Knowledge Economy is becoming the mainstream of the world economy. Initially, this article
analyzes an overview of the process of formation, concepts and characteristics of the knowledge
economy. Since then, the author analyzes economic trends in the manner of the knowledge
economy in the developed countries today. According to this general trend, the choice of Vietnam
as economic trends in the knowledge of economic development is an indispensable requirement
and objective to be able to get the country out of poverty, backwardness, making Vietnam soon
become a developed industrial countries.
6 trang |
Chia sẻ: yendt2356 | Lượt xem: 510 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Phát triển kinh tế tri thức – sự lựa chọn tất yếu của Việt Nam hiện nay, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Lê Thị Sự Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 98(10): 91 - 96
91
PHÁT TRIỂN KINH TẾ TRI THỨC – SỰ LỰA CHỌN TẤT YẾU
CỦA VIỆT NAM HIỆN NAY
Lê Thị Sự*
Trường Đại học Khoa học – ĐH Thái Nguyên
TÓM TẮT
Bài viết phân tích một cách khái quát về quá trình hình thành, khái niệm và đặc trưng của kinh tế
tri thức. Từ đó tác giả phân tích xu hướng phát triển kinh tế theo cách thức của kinh tế tri thức ở
các nước phát triển hiện nay. Theo xu thế chung đó, sự lựa chọn của Việt Nam theo xu hướng kinh
tế tri thức trong quá trình phát triển kinh tế là một yêu cầu tất yếu và khách quan để có thể đưa đất
nước thoát khỏi tình trạng nghèo nàn, lạc hậu, đưa Việt Nam sớm trở thành một nước công nghiệp
phát triển.
Từ khóa: Kinh tế tri thức; xu hướng phát triển; quá trình hội nhập, toàn cầu hóa; chiến lược phát triển
Kinh tế tri thức (KTTT) là một khái niệm mới
xuất hiện, nó được hiểu như một giai đoạn
phát triển mới, cao hơn của nền kinh tế nhân
loại. Mặc dù mới xuất hiện, nhưng với tốc độ
phát triển nhanh chóng của mình, KTTT đã
làm thay đổi một cách căn bản và sâu sắc cục
diện nền kinh tế thế giới. Với sự xuất hiện của
công nghệ sinh học, công nghệ năng lượng,
công nghệ vật liệu mới, đặc biệt là sự xuất
hiện của công nghệ thông tin, nền kinh tế thế
giới đã có những bước nhảy vọt mạnh mẽ
chưa từng có trong lịch sử. Ở các nước như
Mỹ, Nhật Bản, Hà Lan, việc phát triển theo
xu hướng tri thức hóa nền kinh tế đã làm cho
nền kinh tế của họ phát triển vượt xa nền kinh
tế của các nước kém phát triển. Việt Nam
đang là một quốc gia đang trên con đường
công nghiệp hóa, hiện đại hóa, việc lựa chọn
con đường phát triển của KTTT là một yêu
cầu khách quan của thời đại, nếu không,
chẳng những chúng ta không thể “đi tắt, đón
đầu” được mà nền kinh tế sẽ càng tụt hậu hơn
so với nền kinh tế thế giới.*
KHÁI NIỆM VÀ ĐẶC TRƯNG CỦA
KINH TẾ TRI THỨC
Khái niệm kinh tế tri thức
Cuộc cách mạng khoa học – công nghệ hiện
đại là tiền đề cho sự hình thành và phát triển
nền kinh tế tri thức. Với ba phát minh vĩ đại
của trí tuệ nhân loại nửa đầu thế kỷ XX:
Thuyết tương đối của Anhxtanh, Thuyết
*
Tel: 01256 356666, Email; lesudhkhtn@gmail.com
lượng tử của Blăngcơ và phát hiện ra mật mã
di truyền của Oatxơn và Gricơ đã mở đầu cho
một thời kỳ mới của khoa học và công nghệ
hiện đại. Từ đây, đã tạo ra một hệ thống công
nghệ mới, đó là các công nghệ vi điện tử, máy
tính, quang điện, laze, vật liệu mới, hạt nhân,
gen, tế bào
Đến giữa thập kỷ 70 của thế kỷ XX, cuộc
cách mạng khoa học – công nghệ chuyển sang
giai đoạn mới, giai đoạn bùng nổ công nghệ.
