Phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao ở nước ta hiện nay

Cuộc cách mạng khoa học và công nghệ (KH&CN) trên thế giới tiếp tục phát triển với nhịp độ ngày càng nhanh, có khả năng tạo ra những thành tựu mang tính đột phá, khó dự báo trước và có ảnh hưởng to lớn tới mọi mặt của đời sống xã hội loài người. Nhờ những thành tựu to lớn của KH&CN, đặc biệt là công nghệ thông tin - truyền thông, công nghệ sinh học, công nghệ vật liệu., xã hội loài người đang trong quá trình chuyển từ nền văn minh công nghiệp sang thời đại thông tin; từ nền kinh tế dựa vào các nguồn lực tự nhiên sang nền kinh tế dựa vào tri thức, mở ra cơ hội mới cho các quốc gia đang phát triển có thể rút ngắn quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá (CNH - HĐH). KH&CN đang trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp, hàng đầu. Sức mạnh của mỗi quốc gia tuỳ thuộc phần lớn vào năng lực KH&CN. Lợi thế về nguồn tài nguyên thiên nhiên, giá lao động rẻ ngày càng trở nên ít quan trọng hơn. Vai trò của nguồn nhân lực có trình độ chuyên môn, có năng lực sáng tạo, ngày càng có ý nghĩa quyết định trong bối cảnh toàn cầu hoá kinh tế.

pdf6 trang | Chia sẻ: linhmy2pp | Ngày: 10/03/2022 | Lượt xem: 448 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao ở nước ta hiện nay, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Nguyễn Quang Hậu và đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 83(07): 147 - 152 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 147 PHÁT TRIỂN NGUỒN NHÂN LỰC CHẤT LƯỢNG CAO Ở NƯỚC TA HIỆN NAY Nguyễn Quang Hậu1, Trần Hoàng Tâm2 1Đại học Nông nghiệp Hà Nội 2Đại học Khoa học - Đại học Thái Nguyên TÓM TẮT Cuộc cách mạng khoa học và công nghệ (KH&CN) trên thế giới tiếp tục phát triển với nhịp độ ngày càng nhanh, có khả năng tạo ra những thành tựu mang tính đột phá, khó dự báo trước và có ảnh hưởng to lớn tới mọi mặt của đời sống xã hội loài người. Nhờ những thành tựu to lớn của KH&CN, đặc biệt là công nghệ thông tin - truyền thông, công nghệ sinh học, công nghệ vật liệu..., xã hội loài người đang trong quá trình chuyển từ nền văn minh công nghiệp sang thời đại thông tin; từ nền kinh tế dựa vào các nguồn lực tự nhiên sang nền kinh tế dựa vào tri thức, mở ra cơ hội mới cho các quốc gia đang phát triển có thể rút ngắn quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá (CNH - HĐH). KH&CN đang trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp, hàng đầu. Sức mạnh của mỗi quốc gia tuỳ thuộc phần lớn vào năng lực KH&CN. Lợi thế về nguồn tài nguyên thiên nhiên, giá lao động rẻ ngày càng trở nên ít quan trọng hơn. Vai trò của nguồn nhân lực có trình độ chuyên môn, có năng lực sáng tạo, ngày càng có ý nghĩa quyết định trong bối cảnh toàn cầu hoá kinh tế. Từ khóa: nguồn nhân lực, phát triển, chất lượng, con người, thị trường QUAN ĐIỂM PHÁT TRIỂN NGUỒN NHÂN LỰC CỦA ĐẢNG* Trong hầu hết các đại hội Đảng và trong nhiều văn kiện quan trọng khác nhau của Đảng đều khẳng định: Con người là vốn quý nhất, chăm lo hạnh phúc con người là mục tiêu phấn đấu cao nhất của chế độ ta, coi việc nâng cao dân trí, bồi dưỡng và phát huy nguồn lực to lớn của con người Việt Nam là nhân tố quyết định thắng lợi công cuộc CNH - HĐH; khẳng định con người Việt Nam phát triển toàn diện cả về thể lực, trí lực, cả về khả năng lao động, năng lực sáng tạo và tính tích cực chính trị - xã hội, cả về đạo đức, tâm hồn và tình cảm chính là mục tiêu, là động lực của sự nghiệp CNH - HĐH Mọi đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước đều nhằm quán triệt tư tưởng chăm lo bồi dưỡng và phát huy nhân