nhiên, khoa học xã hội, giáo dục
tiểu học, giáo dục mầm non) có những yêu
cầu và tiêu chuẩn khác biệt, phù hợp với công
tác đào tạo nhằm hình thành tay nghề của
giáo viên một cách phù hợp.
Việc nghiên cứu cơ sở thực tiễn của chương
trình RLNVSP, cũng như họat động RLNVSP
đang thực hiện tại trường ĐHSP cho thấy bức
tranh tổng thể về RLNVSP hiện nay ở trường
ĐHSP cũng như cách thức tổ chức và hướng
dẫn SV thực hành, thực tập tại trường, trước
khi xuống trường phổ thông. Ai cũng đều
nhận thức đúng đắn về họat động RLNVSP
nhằm hình thành các kĩ năng nghề nghiệp cho
SV là cần thiết. Có thể nói RLNVSP làm tốt
bao nhiêu, thì “tay nghề” của các GV tương
lai sẽ tốt bấy nhiêu. Để làm được việc thực
hành nghề của SV cần làm đúng, đủ và sáng
tạo đối với những vấn đề đã được học trong
chương trình RLNVSP. Bên cạnh đó, SV cần
được tiếp cận với các phương pháp và kĩ thuật
dạy học hiện đại, còn chưa đưa kịp vào
chương trình đào tạo NVSP như: kĩ thuật dạy
học vi mô, dạy học theo dự án, dạy học theo
hợp đồng, dạy học theo góc; kĩ thuật các
mảnh ghép, kĩ thuật khăn trải bản Đây là
những phương pháp và kĩ thuật dạy học mà
các dự án của Bộ GD-ĐT đã triển khai nhằm
trang bị cho đội ngũ GV của nhiều trường phổ
thông và SP. Nếu không nắm bắt kịp thời
những phương pháp và kĩ thuật dạy học mới
này thì dù SV của chúng ta mới tốt nghiệp
vẫn luôn đi sau, lạc hậu với thực tế đổi mới ở
các trường PT.
Qua quá trình chúng tôi điều tra cũng cho
thấy cần có sự đầu tư thỏa đáng về cơ sở vật
chất, kĩ thuật cũng như nguồn lực con người
để phòng RLNVSP đó có thể thực hiện được
chức năng, nhiệm vụ đã được xác định. Đây
cũng chính là yêu cầu của GVSP cũng như
SV của các khoa đào tạo GV mầm non, GV
tiểu học và GV trung học. Phòng RLNVSP
cần có: một đội ngũ cán bộ có chuyên môn
sâu và có trình độ, kĩ năng nghiệp vụ SP tinh
thông, vững vàng để có thể đảm nhận việc rèn
luyện kĩ năng nghề cho SV. Bên cạnh đó, cần
có đầy đủ các trang thiết bị cần thiết: phòng
thực hành với hệ thống nghe nhìn, tài liệu,
thiết bị thí nghiệm để tạo điều kiện thuận
lợi nhất cho việc RLNVSP của từng cá nhân
và tập thể nhóm SV, phù hợp với đặc thù
nghề SP nói chung và đặc thù đào tạo GV cho
từng bậc học, cấp học hay GV bộ môn giảng
dạy nói riêng.
Nguyễn Mậu Đức Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 121(07): 41 - 48
45
MỘT SỐ YÊU CẦU VÀ TIÊU CHUẨN (DỰ
KIẾN) CỦA PHÒNG RÈN LUYỆN
NGHIỆP VỤ SƯ PHẠM ĐỐI VỚI VIỆC
HÌNH THÀNH NĂNG LỰC NGHIỆP VỤ
SƯ PHẠM CHO SINH VIÊN
- Phòng RLNVSP phải là nơi giúp SV thực
hành những họat động mang tính nghiệp vụ
nhằm rèn luyện năng lực sư phạm.
- Phòng RLNVSP phải đảm bảo đủ diện tích
cần thiết và những trang thiết bị phù hợp để
SV có thể thực hiện các hoạt động RLNVSP.
- Phòng RLNVSP phải đảm bảo tính sư
phạm, tính giáo dục và tính thực hành cho SV
trường đại học sư phạm
Chính vì những chức năng riêng biệt, khác
với các phòng học bình thường, nên phòng
rèn luyện NVSP cần có cấu trúc không gian
với những tiêu chuẩn riêng về trang thiết bị và
đồ dùng chuyên biệt. Có thể nói phòng rèn
luyện NVSP cần đảm bảo theo những tiêu
chuẩn kĩ thuật nhất định nhằm thực hiện được
chức năng rèn luyện kĩ năng tay nghề cho
sinh viên sư phạm để sau khi tốt nghiệp, họ
có được những kĩ năng cơ bản của người GV,
nhanh chóng tham gia vào hoạt động nghề
giáo dục.
Về không gian
- Về phòng/ lớp có không gian đủ rộng để
sinh viên và giảng viên có thể tổ chức họat
động thoải mái và thuận tiện, phù hợp với
mục đích rèn luyện;
- Không gian đủ rộng phù hợp với số lượng
học sinh và giáo viên, tạo một không gian như
một lớp học bình thường.