Từ đó tạo ra một cuộc chạy đua ráo riết để
chiếm lĩnh công nghệ cao trước thiên niên kỷ
mới. Cuộc cách mạng công nghệ này đã tạo
nên bộ mặt mới của nền kinh tế, tạo tiền đề
hình thành KTTT và xã hội thông tin.
Trong nền kinh tế mới này, tri thức và thông
tin đã trở thành yếu tố sản xuất quan trọng
nhất, hơn cả vốn, nguyên, nhiên liệu và năng
lượng. Ngày nay, sự xuất hiện của các ngành
công nghệ cao như công nghệ sinh học, công
nghệ vật liệu mới, công nghệ năng lượng và
công nghệ thông tin đã phát triển rất mạnh
mẽ, trở thành trụ cột của các nền kinh tế, tạo
ra những biến đổi to lớn trong lực lượng sản
xuất và toàn bộ xã hội loài người.
Các chuyên gia của tổ chức Liên hợp quốc dự
đoán, vào khoảng những năm 2030, ở các
quốc gia phát triển, nền KTTT về cơ bản sẽ
hình thành, và đến cuối thế kỷ XXI, nhân loại
sẽ bước vào thời đại KTTT.
Những năm gần đây, người ta đã dùng nhiều
tên gọi khác nhau để chỉ giai đoạn phát triển
mới của nền kinh tế này như: “Kinh tế thông
Lê Thị Sự Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 98(10): 91 - 96
92
tin”, “kinh tế mạng”, “kinh tế số”; “Kinh tế
học hỏi”; “Kinh tế dựa vào tri thức”, “kinh tế
dẫn dắt bởi tri thức”, “kinh tế tri thức”.
Trong số các tên gọi trên, “kinh tế tri thức” là
tên gọi thường được dùng nhất. Tổ chức
OECD (Tổ chức hợp tác và phát triển kinh tế)
chính thức dùng từ năm 1996. Cách gọi này
nói lên được nội dung của nền kinh tế mới
xuất hiện này. Theo tổ chức này, KTTT được
định nghĩa là những nền kinh tế dựa trực tiếp
vào việc sản xuất, phân phối và sử dụng tri
thức, thông tin [5; 98]. Tức là việc sản xuất,
phân phối và sử dụng tri thức giữ vai trò
quyết định trong phát triển kinh tế, tạo ra của
cải vật chất, nâng cao chất lượng cuộc sống..
Ngoài ra còn có nhiều cách hiểu khác nhau về
nền kinh tế mới này. Tuy nhiên, tất cả cách
tiếp cận đó đều xoay quanh định nghĩa khái
quát của tổ chức OECD.
Đặc trưng của kinh tế tri thức
Hiện nay, khi nhận định về đặc trưng của
KTTT, các ý kiến phần lớn là giống nhau, chỉ
khác nhau ở số lượng các đặc trưng. Dưới
đây, chúng tôi xin trình bày một số đặc trưng
chủ yếu của nền KTTT như sau:
Đặc trưng cơ bản nhất của KTTT đó là nền
kinh tế dựa chủ yếu vào tri thức hay tri thức
trở thành nguồn lực có ý nghĩa quyết định
nhất đến sự phát triển kinh tế - xã hội. Khác
với các nền kinh tế đã có trong lịch sử (nền
kinh tế nông nghiệp, nền kinh tế công
nghiệp), tri thức là nguồn lực có vị trí quyết
định nhất của sản xuất, là động lực quan
trọng nhất cho sự phát triển kinh tế trong nền
kinh tế tri thức.
Trong nền KTTT, tri thức tham gia vào quá
trình quản lý, điều khiển sản xuất, đồng thời
trực tiếp là một thành tố trong các sản phẩm
cũng như nguyên liệu sản xuất. Ngày nay,
đúng như dự báo của C.Mác: Tri thức trở
thành lực lượng sản xuất trực tiếp. Xu hướng
này ngày càng được thấy rõ, có hơn 50%
GDP hàng năm của các nước OECD có
nguồn gốc từ tri thức, có tới 60% công nhân
Mỹ là công nhân tri thức, trong cơ cấu giá trị
các sản phẩm, giá trị của nó được cấu thành
từ tri thức chiếm 70% – 80%, thậm chí có
những sản phẩm còn cao hơn.