tố con người, hướng tới mục tiêu phát triển toàn diện con người Việt Nam Chiến lược phát triển giáo dục quốc gia 2001 - 2010 đã khẳng định: “Ưu tiên nâng cao chất * lượng đào tạo nhân lực, đặc biệt chú trọng nhân lực khoa học trình độ cao, cán bộ quản lý, kinh doanh giỏi và công nhân kỹ thuật lành nghề trực tiếp góp phần nâng cao sức cạnh tranh của nền kinh tế”. Quan điểm của Đảng về đào tạo và phát triển nguồn nhân lực được thể hiện cụ thể qua các văn kiện đại hội Đảng các khoá VIII, IX, X, như sau: Văn kiện Hội nghị lần thứ hai BCH Trung ương khoá VIII đã xác định nhiệm vụ và mục đích cơ bản của giáo dục Việt Nam là "nhằm xây dựng những con người và thế hệ thiết tha gắn bó với lý tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, có đạo đức trong sáng, có ý chí kiên cường xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, CNH, HĐH đất nước, gìn giữ và phát huy các giá trị văn hoá của dân tộc, có năng lực tiếp thu tinh hoa văn hoá nhân loại phát huy tiềm năng của dân tộc và con người Việt Nam, có ý thức cộng đồng và phát huy tính tích cực của cá nhân, làm chủ tri thức KH&CN hiện đại, có tư duy sáng tạo, có kỹ năng thực hành giỏi, có tác phong công nghiệp, có tính tổ chức và kỷ luật, có sức khoẻ, là những người kế Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 148 thừa xây dựng chủ nghĩa xã hội vừa "hồng" vừa "chuyên" như lời căn dặn của Bác Hồ. Tại Đại hội Đảng lần thứ IX, một lần nữa Đảng ta khẳng định: "Phát triển giáo dục và đào tạo là một trong những động lực quan trọng thúc đẩy sự nghiệp CNH - HĐH, là điều kiện để phát huy nguồn lực con người, yếu tố cơ bản để phát triển xã hội, tăng trưởng kinh tế nhanh và bền vững"; "Tiếp tục nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện, đổi mới nội dung, phương pháp dạy và học, hệ thống trường lớp và hệ thống quản lý giáo dục, thực hiện chuẩn hoá, HĐH, xã hội hoá. Phát huy tinh thần độc lập suy nghĩ và sáng tạo của học sinh, sinh viên, đề cao năng lực tự học, tự hoàn thiện học vấn và tay nghề, đẩy mạnh phong trào học tập trong nhân dân bằng những hình thức giáo dục chính quy và không chính quy, thực hiện "giáo dục cho mọi người", "cả nước trở thành một xã hội học tập”, thực hiện phương châm "học đi đôi với hành", giáo dục kết hợp với lao động sản xuất, nhà trường gắn với xã hội. Đảng và Nhà nước luôn coi trọng sự nghiệp phát triển KH&CN. Đại hội X của Đảng tiếp tục khẳng định: Phát triển KH&CN cùng với phát triển giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu, là nền tảng và động lực cho CNH - HĐH đất nước. Hơn bao giờ hết, vấn đề hợp tác quốc tế về đào tạo nguồn nhân lực KH&CN của Việt Nam đang được Đảng và Nhà nước quan tâm đầu tư toàn diện. Đây chính là động lực góp phần nâng cao năng lực nội sinh của nước nhà về KH&CN phục vụ hội nhập quốc tế. Nhiệm vụ đặt ra trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế a. Phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao phải xuất phát từ yêu cầu đào tạo nguồn nhân lực phục vụ sự nghiệp CNH, HĐH và tiếp cận kinh tế tri thức Sự nghiệp CNH, HĐH và nền kinh tế tri thức đang đặt ra yêu cầu ngày càng cao đối với nguồn nhân lực nói chung và nguồn nhân lực chất lượng cao nói riêng. Nó đòi hỏi người lao động, từ các nhà quản lý cho đến công nhân lành nghề ở tất cả các lĩnh vực của nền kinh tế phải được đào tạo dưới một hình thức nhất định, có kiến thức chuyên môn nghề nghiệp, kỹ năng và kinh nghiệm, nắm bắt được những biến đổi của KH&CN đang diễn ra rất nhanh chóng. Ở nước ta hiện nay, phần đông là lao động chưa qua đào tạo, tỉ lệ lao động qua đào tạo còn thấp, mới đạt khoảng 