Phát triển nông nghiệp sinh thái, hướng đi mới đối với sản xuất nông nghiệp

Nông nghiệp sinh thái là một hướng đi hoàn toàn mới cho những người nông dân, những nhà sản xuất nông nghiệp hiện đại. Nó không chỉ đem lại lợi ích kinh tế mà còn mang lại những giá trị to lớn về môi trường – một trong những giải pháp góp phần cải thiện môi trường sống của chúng ta hiện nay. Sản xuất nông nghiệp vốn đã mang trong nó bản chất sinh thái, sản xuất nông nghiệp muốn phát triển có hiệu quả và ổn định đương nhiên phải phù hợp với điều kiện đất đai, khí hậu, thời tiết, thuỷ văn, môi trường và quần thể sinh vật tạo nên hệ sinh thái nông nghiệp. Chính sự phù hợp đó làm cho cây trồng vật nuôi phát huy mọi ưu thế và tác động lẫn nhau để tồn tại và phát triển, đó là một nền nông nghiệp sinh thái hay cũng chính là nông nghiệp bền vững, một nền nông nghiệp sinh thái, hay bền vững đều mang lại hiệu quả kinh tế và hiệu quả xã hội. Nhưng ngược lại, một nền sản xuất nông nghiệp mang lại hiệu quả kinh tế cao, chưa chắc đã là một nền nông nghiệp sinh thái và bền vững nếu như nó không có tác động đến bảo vệ môi trường sinh thái.

pdf6 trang | Chia sẻ: hoant3298 | Lượt xem: 649 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Phát triển nông nghiệp sinh thái, hướng đi mới đối với sản xuất nông nghiệp, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Nguyễn Thị Thu Hà Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 112(12)/2: 103 - 108 103 PHÁT TRIỂN NÔNG NGHIỆP SINH THÁI, HƯỚNG ĐI MỚI ĐỐI VỚI SẢN XUẤT NÔNG NGHIỆP Nguyễn Thị Thu Hà Trường Đại học Sư phạm – ĐH Thái Nguyên Ngày nay chúng ta đang đứng trước nhiều vấn đề lớn như: vấn đề ô nhiễm môi trường, đất đai bạc màu, suy giảm đa dạng sinh học, bùng phát sâu bệnh, Nền nông nghiệp nước ta cũng đang đứng trước nhiều thách thức không nhỏ: năng suất thấp, sử dụng nhiều phân bón hóa học, thuốc trừ sâuđã gây ra nhiều vấn đề lớn đối với sức khỏe của con người, với xã hội Do đó, những nhà sản xuất nông nghiệp đã cố gắng tìm ra một nền nông nghiệp mới có thể đáp ứng được nhu cầu phát triển kinh tế xã hội một cách bền vững mà không làm ảnh hưởng đến môi trường sinh thái và sức khỏe, cuộc sống của con người, đó là nền “nông nghiệp sinh thái”. Từ khóa: Nông nghiệp sinh thái, sản xuất nông nghiệp. KHÁI NIỆM NỀN NÔNG NGHIỆP SINH THÁI * “Nền nông nghiệp sinh thái là nền nông nghiệp kết hợp hài hòa những cái ưu điểm, tích cực của hai nền nông nghiệp: nông nghiệp hóa học và nông nghiệp hữu cơ một cách hợp lý và có chọn lọc nhằm: thỏa mãn nhu cầu hiện tại nhưng không gây hại đến các nhu cầu của các thế hệ tương lai (nông nghiệp bền vững); thỏa mãn nhu cầu ngày càng tăng của con người về sản phẩm nông nghiệp, nghĩa là phải đạt năng suất cao, phẩm chất nông sản tốt với mức đầu tư vật chất ít và hiệu quả kinh tế cao.” (Lê Văn Khoa, 1999, Nông nghiệp & Môi trường). Hệ sinh thái nông nghiệp là một tổng thể bao gồm môi trường và những quần thể sinh vật (cây trồng, vật nuôi, cây rừng), các sinh vật gây hại (sâu, bệnh, chuột, cỏ dại, sinh vật gây bệnh cho vật nuôi...), các sinh vật có ích khác. Các yếu tố (đất, nước, khí hậu, môi trường), kể cả con người trong hệ sinh thái này được hình thành và biến đổi đều do hoạt động của con người. Mỗi