Nền KTTT mang tính chất toàn cầu. Quá
trình phát triển khoa học công nghệ, nhất là
công nghệ thông tin và truyền thông, phát
triển KTTT, cùng với quá trình phát triển
thương mại, thị trường và quá trình toàn cầu
hóa, nhất thể hóa các nền kinh tế là những
quá trình đi liền nhau, gắn quyện với nhau,
tác động qua lại, thúc đẩy nhau phát triển.
Ngày nay, sự sản sinh ra, truyền bá và sử
dụng tri thức không còn nằm trong phạm vi
biên giới một quốc gia. Nền KTTT ra đời
trong điều kiện nền kinh tế thế giới toàn cầu
hóa; bất cứ ngành sản xuất nào, dịch vụ nào
cũng đều dựa vào nguồn cung ứng từ nhiều
nước và được tiêu thụ trên toàn thế giới.
Người ta thường gọi nền KTTT là nền kinh tế
toàn cầu hóa nối mạng, hay là nền kinh tế
toàn cầu dựa vào tri thức.
Phương thức phát triển cơ bản của nền KTTT
là xã hội học tập, học tập suốt đời cho mọi
người. Để có được tri thức, mọi người cần
học tập thường xuyên hơn nữa, có tổ chức và
dưới nhiều hình thức, mới có thể tiếp thu và
biến tri thức chung thành cái của mình. Hơn
nữa, muốn sử dụng tri thức chung như một
loại hàng hóa thông thường, mỗi người lại
phải biết chuyển hóa những tri thức đó thành
kỹ năng. Với nền KTTT, việc có được nhiều
hay ít tri thức là do quá trình học tập, tiếp thu
tri thức và năng lực chuyển hóa tri thức của
mỗi người.
Nền KTTT là nền kinh tế phát triển bền vững
và thân thiện với môi trường. Trong nền
KTTT, sự phát triển của nó là dựa trên cơ sở
kinh tế công nghệ cao, sử dụng một cách hợp
lý, hiệu quả các nguồn tài nguyên và không
gây ô nhiễm môi trường sống của con người,
đồng thời khai phá nguồn tài nguyên thiên
nhiên còn chưa được tận dụng hết để thay thế
nguồn tài nguyên thiên nhiên quý hiếm đang
gần cạn kiệt. Ví dụ, hiện nay nguồn năng
lượng hóa thạch đang gây ô nhiễm nặng nề,
với mối đe dọa về sự cạn kiệt dầu khí (giá dầu
hiện nay có lúc đã lên đến hơn
130USD/thùng) đang là nguy cơ đối với tính
bền vững, thì nhờ hệ thống công nghệ cao,
Lê Thị Sự Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 98(10): 91 - 96
93
nền KTTT có thể chuyển sang hệ năng lượng
mới rẻ tiền và phân phối đồng đều như năng
lượng mặt trời, năng lượng nhiệt hạch,
và nhân loại sẽ bước vào thời kỳ phát triển
bền vững.
Nền KTTT làm biến đổi cơ bản thị trường
truyền thống. KTTT sinh ra trong điều kiện
của nền kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa và
hàng hóa tri thức ngày càng trở nên áp đảo
trong thị thị trường đó. Tình hình này dẫn đến
những thay đổi cơ bản trong thị trường truyền
thống. Trước hết là vấn đề tài sản vô hình
ngày càng trở thành vốn đầu tư chính. KTTT
tất nhiên cũng cần các loại vốn thông thường
(tiền, tài sản), nhưng thông tin, tri thức, tài
sản trí tuệ, vốn người ngày càng trở nên quan
trọng áp đảo (so với vốn tiền). Trong nền kinh
tế Mỹ hiện nay, ở các doanh nghiệp công
nghệ cao (Công nghệ phần mềm, viễn
thông), số vốn vô hình chiếm tới trên 60%
tổng số vốn hữu hình (tiền, tài sản).
KTTT làm thay đổi cơ cấu xã hội và thang giá
trị xã hội. Trong nền KTTT, thành phần lao
động dịch vụ tăng mạnh (có thể lên tới 80% -
85%), thành phần công nghiệp giảm xuống
dưới 10% - 15% và lao động nông nghiệp chỉ
còn khoảng dưới 5%. Những người lao động
tri thức chiếm tỷ lệ rất cao (≈70%), trong số
đó, những công nhân tri thức tuy ít nhưng có
trình độ và vai trò quyết định trong sản xuất.