- Nếu có thể có 2 – 3 phòng riêng biệt để
người ngồi quan sát (bên ngoài) hoặc thực
hiện những công việc khác mà không ảnh
hưởng đến họat động dạy học của học sinh và
giáo viên khi tiến hành tiết học.
Về trang thiết bị, đồ dùng dạy học.
Bục giảng điện tử cho giáo viên
1) Giúp GV quản lý lớp học, tạo bài giảng
tương tác, đánh giá và kiểm tra trắc nghiệm
qua các phần mềm: quản lý việc học của
người học ActivInspire 1.6; Giảng dạy trực
tuyến Come To Live; Sách giáo khoa điện tử.
2) Giúp GV kết nối máy chiếu, bảng tương tác
và máy tính của sinh viên một cách dễ ràng.
3) Tổ chức học tập thể, học nhóm, học cá
nhân theo yêu cầu của GV; Giảng viên có thế
kiểm tra và đánh giá việc sinh viên đang học
hay làm việc riêng và yêu cầu từng sinh viên
làm bài tập và nộp lại cho GV thông qua
bục giảng này.
4) GV hỏi và trả lời câu hỏi cho từng SV mà
không làm ảnh hưởng các SV khác; Sinh viên
có thể đặt câu hỏi cho giáo viên trả lời cho cá
nhân mình hay cả nhóm, tập thể cũng đều
thông qua bục giảng này.
Máy tính giáo viên cài đặt các phần mềm: tạo
bài giảng tương tác, giảng dạy trực tuyến,
sách giáo khoa điện tử, hệ thống quản lý việc
học (learning management system LMS)
Bảng tương tác
1) Hiển thị thông tin từ bục giảng của GV.
2) Là một thiết bị thông minh có thể viết, vẽ
đồ họa, soạn thảo văn bản, giáo án điện tử,
mô hình ứng dụng trong các môn học một
cách trực quan và sinh động sau đó có thể ghi
lại toàn bộ tư liệu đã được thiết kế để phục vụ
cho giờ giảng lần sau.
3) Cập nhật mạng Internet để hiển thị các
thông tin cần thiết phục vụ cho bài giảng của
GV qua sự kết nối giữa bảng tương tác và
bục giảng điện tử của giáo viên.
4) Là màn hình lớn 100 inch có thể hiển thị
video, các hình ảnh sống động giúp GV và
SV có cái nhìn trực quan hơn đều thông qua
thiết bị này.
Máy tính xách tay trang bị cho người học
1) Giúp SV thực hành luyện tập, trình bày lời
giải bài tập, lưu trữ thông tin bài giảng.
2) Máy tính xách tay dễ di chuyển để hướng
dẫn thực hành nhóm và chia nhóm
Nguyễn Mậu Đức Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 121(07): 41 - 48
46
3) Hiển thị và kết nối camera trực tuyến tại
các vị trí di động trong phòng học giúp giảng
viên quan sát và hướng dẫn SV học nhóm một
cách dễ dàng.
4) Thay thế các phòng thực hành tin học
hiện nay của Trường, vì hệ thống máy tính
của các phòng này được trang bị từ lâu đã
bị hỏng gần hết.
Máy chiếu cự ly gần
1) Hiển thị các thông tin từ các phần mềm
ứng dụng.
2) Hỗ trợ tăng kênh hình trong dạy học
3) Giúp SV có thể trình bày kết quả hoạt động
nhóm nhanh chóng trước lớp.
Bộ thiết bị kiểm tra trắc nghiệm
Các bài kiểm tra, bài trắc nghiệm được xem
như phương tiện để kiểm tra kiến thức, kĩ
năng trong dạy học một cách trực tiếp và biết
ngay kết quả của từng cá nhân trong lớp học
cũng như cả lớp học.
Máy chiếu vật thể hiển thị các vật thể với kích
thước tỷ lệ theo yêu cầu.
Hệ thống camera IP: thu hình ảnh và âm
thanh từ các nơi theo yêu cầu.
1) Có chức năng kết nối các giờ giảng từ các
trường mầm non, THCS, THPT, các trường
đại học, các phòng học với nhau nhờ thiết bị
bục giảng, bảng tương tác, máy chiếu...
2) Ghi lại 01 giờ giảng mẫu để thực hành cho
các bài học lần sau.
3) Giúp cho Phòng Thanh tra khảo thí và
phòng đào tạo kiểm tra giờ giảng và việc học
của SV một cách nhanh chóng, thuận tiện.
Bàn ghế sinh viên: có thể di động (ghế cá nhân).
Có thể tạo nhóm dễ dàng giúp GV sử dụng
các kỹ thuật dạy học tích cực (Dạy học hợp
tác, học theo góc, dạy học vi mô, )
Bảng viết phấn có ray trượt
1) Là bảng linh hoạt giúp cho GV, SV khi
không sử dụng thiết bị thông minh, thì có thể
quay về việc viết phấn theo kiểu truyền thống.