hệ sinh thái phải có tính đồng nhất nhất định về các điều kiện vật lí, khí tượng, hoá học, thực vật học và động vật học. Các thành phần trong hệ sinh thái nông nghiệp có chức năng riêng và góp phần chu chuyển vật chất, năng lượng, các thành phần đó có quan hệ chặt chẽ và thống nhất, có phản ứng hệ thống với mọi loại hình tác động. * Tel: 0973402465; Email: ntthadhsptn@gmail.com Cho đến nay nền nông nghiệp sinh thái còn chưa được hiểu một cách đầy đủ và đúng nghĩa. Đa số người ta cho rằng, sản xuất nông nghiệp theo các mô hình mới, hiện đại, áp dụng những tiến bộ khoa học kĩ thuật vào sản xuất chỉ nhằm mục đích nâng cao hiệu quả kinh tế mà ít ai biết được rằng đây cũng chính là một nền nông nghiệp sinh thái. Tuy nhiên với các cấp độ khác nhau đó là những mô hình đơn giản như VAC, trước mắt chỉ nhằm vào lợi ích kinh tế, cải thiện đời sống. Với mức độ cao hơn đó là nông nghiệp sinh thái. Sản xuất nông nghiệp theo nền nông nghiệp sinh thái đem lại nhiều hiệu quả mà hơn hết đó là lợi ích môi trường. Nền nông nghiệp sinh thái vừa cải thiện được môi trường sống vừa khai thác thêm được nguồn năng lượng, khiến tổn hại do ô nhiễm môi trường, lãng phí năng lượng và sự phá hoại tài nguyên đất giảm xuống độ thấp nhất. Từ đó đạt được sự thống nhất cao độ giữa ba lợi ích kinh tế, sinh thái và xã hội. Cho nên có thể nói, đây là một mô hình nông nghiệp bền vững, sẽ chiếm địa vị chủ yếu trong nền nông nghiệp tương lai. Sản xuất nông nghiệp theo hướng sinh thái sẽ giúp giải quyết 3 vấn đề. Thứ nhất là không làm mất cân bằng sinh thái trên đồng ruộng. Vì lâu nay, sản xuất nông nghiệp ở nước ta đã sử dụng quá nhiều phân bón, thuốc bảo vệ thực vật có nguồn gốc hóa chất. Việc lạm dụng hóa chất đã khiến cho hệ sinh thái trên đồng ruộng bị mất cân bằng nghiêm trọng. Từ Nguyễn Thị Thu Hà Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 112(12)/2: 103 - 108 104 đó, dẫn tới nhiều nguy cơ như dễ bùng phát dịch hại. Thứ hai là không ảnh hưởng xấu tới môi trường. Lâu nay, việc tác động nhiều vào đồng ruộng bằng hóa chất, bằng các biện pháp kỹ thuật không phù hợp đã gây tổn hại nhiều tới môi trường tự nhiên. Chẳng hạn nguồn nước ở nhiều nơi đang bị ô nhiễm vì phân bón hóa học, thuốc bảo vệ thực vật. Chất lượng đất trồng cũng đang bị suy giảm. Thứ ba là sản xuất nông nghiệp theo nền nông nghiệp sinh thái sẽ tạo ra những sản phẩm sạch mà sản xuất theo hướng sử dụng nhiều phân bón hóa học, thuốc trừ sâu, thuốc bảo vệ thực vật và các chất kích thích sẽ không thể nào có được. NỘI DUNG NỀN NÔNG NGHIỆP SINH THÁI Khác với những nền nông nghiệp khác, nền nông nghiệp sinh thái cần phải đảm bảo các nội dung cơ bản sau: - Tính đa dạng sinh học: Trong nền nông nghiệp truyền thống, mô hình canh tác độc canh đã làm hệ sinh thái mất cân bằng và các qui luật sinh thái bị thay đổi, nên rất dễ bị ảnh hưởng bởi các yếu tố của môi trường. Vì vậy, tính đa dạng sinh học trong nền nông nghiệp sinh thái ở đây là phải đảm bảo các qui luật sinh thái tự nhiên và môi trường sinh thái phải được cân bằng. Thực hiện đa dạng sinh học cũng là thực hiện đa dạng hóa những nguồn thu nhập, giảm nguy cơ mất mùa toàn bộ. Như vậy, cần phải trồng nhiều giống cây trồng, vật nuôi khác nhau; thực hiện luân canh, xen