30% trong tổng số nguồn lao động cả nước, trong khi mục tiêu đặt ra đến năm 2010 đạt 40% và năm 2020 kết thúc quá trình CNH, HĐH là 60%. Xuất phát từ yêu cầu đó, vai trò của phát triển nguồn nhân lực mà trong đó đội ngũ nguồn nhân lực chất lượng cao (đặc biệt là đội ngũ nhân lực ở các trường đại học, cao đẳng và dạy nghề, các trường đào tạo cán bộ quản lý giáo dục) đóng vai trò là nòng cốt - có nhiệm vụ đào tạo nguồn nhân lực cho đất nước. Để gánh vác được vai trò to lớn đó, nguồn nhân lực chất lượng cao cần phải phát triển, được trang bị sâu rộng những kiến thức cần thiết, có trình độ chuyên môn, nghiệp vụ và quản lý cao, có phẩm chất chính trị, đạo đức đảm bảo đủ về số lượng, phù hợp cơ cấu loại hình nhân lực, nhất là loại hình nhân lực ở những lĩnh vực, ngành quan trọng như tin học, công nghệ, kỹ thuật, quản lý hoặc đội ngũ nguồn nhân lực ở những ngành nghề đang cần thiết khác nhằm đáp ứng tốt, kịp thời những yêu cầu trong mỗi giai đoạn của quá trình CNH, HĐH và tiếp cận kinh tế tri thức đang đặt ra. Từ những quan điểm đó, việc phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao ở nước ta phải có những căn cứ, yêu cầu và phải có chiến lược cụ thể để nguồn nhân lực có chất lượng cho đất nước. b. Phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao phải đặt trong điều kiện cơ chế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng XHCN Ở nước ta, phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao không thể nằm ngoài quy luật vận động khách quan của nền kinh tế thị trường theo định hướng XHCN. Kinh tế thị trường đòi hỏi rất khắt khe đối với nguồn nhân lực chất lượng cao, phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao không chỉ đảm bảo đủ số lượng mà điều quan trọng là chất lượng nguồn nhân lực phải đáp ứng được những biến đổi của nền kinh tế, sự phát triển của KH&CN phải tiếp cận, nắm bắt những công nghệ hiện đại vào hoạt động quản lý, giảng dạy nhằm đảm bảo Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 149 chất lượng đào tạo nguồn nhân lực cho nền kinh tế. Phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao phẳi căn cứ vào sự biến động của quy luật cung - cầu lao động trên thị trường, về từng loại hình nhân lực chất lượng cao, đặc biệt là phù hợp với nhu cầu nguồn nhân lực ở từng địa phương, khu vực dưới sự quản lý của Nhà nước. Bởi lẽ, ở nước ta hiện nay, đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao ở các trường đại học, cao đẳng sư phạm và các trường cán bộ quản lý là dựa trên chỉ tiêu định mức biên chế và nguồn kinh phí của Nhà nước, đồng thời căn cứ vào nhu cầu thị trường lao động chất lượng cao và sự mở rộng của quy mô đào tạo trong từng thời kỳ. Tuy nhiên, trước sự biến động của nền kinh tế thị trường, nguồn nhân lực chất lượng cao ở một số loại hình còn hiện tượng “thừa, thiếu” ở một số vùng lãnh thổ. Vì vậy, để tránh những hiện tượng “thừa, thiếu” nguồn nhân lực chất lượng cao đó ở nước ta, việc phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao cần phải bám sát, tuân theo yêu cầu của quy luật cung cầu trên thị trường ở từng khu vực, địa phương, đồng thời phải tạo động lực cạnh tranh để nguồn nhân lực chất lượng cao thông qua cơ chế của mình mà sàng lọc phân loại chất lượng của từng loại hình nguồn nhân lực, thông qua đó phát huy tính năng động sáng tạo, nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ và quản lý. Để nguồn nhân lực chất lượng cao tăng nhanh cả về số lượng, chất lượng và sự phù hợp về cơ cấu nhân lực trong nền kinh tế thị trường, Nhà nước cần tạo điều kiện về môi trường pháp lý thích hợp nhằm khai thác có