Trong xã hội xuất hiện các cộng đồng dân cư
kiểu mới. Đó là các tổ hợp vừa sản xuất, vừa
nghiên cứu, học tập, các làng khoa học, các
công viên khoa học, các vườn ươm khoa học,
được xây dựng.
KINH TẾ TRI THỨC – CƠ HỘI VÀ
THÁCH THỨC VỚI VIỆT NAM
Thực trạng kinh tế tri thức ở Việt Nam
hiện nay
Nắm bắt được xu thế vận động của thời đại,
ngay từ đầu Đảng ta đã rất coi trọng việc tạo
ra động lực cho việc hình thành và phát triển
KTTT. Tuy nhiên, hiện nay về cơ bản nền
kinh tế Việt Nam vẫn là nền kinh tế mang
những dấu ấn của kinh tế nông nghiệp, đang
chuyển dần sang kinh tế công nghiệp. Vị trí
của Việt Nam trong nền kinh tế tri thức toàn
cầu là rất thấp. Những chỉ số về kinh tế tri
thức của Việt Nam đều ở nửa dưới của bảng
xếp hạng. Chỉ số chung về KTTT (KEI) của
Việt Nam hiện đang là 3,51, trong khi đó chỉ
số KEI của một số nước trong khu vực là rất
cao: Singapore là 8,44; Malaysia là 6,07; Thái
Lan là 5,52 [6].
Cơ cấu kinh tế - lao động của Việt Nam hiện
nay vẫn là lạc hậu: tỷ trọng các ngành dịch
vụ, công nghiệp trong GDP còn hạn chế,
ngành nông nghiệp còn cao (năm 2010, nông
nghiệp chiếm 20,6% GDP, công nghiệp
41,1% và dịch vụ 38,3%). Cơ cấu lao động
cũng chưa chuyển biến mạnh mẽ: lao động
trong lĩnh vực nông nghiệp còn chiếm tỷ
trọng rất cao, chất lượng lao động còn nhiều
hạn chế. Trong khi đó hiện nay ở Mỹ khoảng
80% lực lượng lao động làm việc trong các
ngành dịch vụ, nghiên cứu, ứng dụng và
triển khai.
Thời cơ và thách thức của Việt Nam khi
phát triển kinh tế tri thức
Trong xu thế phát triển mạnh mẽ của cuộc
cách mạng khoa học – công nghệ và toàn cầu
hóa hiện nay, các nước đang phát triển như
Việt Nam có nhiều cơ hội nắm bắt các tri thức
mới, công nghệ mới để rút ngắn quá trình
công nghiệp hóa, hiện đại hóa nền kinh tế.
Những bài học kinh nghiệm được rút ra từ các
mô hình kinh tế đi trước cùng với việc biết
phát huy nội lực và những lợi thế so sánh,
tranh thủ nguồn ngoại lực sẽ giúp chúng ta có
những bước đi phù hợp để phát triển nền kinh
tế tri thức ở Việt Nam. Đó là một thời cơ lớn
của đất nước.
Tuy nhiên, Việt Nam bước vào xây dựng nền
KTTT với điểm xuất phát thấp, còn nhiều
thách thức rất gay gắt cần được khắc phục
trong quá trình phát triển. Đó là những thách
thức nảy sinh từ thực trạng nền kinh tế còn
non yếu của chúng ta đứng trước bối cảnh nền
kinh tế thế giới đang trong quá trình toàn cầu
hóa mạnh mẽ, do chủ nghĩa tư bản chi phối,
làm gia tăng nhanh khoảng cách phát triển và
khoảng cách giàu nghèo giữa các quốc gia,
làm cho các mâu thuẫn xã hội ngày càng sâu
sắc và gay gắt.
Việt Nam bước vào KTTT trong khi sự chênh
lệch về công nghệ với các nước phát triển là
Lê Thị Sự Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 98(10): 91 - 96
94
rất xa, những lợi thế về tài nguyên và nguồn
lao động rẻ không còn là ưu thế, trong khi đó,
chúng ta lại phải đi mua các sản phẩm công
nghệ với giá rất cao. Mặt khác, các nước giàu
đang dần đẩy các công nghiệp tốn nhiều năng
lượng, nguyên liệu, và gây ô nhiễm sang các
nước đang phát triển dưới hình thức đầu tư,
khiến cho nguy cơ rủi ro của nền kinh tế
chúng ta ngày càng lớn. Cộng vào đó là nạn
chảy máu chất xám làm cho Việt Nam mất đi
một nguồn lực đáng kể.