canh; lai tạo giống mới để có năng suất cao hơn; canh tác theo phương thức nông – lâm kết hợp; bảo tồn và giữ gìn các giống cây trồng, vật nuôi khác loài làm tăng tính đa dạng sinh học. - Nuôi dưỡng đất cho đất sống: Đất được xem là một vật thể sống. “Đất sống” là loại đất có nhiều chất dinh dưỡng, có độ màu mỡ cao và đặc biệt trong đất có chứa nhiều sinh vật sống. Hoạt động của những sinh vật này ở trong đất sẽ là yếu tố có tính chất quyết định cho sức khỏe, độ dẻo dai và độ phì nhiêu của đất. Vì vậy, cần phải tạo những điều kiện thuận lợi để các sinh vật đất phát triển. Muốn nuôi dưỡng đất chúng ta cần: thường xuyên bón phân hữu cơ; che phủ mặt đất để chống xói mòn, rửa trôi; tìm các biện pháp để khử các yếu tố gây hại cho đất. - Đảm bảo tái sinh vật chất: Trong đất nông nghiệp, hầu như tất cả sản lượng sinh khối bị lấy đi khỏi đất sau thu hoạch mà không có gì trả lại cho đất hoặc có thì rất ít, hoặc do bón phân hóa học quá nhiều sẽ làm cạn kiệt dần độ phì nhiêu của đất, đất sẽ bị chai cứng, bạc màu dẫn đến chu trình tái sinh của đất bị rối loạn và nảy sinh nhiều vấn đề khác trong quá trình sản xuất. Thực hiện tái sinh vật chất là tạo ra mối quan hệ đúng đắn giữa các thành phần và tác nhân của hệ sinh thái nông nghiệp như: rơm rạ sẽ được cày vùi lại trong đất để làm phân hữu cơ thay vì bị đốt hoặc mang dùng vào việc khác. Các loại cây trồng khác (ngô, đậu,) sau khi thu hoạch sẽ được phơi khô để che phủ mặt đất chống xói mòn đất và làm phân hữu cơ khi bị mục. - Cấu trúc nhiều tầng: Cơ cấu cây trồng trong nền nông nghiệp sinh thái chủ yếu là trải dài theo bề ngang nên cũng có những hạn chế nhất định. Do đó cần thực hiện gieo trồng theo phương thức nông lâm kết hợp, trồng xen vụ, trồng gối vụ.. để có thể khai thác khoảng không hiệu quả hơn. Thực hiện nền nông nghiệp sinh thái cần phải tuân thủ theo một số nguyên tắc sau: - Không phá hoại môi trường: Môi trường là yếu tố quan trọng hàng đầu của nền nông nghiệp sinh thái. Ở các nước phát triển vấn đề môi trường ngày càng được chú trọng. Người nông dân được nhận hỗ trợ nhiều từ những chương trình của Chính phủ. Họ không chỉ được tham gia bảo hiểm nông nghiệp do thất bát, dủi do của mùa màng mà hàng năm họ còn được nhận một khoản hỗ trợ nhiều hơn thế chỉ để duy trì hệ sinh thái đồng ruộng. Họ sản xuất không chỉ vì mục tiêu kinh tế mà họ nhắm đến mục đích môi trường. Họ trồng trọt, chăm bón một cách tự nhiên để duy trì màu xanh cho đồng ruộng. Đây là một thực tế mà lợi ích môi trường của nó đem lại lớn hơn gấp nhiều lần so với lợi ích kinh tế song nó vẫn được đầu tư phát triển. Thực tế cho thấy, nền nông nghiệp hiện nay đang diễn ra theo Nguyễn Thị Thu Hà Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 112(12)/2: 103 - 108 105 một xu thế bất lợi cho chính con người. Họ chỉ chạy theo lợi ích kinh tế, sẵn sàng hủy hoại môi trường, sử dụng các chất hóa học để tăng năng suất đã ảnh hưởng rất lớn đối với đời sống con người. Dư lượng các chất hóa học, thuốc trừ sâu, chất kích thích ảnh hưởng đến sức khỏe của con người là không thể tính được. Mặt khác, lượng phân bón hóa học sử dụng bình quân / ha ở một số địa phương có mức độ thâm canh cao đã gây áp lực lớn cho môi trường đất. Sử dụng phân khoáng