hiệu quả nguồn nhân lực có trí tuệ này, tránh hiện tượng thương mại hoá giáo dục. Mặt khác, thông qua cơ chế, chính sách của mình, Nhà nước cần có những giải pháp phù hợp. c. Phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao theo hướng hội nhập khu vực và quốc tế Muốn phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao, phải học tập kinh nghiệm thế giới và tăng cường giao lưu quốc tế. Quốc tế hoá, hội nhập là xu thế của thời đại chúng ta, đó là quy luật tất yếu. Do vậy, chúng ta cần tăng cường học tập những kinh nghiệm quốc tế trong việc tổ chức đào tạo phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao, nghiên cứu khoa học và bồi dưỡng cán bộ quản lý, từng bước hiện đại hoá cơ sở vật chất thiết bị theo những tiêu chuẩn quốc tế; đổi mới chương trình, nội dung, phương pháp đào tạo ở các trường đại học, cao đẳng, trung cấp chuyên nghiệp và dạy nghề theo hướng của các nước tiên tiến; nâng cao đội ngũ cán bộ giảng dạy, đội ngũ nhân lực làm công tác quản lý giáo dục. Phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao phải tiếp cận theo hướng: Một mặt phải đảm bảo tỷ lệ cơ cấu nguồn nhân lực hài hoà, cân đối theo từng giai đoạn phát triển kinh tế - xã hội, đào tạo còn nhiều hạn chế, nhưng lại phải đẩy nhanh sự phát triển kinh tế - xã hội với tốc độ cao để đuổi kịp các nước trong khu vực; mặt khác phải đảm bảo công bằng xã hội cho mọi người. Vì vậy, nguồn nhân lực chất lượng cao phải phát triển theo hướng đảm bảo đủ về số lượng, nâng cao chất lượng và phù hợp cơ cấu nhân lực. Cần đào tạo đội ngũ giáo viên, giảng viên, cán bộ quản lý có trình độ cao đạt tiêu chuẩn không chỉ trong nước, mà chuẩn so với khu vực và thế giới. Đặc biệt, cần đào tạo một đội ngũ giảng viên, cán bộ quản lý đầu đàn có đủ năng lực, phẩm chất, đủ khả năng tiếp cận công nghệ, phương tiện kỹ thuật hiện đại khi HĐH. Phải luôn xác định đội ngũ này vừa là người giảng dạy, vừa là nhà khoa học, quản lý. Cần từng bước soạn thảo các chương trình đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ nhân lực giáo dục - đào tạo dưới nhiều hình thức (kể cả đào tạo chính quy và không chính quy) phù hợp với điều kiện trong nước, hướng tới tiếp cận khu vực và thế giới. Phải xây dựng, củng cố mạng lưới các trường sư phạm, các trường đào tạo cán bộ quản lý có chất lượng cao, hiện đại; tuyển những học sinh giỏi vào các trường và các sinh viên giỏi giữ lại dùng làm cán bộ giảng dạy trong tương lai; mời các chuyên gia khoa học ở các ngành mũi nhọn làm cán bộ giảng dạy, cán bộ giáo dục nhằm đáp ứng đòi hỏi cao của các ngành trong điều kiện Việt Nam đang hội nhập sâu rộng vào nền kinh tế khu vực và quốc tế. Việc phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao phải có kế hoạch đi trước, phải đảm bảo đáp ứng ở từng thời kỳ, ở từng chuyên ngành trong mỗi giai đoạn, tránh tình trạng hẫng hụt Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 150 khi nguồn nhân lực chất lượng cao đến tuổi nghỉ hưu. Mặt khác, việc đào tạo phải tính đến sự mở rộng quy mô đào tạo, loại hình đào tạo, sự hội nhập quốc tế không nóng vội, đào tạo ồ ạt, vội vàng. Vì điều này sẽ ảnh hưởng đến chất lượng sản phẩm đầu ra trong việc đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao ở các ngành nghề, lĩnh vực của nền kinh tế đất nước. d. Phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao phải đảm bảo sự cân đối, đồng bộ về nguồn nhân lực giữa các bậc học ở các vùng, miền của đất nước. Phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao phải dựa trên cơ sở của việc tăng quy mô học sinh, sinh viên, sự phát triển của các loại hình