2) Là một loại bảng được thiết kế để có thể sử
dụng cả trình chiếu và cả viết phấn mà không
ảnh hưởng đến không gian của bảng.
Hệ thống thiết bị mạng và bộ phát sóng không dây
Mic không dây: Kết hợp với hệ thống loa, âm
ly để tăng âm cho phòng học.
Mic không dây đeo tai: Gắn vào tai không cần
sử dụng tay như micro.
Thiết bị kết nối mạng Lan; wifi: Kết nối mạng
Lan, wifi có tác dụng hỗ trợ dạy học:
+ Dạy học trên mạng tạo điều kiện cho
người học vượt qua “rào cản về thời gian và
không gian”.
+ Dạy học trên mạng giúp cho việc dạy học
vượt qua “rào cản liên quan đến đối tượng
học tập”.
+ Nhờ dạy học trên mạng người học có thể
vượt qua được “rào cản về tư liệu học tập”.
Camera di động, máy in, máy scanner
- Đồ dùng thí nghiệm, đồ dùng rèn luyện kĩ
năng (đàn, đồ dùng vẽ, thiết bị thí nghiệm lí,
hóa, sinh)
- Máy ảnh, máy quay, ghi băng hình, camera..
+ Ghi lại hình ảnh và âm thanh trong phòng học.
+ Giám sát hoạt động của sinh viên.
+ Chia sẻ, kết nối với hình thức đào tạo trực tuyến.
+ Ghi lại những thước phim tư liệu dạy học.
KẾT LUẬN
Xây dựng phòng rèn luyện nghiệp vụ cho sinh
viên sư phạm là cần thiết vì nó đóng vai trò
quan trọng trong quá trình rèn luyện nghiệp
vụ sư phạm, đào tạo sinh viên sư phạm trở
thành những giáo viên có trình độ chuyên
môn vững vàng, có tri thức lý luận và kỹ năng
sư phạm phong phú, có tinh thần độc lập, tự
chủ, sáng tạo trong giảng dạy cũng như trong
việc xử lý các tình huống giáo dục chung. Vì
vậy cần cấu trúc, thiết kế và trang bị cho các
phòng này các phương tiện, thiết bị và đồ
dùng dạy học phù hợp đảm bảo việc rèn luyện
tay nghề dạy học và giáo dục cho sinh viên
đạt hiệu quả cao, nhưng đồng thời cũng cần
chú ý đến những đặc thù riêng của bộ môn
khoa học mà giáo viên sẽ đảm nhận công việc
giảng dạy.
Nguyễn Mậu Đức Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 121(07): 41 - 48
47
Mô hình phòng học RLNVSP liên kết phòng học khác
Mô hình phòng rèn luyện NVSP
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Hướng dẫn rèn luyện nghiệp vụ sư phạm. Bộ
giáo dục và Đào tạo (1995)
2. Trường Đại học Sư phạm Hà Nội “Nâng cao
chất lượng nghiệp vụ sư phạm cho sinh viên các
trường Đại học Sư phạm ” – Kỷ yếu hội thảo
(2010)
3. Kỉ yếu Hội thảo khoa học: “Mục tiêu đào tạo và
Mô hình Đại học Sư phạm Việt Nam trong giai
đoạn mới”. Viện nghiên cứu giáo dục - ĐHSP
TPHCM tháng 5/2005.
4. Kỉ yếu Hội thảo khoa học:“Đào tạo nghiệp vụ
sư phạm tại các trường Đại học Sư phạm” Viện
nghiên cứu giáo dục - ĐHSP TPHCM tháng
4/2006.
Nguyễn Mậu Đức Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 121(07): 41 - 48
48
SUMMARY
DEPARTMENT OF THE PEDAGOGIC PROFESSION WITH FORMATION
OF THE PEDAGOGIC PROFESSIONAL CAPACITY FOR STUDENTS
Nguyen Mau Duc*
College of Education - TNU
In recent years, Universities of Education in the whole country have been trying to take measures
to improve the training quality of future teachers (Ts) for educational facilities. Therefore, the
professional pedagogic training (PPT) must be considered as one of the most important steps that
underlie the formation of new humans with dynamics and creation and availability of direction of
sustainable professional development. Teaching capacity formed and developed is not only
lectures on psychology or education, but also trained in systematic practicing environment, depth
expertise under the training program, process and certain standard environment that is a
department of the pedagogic profession at university of Education
Keywords: business, pedagogic, student, capacity, Universities of Education
Ngày nhận bài:07/4/2014; Ngày phản biện:14/4/2014; Ngày duyệt đăng:25/6/2014
Phản biện khoa học: TS. Nguyễn Thị Hà – Trường Đại học Sư phạm - ĐHTN
* Tel: 0983 834724, Email: mauducsptn@gmail.com
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- brief_48396_52311_792015101608_4156_2046511.pdf