liên tục, không kết hợp bón phân hữu cơ có thể làm cho đất trở nên chua hóa nhanh, chai cứng, giảm năng suất cây trồng. Cùng với vấn đề thuốc bảo vệ thực vật, tổng khối lượng chất thải chăn nuôi bình quân khoảng hơn 73 triệu tấn / năm cũng là nguồn gây ô nhiễm lớn. Không chỉ trồng trọt, chăn nuôi mà tình trạng phát triển nuôi trồng thủy sản tự phát, thiếu quy hoạch, thức ăn thừa không được xử lý, việc sử dụng kháng sinh tùy tiện cũng dẫn tới ô nhiễm môi trường xảy ra nghiêm trọng ở một số nơi. - Đảm bảo năng suất ổn định: Sản xuất theo mô hình nông nghiệp sinh thái, ngoài việc tạo ra những sản phẩm sạch, an toàn có lợi cho sức khỏe con người còn làm tăng thêm giá trị của sản phẩm. Mặt khác còn giúp được người dân biết và có thói quen sử dụng sản phẩm an toàn, từ đó nâng cao thu nhập trên một đơn vị diện tích, góp phần cải tạo đất, cải tạo môi trường trong lành hơn. Ít tác động đến môi trường tự nhiên thì cũng ít bị ảnh hưởng bởi thiên tai, dịch bệnh hơn vì thế mà năng suất cây trồng được đảm bảo hơn, ít gặp rủi do hơn - Đảm bảo khả năng thực thi, ít phụ thuộc vào bên ngoài: Nếu như nền nông nghiệp hàng hóa phụ thuộc lớn vào các yếu tố bên ngoài: Các chất hóa học như phân bón, thuốc trừ sâuthì nền nông nghiệp sinh thái lại chỉ dựa vào khả năng sản xuất và các yếu tố môi trường tự nhiên là chính. Việc không hoặc rất ít sử dụng các chất hóa học vào sản xuất làm giảm thiểu tới mức tối đa chi phí và sự ảnh hưởng của nó đến môi trường tự nhiên, trước hết đó là môi trường đất, nước và không khí. Việc sử dụng các phương pháp sinh học vào sản xuất nông nghiệp không những đem lại nhiều lợi ích về kinh tế mà còn có ý nghĩa lớn đối với sức khỏe của con người. - Ít lệ thuộc vào hàng nhập ngoại: Với cấu trúc nhiều tầng, cơ cấu cây trồng trong nền nông nghiệp sinh thái phong phú tạo ra nhiều loại sản phẩm có chất lượng tốt đảm bảo cung cấp đủ cho nhu cầu tại chỗ của người dân chính vì vậy mà ít phải lệ thuộc vào những mặt hàng nhập ngoại. Mặt khác, lòng tin của người dân dần được hình thành sẽ tạo dựng thói quen sử dụng những loại sản phẩm này mà quên đi tư tưởng “sính ngoại” trước đây của người dân. Trong nền nông nghiệp sinh thái, các ruộng cây trồng trao đổi năng lượng với khí quyển bằng cách nhận năng lượng bức xạ mặt trời, thông qua quá trình quang hợp của lá xanh tổng hợp thành các chất hữu cơ, đồng thời có sự trao đổi CO2 với khí quyển và đất, đạm và các chất khoáng với đất. Tất cả các sản phẩm đó là năng suất sơ cấp của hệ sinh thái. Trong các sản phẩm của cây trồng như lúa, màu, thức ăn gia súc có tích lũy năng lượng, protein và các chất khoáng. Năng lượng và vật chất trong lương thực – thực phẩm được cung cấp cho khối dân cư. Ngược lại, con người trong quá trình lao động cũng cung cấp năng lượng cho ruộng cây trồng. Ngoài ra các chất bài tiết của con người (phân, nước tiểu) được trả lại cho đồng ruộng dưới dạng chất hữu cơ. Một phần lương thực làm thức ăn cho gia súc cung cấp cho các trang trại chăn nuôi và vật nuôi gia đình. Vật nuôi chế biến, tổng hợp năng lượng và vật chất của cây trồng thành các sản phẩm chăn nuôi đó chính là năng suất thứ cấp của hệ sinh thái. Các chất bài tiết của vật nuôi trả lại cho đồng ruộng qua phân bón Chính quá trình