trường, lớp ở các cấp, bậc học, các cơ sở giáo duc và đào tạo ở các vùng lãnh thổ của đất nước và phải tương ứng với mỗi thời kỳ nhất định. Căn cứ vào nhu cầu nguồn nhân lực giáo duc và đào tạo ở mỗi vùng, địa phương để có chiến lược phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao, đáp ứng những nhu cầu đòi hỏi cấp thiết của từng vùng và địa phương, Hiện nay, nguồn nhân lực chất lượng cao ở các vùng lãnh thổ còn chưa đồng đều, còn chưa có sự cân đối giữa các loại hình nhân lực chất lượng cao, ở đồng bằng thì thừa, khu vực trung du, miền núi lại thiếu. Do đó, xuất phát từ yêu cầu của từng vùng để cung cấp nguồn nhân lực chất lượng cao cho phù hợp những yêu cầu đặt ra. Cần căn cứ vào số lượng, yêu cầu về chất lượng để phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao tương ứng với ngành nghề ở mỗi vùng đó. Nói cách khác, ở vùng nào cần số lượng về nguồn nhân lực chất lượng cao bao nhiêu, chất lượng ra sao thì sẽ cung cấp đủ nguồn nhân lực chất lượng cao theo yêu cầu của vùng đó. Khu vực nào, vùng nào đã đủ về số lượng hoặc “thừa, thiếu”, cần đẩy mạnh nâng cao chất lượng nguồn nhân lực và có kế hoạch đào tạo, có chính sách luân chuyển nguồn nhân lực trong nội bộ của từng vùng cho phù hợp. Phát triển nguồn nhân lực giáo dục - đào tạo trên cơ sở đảm bảo cân đối giữa các bậc học ở các vùng cần phải hợp lý, toàn diện, đảm bảo sự đồng đều về chất lượng, tránh tình trạng với nguồn nhân lực chất lượng cao thích hợp của vùng này nhưng lại không phù hợp với vùng kia mà gây ảnh hưởng đến sự chênh lệch về chất lượng nguồn nhân lực chất lượng cao giữa các vùng. Trên cơ sở quan điểm phát triển trên, UBND các tỉnh, thành phố cần có kế hoạch quy hoạch để phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao theo từng địa chỉ cho phù hợp, cân đối ở từng vùng, miền nhằm đảm bảo được những yêu cầu đặt ra khi mà quy mô không ngừng mở rộng, các loại hình, trường, lớp, cơ sở đào tạo ngày một tăng nhanh do yêu cầu sự phát triển nền kinh tế của đất nước. Cần thiết phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao Chính sách phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao mà trọng tâm là chính sách phát triển nguồn nhân lực giáo dục và đào tạo được thể hiện ở đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước, được ghi nhận trong nghị quyết của các đại hội Đảng và các nghị quyết của BCHTƯ Đảng. Xuất phát từ quan điểm đường lối, chính sách và mục tiêu của Đảng và của Nhà nước để xây dựng chiến lược phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao cho từng giai đoạn, như: Giai đoạn 2001 - 2010 và định hướng cho đến 2020 và những giai đoạn tiếp theo. Thông qua chiến lược này, sẽ tạo cơ sở định hướng cho việc phát triển nguồn nhân lực giáo dục và đào tạo nhằm đạt được những mục tiêu đề ra, đặc biệt là các mục tiêu kinh tế - xã hội. Nguồn nhân lực trong lĩnh vực giáo dục và đào tạo có vai trò quan trọng trong việc đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao nhằm đáp ứng những yêu cầu cơ bản của sự nghiệp CNH, HĐH đất nước. Muốn thực hiện mục tiêu phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao, cần phải xây dựng chiến lược phát triển nguồn nhân lực giáo dục và đào tạo thích ứng cho mỗi thời kỳ, đáp ứng yêu cầu CNH, HĐH cũng như đáp ứng kịp thời cho phát triển chung của đất nước. Dưới đây, xin nêu ra một vài kiến nghị về phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao. Thứ nhất, cần thiết đầu tư cho phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao. Đầu tư cho phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao chủ yếu là đầu tư đội ngũ nhân lực giáo dục và đào tạo, vì đội ngũ này đóng vai trò then chốt quyết định đến chất lượng nguồn nhân lực chất lượng cao nói riêng và nguồn nhân lực Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 151 chung của đất nước. Đầu tư phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao bao gồm: - Ngân sách nhà nước chi trả cho mọi hoạt động của ngành giáo dục và đào tạo. - Chi bồi dưỡng thường xuyên nhằm nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ và tay nghề cho nguồn nhân lực chất lượng cao. - Chi cho việc nghiên cứu khoa học, khảo sát và thăm quan thực tế trong và ngoài nước, đây là động lực quan trọng để thu hút, phát triển nguồn nhân lực giáo dục và đào tạo và huy động các nguồn nhân lực khác tham gia vào phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao. Đầu tư cho việc phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao cấn nhiều lực lượng tham gia: Nhà nước, các tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước, các tổ chức quốc tế, các tổ chức chính phủ, phi chính phủ. Trong đó, nhà nước đóng vai trò chủ yếu và quyết định. Việc tăng đầu tư ngân sách cho đội ngũ nguồn nhân lực giáo dục và đào tạo là nhân tố tác động rất lớn đến việc làm tăng về số lượng và nâng cao chất lượng phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao Kinh nghiệm của một số nước phát triển cho thấy, đầu tư cho giáo dục và đào tạo mà nòng cốt là nguồn nhân lực giáo dục và đào tạo là một trong những giải pháp khôn ngoan nhất trong việc phát triển nguồn nhân lực nói chung và nguồn nhân lực chất lượng cao nói riêng, đây cũng là nhân tố thúc đẩy tăng trưởng kinh tế - xã hội. Ngay từ những năm 1990, Hoa Kỳ đã đầu tư cho giáo dục và đào tạo chiếm 7% GDP, Nhật Bản chiếm 5% tổng GDP, các nước châu Âu (Anh, Pháp, Đức, Hà Lan), mức trung bình chiếm khoảng 5 - 6% tổng GDP. Ở Việt Nam, giai đoạn 2000 - 2001, đầu tư đạt 2,3 - 2,6% GDP và những năm sau tăng cao hơn. Do vậy, để có nguồn nhân lực chất lượng cao đủ về số lượng, đảm bảo vế chất lượng và cơ cấu giữa các cấp, các ngành, các vùng, miền của đất nước (đều chịu ảnh hưởng bởi chính sách đầu tư), cần sử dụng chính sách đầu tư thích hợp và có hiệu quả - sẽ là nhân tố làm tăng cả về số lượng và chất lượng nguồn nhân lực chất lượng cao. Thứ hai, cần có cơ chế chính sách phát triển, sử dụng, bố trí, sắp xếp nguồn nhân lực chất lượng cao. Phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao, cần phải có một cơ chế chính sách thích hợp, bao gồm: Chính sách phát triển, chính sách bố trí, sử dụng, sắp xếp nguồn nhân lực chất lượng cao một cách phù hợp, tạo động lực cho đội ngũ nguồn nhân lực chất lượng cao phát huy được tính năng động sáng tạo, nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ, quản lý, yêu nghề; làm sao thu hút được nguồn nhân lực chất lượng cao ở trong và ngoài nước tham gia đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước. Cơ chế chính sách sử dụng, bố trí sắp xếp nguồn nhân lực chất lượng cao là nhân tố ảnh hưởng rất lớn tới chất lượng nguồn nhân lực của mỗi quốc gia, trong mỗi thời kỳ nhất định. Xây dựng cơ chế chính sách trên cơ sở đặc điểm của mỗi vùng, mỗi ngành, mỗi địa phương phù hợp với tình hình nguồn nhân lực hiện có (đặc biệt là vùng sâu, vùng xa, vùng kinh tế khó khăn). Nếu việc bố trí, luân chuyển, sắp xếp nguồn nhân lực chất lượng cao không căn cứ vào năng lực, trình độ chuyên môn và những phẩm chất khác của mỗi người, không căn cứ vào nhu cầu đòi hỏi của mỗi ngành, địa phương, khu vực - sẽ ảnh hưởng đến chất lượng nguồn nhân lực chất lượng cao, đồng thời gây tâm lý xã hội không tốt cho cộng