này tạo nên những chu trình tương đối khép kín trong phạm vi nhỏ của hệ sinh thái. MỘT SỐ MÔ HÌNH HIỆU QUẢ CỦA NỀN NÔNG NGHIỆP SINH THÁI Hiện nay, ở Việt Nam đã xuất hiện nhiều mô hình nông nghiệp sinh thái như: mô hình Nguyễn Thị Thu Hà Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 112(12)/2: 103 - 108 106 Vườn - Ao - Chuồng, Vườn - Ao - Chuồng - Rừng; mô hình Nông - Lâm - Đồng cỏ, Nông - Lâm kết hợp; Rừng - Ruộng bậc thang... Sau đây là một số mô hình tiêu biểu. Mô hình Vườn – Ao – Chuồng (VAC) VAC là một hệ thống sản xuất kết hợp giữa ba bộ phận trồng trọt, chăn nuôi và thủy sản. Trong đó sản phẩm hay phế phẩm của bộ phận này có thể dùng để tạo nên sản phẩm của bộ phận khác có giá trị cao hơn và trong hệ thống này hầu như không có phế liệu nào cả. Thực chất nó là một hệ thống sản xuất kết hợp gồm vườn, ao, chuồng của một hộ gia đình. Trong đó thứ phẩm của đơn vị này được dùng để tạo ra sản phẩm của đơn vị khác. Đây là mô hình đã được bà con áp dụng từ lâu và cũng đem lại nhiều hiệu quả kinh tế. Mô hình này được đông đảo người dân áp dụng bởi nó phù hợp với khá nhiều địa phương của nước ta. Ưu điểm của mô hình này là sự kết hợp sử dụng một cách triệt để các dòng dinh dưỡng vật chất đầu vào và đầu ra của từng phân hệ theo một chu trình khép kín, tận dụng tối đa những phế phụ phẩm trong quá trình sản xuất để tạo nên đầu ra lớn hơn trên toàn hệ thống nhưng không gây ảnh hưởng xấu đến môi trường sinh thái. - Vườn: Cây trồng vừa có thể cung cấp rau quả cho nông hộ vừa cung cấp thức ăn cho chăn nuôi (chuồng) và ao cá. - Ao cá: Cung cấp các giá trị dinh dưỡng cao, cải thiện đời sống cho nông hộ đồng thời ao cung cấp nước tưới cho vườn cây và thức ăn cho chăn nuôi. - Chuồng: vừa cung cấp phân bón cho trồng trọt (vườn) lại vừa làm thức ăn cho cá (ao). Nhiều địa phương đã áp dụng thành công mô hình này là huyện Châu Thành và Tân Châu của tỉnh An Giang điển hình là hệ canh tác VAC của nông dân Nguyễn Đa ở huyện Tân Châu đã đem lại lợi nhuận khá cao mỗi năm khi áp dụng mô hình trên (Nguyễn Trần Nhẫn Tánh, 2003). Có thể nói đây là một trong những mô hình sản xuất nông nghiệp nhằm tối ưu hóa các nguồn lực để tạo ra sản phẩm và mang tính bền vững. Mô hình ruộng lúa bờ hoa Mô hình “ruộng lúa bờ hoa” là cách nói của nông dân Nam bộ khi đề cập đến chương trình “Công nghệ sinh thái” được Ủy ban nhân dân tỉnh An Giang và Viện Nghiên cứu lúa quốc tế (IRRI) tổ chức chuyển giao kỹ thuật với “Công nghệ sinh thái” là chương trình trồng hoa quanh ruộng lúa để phòng trừ sâu bệnh và chương trình này đã được thử nghiệm tại An Giang, Tiền Giang trong năm 2010 và vụ đông xuân năm 2011 vừa qua. Theo đó, việc chọn các giống hoa dại phù hợp trồng quanh ruộng lúa để dẫn dụ thiên địch có khả năng tiêu diệt rầy nâu và các côn trùng gây hại khác là rất quan trọng. Một số loài hoa thường được trồng hiện nay là: Xuyến chi, Cúc mặt trời, Cúc cánh giấy, Sao nhái, Mè, đay, các cây họ đậu, Theo các nhà khoa học, hoa gồm có 2 phần: mật và phấn hoa. Các loài côn trùng thích ăn mật hoa và phấn hoa vì có nhiều chất đường, protein... Đặc biệt, cây trồng ra hoa màu trắng và màu vàng có nhiều phấn sẽ càng thu hút nhiều thiên địch. Chúng sẽ đến hút mật, đẻ trứng và tấn công các loài sâu hại nên nông dân không phải sử dụng thuốc trừ sâu. Vụ hè thu năm 2011 vừa qua, An Giang đã chọn 4 huyện để hỗ trợ thực hiện mô hình ứng dụng công nghệ sinh thái “ruộng lúa bờ hoa” gồm các xã: An Hòa (Châu Thành), Khánh Hòa (Châu Phú), Định Thành (Thoại Sơn) và Tân Tuyến (Tri Tôn). Kết quả là việc trồng xen các loại hoa để xua đuổi côn trùng đã hạn chế rất nhiều sâu bệnh trên ruộng lúa, đồng thời đạt hiệu quả kinh tế cao do giảm chi phí thuốc bảo vệ thực vật, góp phần bảo vệ môi trường, bảo vệ sức khoẻ con người (Theo Viện Khoa học Nông nghiệp Việt Nam, 2011). Hệ thống canh tác nông - lâm bền vững trên đất dốc Đây là hệ thống canh tác kết hợp lĩnh vực nông nghiệp và lâm nghiệp một cách khoa học, có sự hỗ trợ với nhau, nhằm khai thác tốt Nguyễn Thị Thu Hà Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 112(12)/2: 103 - 108 107 các tiềm năng phát triển của vùng đất dốc trên núi: Nông - Lâm - Đồng cỏ, Nông - Lâm kết hợp; Rừng - Ruộng bậc thang, Mô hình nông - lâm kết hợp là một hệ thống quản lý đất đai trong đó các sản phẩm của rừng và trồng trọt được sản xuất cùng lúc hay kế tiếp nhau trên các diện tích đất thích hợp để tạo ra các lợi ích kinh tế, xã hội và sinh thái cho cộng đồng dân cư tại địa phương (PCARRD, 1979). Ưu điểm của mô hình nông lâm kết hợp là tăng được sản phẩm cần dùng hàng ngày, đồ dùng, củi đun, thức ăn,... Tạo thêm việc làm, tận dụng được mọi nguồn lao động ở nông thôn. Tăng cường tiếp cận với kỹ thuật, thị trường, nâng cao trình độ hiểu biết của người dân. Tận dụng nguồn năng lượng mặt trời và đất đai, nâng cao được sinh khối trên đơn vị diện tích. Giữ gìn được cân bằng sinh thái đảm bảo cho sự phát triển ổn định lâu bền. Mô hình nông lâm kết hợp được áp dụng khá hiệu quả tại những vùng đất dốc: Tại miền Bắc đó là vùng Trung du miền núi Bắc Bộ với địa hình dốc là chủ yếu thì đây là mô hình sản xuất thích hợp nhất. Ngoài ra tại các địa phương khác, tùy vào điều kiện cụ thể của địa phương mà vận dụng cho phù hợp, bởi nước ta có tới 3/4 diện tích là đồi núi. Nhìn chung đây là mô hình đã được đông đảo bà con áp dụng dựa trên sự vận dụng, kết hợp với những kiến thức bản địa. Với mỗi địa phương lại có sự áp dụng một cách linh hoạt cho phù hợp với điều kiện cụ thể của địa phương mình để đạt hiệu quả cao nhất. Đó là sự kết hợp linh hoạt giữa các mô hình nông nghiệp sinh thái. Tại An Giang, tiêu biểu là ở huyện Tri Tôn, huyện Thoại Sơn (Các huyện này đã triển khai mô hình Rừng - Vườn - Ao - Chuồng). Đặc biệt trong giai đoạn tới, huyện Tri Tôn sẽ phát triển thêm một số mô hình đang trong giai đoạn thử nghiệm: Trồng cây thảo dược dưới tán cây rừng; nuôi heo rừng kết hợp với trồng rừng (Theo Sở Khoa học & Công nghệ An Giang, 2011). Trên lãnh thổ trên đất liền của Việt Nam có thể chia thành tám vùng theo hệ sinh thái nông nghiệp. Vùng Tây Bắc, Vùng Đông Bắc, Vùng đồng bằng sông Hồng, Vùng Bắc Trung bộ, Vùng Nam Trung bộ, Vùng Tây Nguyên, Vùng Đông Nam bộ, Vùng Tây Nam bộ mỗi vùng sẽ phù hợp với một hoặc một số mô hình nào đó tùy thuộc vào điều kiện cụ thể của từng địa phương. Nền nông nghiệp sinh thái kết hợp một cách hài hòa và phù hợp giữa 2 nền nông nghiệp: nông nghiệp hóa học và nền nông nghiệp sinh học. Bằng các tiến bộ khoa