đồng, nhất là những người đang trong các cơ sở giáo dục và đào tạo. Để phát huy hiệu quả nguồn nhân lực chất lượng cao, Nhà nước cần ban hành những chính sách cần thiết nhằm tạo động lực thúc đẩy phát triển nguồn nhân lực nói chung và nguồn nhân lực chất lượng cao nói riêng như chính sách tiền lương phù hợp với từng ngành nghề, từng công việc, phụ cấp ưu đãi phù hợp với những ngành nghề độc hại, chính sách thu hút, sử dụng nhân tài, chính sách trợ cấp đối vời những người công tác tại các vùng sâu, vùng xa, vùng khó khăn nhằm phát huy hơn nữa tác dụng của nguồn nhân lực chất lượng cao, đáp ứng yêu cầu đổi mới và phát triển kinh tế - xã hội. Cơ chế chính sách cần phải linh hoạt, hợp lý, đủ mạnh phù hợp với sự vận hành của kinh tế thị trường, tạo động lực khuyến khích người lao động nâng cao năng lực trình độ chuyên môn và tay nghề. Việc bố trí, sắp xếp nguồn nhân lực chất lượng cao phải căn cứ vào năng lực, trình độ, phẩm chất đạo đức của từng Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 152 người phù hợp với từng vùng, từng địa phương trong mỗi thời kỳ nhất định. Do vậy, vấn đề cần tập trung giải quyết cho nguồn nhân lực chất lượng cao đó là phải có cơ chế chính sách thích hợp để đảm bảo đủ về số lượng, nâng cao chất lượng và phù hợp về cơ cấu nguồn nhân lực - sẽ là nhân tố tác động đến quá trình phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao. TÀI LIỆU THAM KHẢO [1].Nguyễn Mạnh Cường (2006). “Cơ hội và thách thức trong lĩnh vực lao động khi Việt Nam hội nhập kinh tế quốc tế”. Tạp chí Lao động & Xã hội, số 281. [2]. Hồ Đức Hùng (2007). Kinh tế Việt Nam hội nhập và phát triển bền vững. NXB Thông tấn. [3]. Phạm Thị Ngọc Mỹ (2008). “Nâng cao năng lực đào tạo nhân lực để đáo ứng nhu cầu của xã hội của nước ta hiện nay”. Tạp chí phát triển kinh tế. Số 208, tháng 2. [4]. Cidi Wee (2009). Linking Education and Training to Economic Development – The Singapore Experience (presentation at The National Economic University, March 2009) [5]. Raymon A. Noe, John R. Hollenbeck, Bary Gerhart and Patrick M. Wright (2008). Human Resource Management – Gaining a Competitive Advantage. McGraw. Hill International Edition SUMMARY DEVELOPING HIGH QUALITY HUMAN RESOURCES IN OUR COUNTRY NOWADAYS Nguyen Quang Hau 1 , Tran Hoang Tam 2 1Hanoi Agricultural University 2College of Science - TNU The scientific and technological revolution in the world is growing constanly at a faster and faster rate and is able to create the breakthrough achievements, which are difficult to predict and influence greatly on all aspects of human life. It is the great achievements of science and technology, especially of information technology - communication, biotechnology, material technology...that human society is in the process of transformation from industrial civilization age to the information age; from the natural resource-based economy to the knowledge- based economy. It’s time for developing countries to shorten their process of industrialization and modernization. Sence and technology is becoming a direct leading productive force. The strength of each country depends mostly on its capacity in terms of science and technology. Advantages in natural resources, cheap work force are less significant. The role of the human resource that is qualified and has innovative capacity, is more decisive significance in the context of economic’s globalization. Key word: power man, developing, quality, human, integration

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfbrief_32454_36013_88201292312phattriennguonnhanluc_6529_2052807.pdf