học, sinh thái học phải làm cho năng suất sinh học của các hệ sinh thái không ngừng được nâng cao mà hệ sinh thái này vẫn bền vững để tiếp tục sản xuất. Nền nông nghiệp sinh thái không loại trừ việc sử dụng phân bón, thuốc trừ sâu, chọn giống nhân tạo, Mà là sử dụng hợp lý, tiếp tục phát huy nông nghiệp truyền thống, tránh những giải pháp công nghệ đem đến sự hủy hoại môi trường. KẾT LUẬN Nông nghiệp sinh thái là một hướng đi hoàn toàn mới cho những người nông dân, những nhà sản xuất nông nghiệp hiện đại. Nó không chỉ đem lại lợi ích kinh tế mà còn mang lại những giá trị to lớn về môi trường – một trong những giải pháp góp phần cải thiện môi trường sống của chúng ta hiện nay. Sản xuất nông nghiệp vốn đã mang trong nó bản chất sinh thái, sản xuất nông nghiệp muốn phát triển có hiệu quả và ổn định đương nhiên phải phù hợp với điều kiện đất đai, khí hậu, thời tiết, thuỷ văn, môi trường và quần thể sinh vật tạo nên hệ sinh thái nông nghiệp. Chính sự phù hợp đó làm cho cây trồng vật nuôi phát huy mọi ưu thế và tác động lẫn nhau để tồn tại và phát triển, đó là một nền nông nghiệp sinh thái hay cũng chính là nông nghiệp bền vững, một nền nông nghiệp sinh thái, hay bền vững đều mang lại hiệu quả kinh tế và hiệu quả xã hội. Nhưng ngược lại, một nền sản xuất nông nghiệp mang lại hiệu quả kinh tế cao, chưa chắc đã là một nền nông nghiệp sinh thái và bền vững nếu như nó không có tác động đến bảo vệ môi trường sinh thái. Nguyễn Thị Thu Hà Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 112(12)/2: 103 - 108 108 TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Dương Quảng Châu (2011), Mô hình Khe Soong, Sơn Kim1, Hương Sơn, Hà Tĩnh. Nông nghiệp sinh thái và phát triển bền vững nông thôn miền núi. 2. Lê Văn Khoa (chủ biên), Nguyễn Đức Lương, Nguyễn Thế Truyền, (1999), Nông nghiệp & môi trường, Nhà xuất bản Giáo dục. 3. Bùi Thanh Thinh. 28/02/2011. Hội thảo mô hình nông nghiệp sinh thái.: s/Hoi-thao-mo-hinh-nong-nghiep-sinh-thai.aspx 4. Hỗ trợ phát triển phương thức tiếp cận nông nghiệp sinh thái ở vùng trung du và miền núi phía Bắc Việt Nam. 5. VTC 16. Phim tài liệu tiếng Việt "Kỹ thuật canh tác đất dốc bền vững". SUMMARY ECOLOGICAL AGRICULTURE DEVELOPMENT, NEW DIRECTIONS FOR AGRICULTURAL PRODUCTION Nguyen Thi Thu Ha* College of Education – TNU Today we are facing major problems such as environmental pollution, discolored soil, biodiversity reduced, major outbreaks of pests... Agriculture in of our country is facing many significant challenges: Cost of lost productivity, using multiple of chemical fertilizers pesticide... has caused major many issues for human health and society... Therefore, the farmers agriculture production has been tried to figure out a new agriculture can satisfy demand economic and social development a sustainable manner that does not affecting the the ecological environment and human health, the life of man which is the the "ecological agriculture" . Key words: ecological agriculture, agriculture. Phản biện khoa học: PGS.TS. Lê Ngọc Công – Trường Đại học Sư phạm – ĐH Thái Nguyên * Tel: 0973402465; Email: ntthadhsptn@gmail.com

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfbrief_41632_45402_14520149505218_7934_2048559.pdf