TÍNH TẤT YẾU CỦA VIỆC PHÁT
TRIỂN KINH TẾ TRI THỨC Ở VIỆT
NAM HIỆN NAY
Kinh tế tri thức – xu thế phát triển của nền
kinh tế thế giới
Bản chất, đặc điểm cũng như biểu hiện của
KTTT đã chứng tỏ rằng nền KTTT không
phải là sự kỳ vọng hay mơ ước viển vông, mà
đó là một xu thế vận động, phát triển được
hiện thực hóa khá nhanh. Lực lượng sản xuất
vốn là yếu tố động, cách mạng, vì thế nó
không ngừng phát triển theo hướng tích cực,
làm cho nền kinh tế chuyển biến từ kinh tế
nông nghiệp đến kinh tế công nghiệp và ngày
nay đang chuyển dần lên KTTT. KTTT là giai
đoạn phát triển cao của lực lượng sản xuất,
cũng như các nền kinh tế trước nó, KTTT là
sự phát triển tất yếu của lực lượng sản xuất.
Khi lực lượng sản xuất chủ yếu dựa vào lao
động thủ công và đất đai thì ra đời nền kinh tế
nông nghiệp, khi sản xuất dựa chủ yếu vào
máy móc và tài nguyên thiên nhiên thì ra đời
kinh tế công nghiệp, đến khi sự sản xuất ra
của cải vật chất dựa chủ yếu vào tri thức thì ra
đời KTTT.
Đã gọi là xu thế khách quan thì không thể
quay lưng lại hay từ chối nó mà có thể phát
triển được. Nhờ sớm biết sử dụng tri thức để
phát triển mà nền kinh tế của các nước phát
triển đã vượt xa các nước đang phát triển cả
về trình độ và tốc độ phát triển. Do tính linh
hoạt, hiệu quả cao, các sáng kiến, phát minh
khoa học xuất hiện ngày càng nhiều và điều
quan trọng hơn là chúng được phổ biến cực
nhanh trên diện rộng thông qua mạng internet
siêu cao tốc đã tạo ra sự bứt phá nhanh trong
tăng trưởng kinh tế. Theo tính toán của giới
chuyên môn, chỉ tính riêng quá trình chuyển
giao công nghệ được rút ngắn, có thể đẩy mức
tăng trưởng kinh tế thế giới lên đến 1% hằng
năm, tương đương với 300 tỷ USD và còn cao
gấp bội theo mức gia tăng của tổng sản phẩm
thế giới trong thế kỷ 21. Thành quả của
KTTT là rất to lớn; bởi vậy, việc nắm bắt
được xu thế phát triển của nền KTTT, đưa ra
được những đối sách thích hợp trong chiến
lược phát triển kinh tế có ý nghĩa vô cùng
quan trọng đối với triển vọng phát triển của
mỗi quốc gia hiện nay.
Các nước đang phát triển hiện nay đang đứng
trước những cơ hội mới, đồng thời cũng gặp
không ít thách thức. Cơ hội lớn nhất là thông
qua KTTT để đón đầu các công nghệ hiện đại
sử dụng vào phát triển kinh tế - xã hội. Nếu
nắm bắt được cơ hội lớn này, các nước đang
phát triển có thể nhanh chóng bứt phá vươn
lên, rút ngắn khoảng cách với các nước phát
triển để không rơi vào nguy cơ tụt hậu. Xu thế
toàn cầu hóa do KTTT đặt ra cho phép các
nước chậm phát triển thực hiện chủ trương đa
phương hóa quan hệ kinh tế và khoa học công
nghệ với thế giới. Trên nền tảng quan hệ kinh
tế, các nước chậm phát triển có khả năng chủ
động khai thác những thành tựu khoa học
công nghệ tiên tiến của các cường quốc trên
thế giới.
Kinh tế tri thức – sự lựa chọn của Việt Nam
KTTT xuất hiện với tiền đề của cuộc cách
mạng khoa học và công nghệ hiện đại đang
trở thành khuynh hướng tất yếu và khách
quan của nền kinh tế thế giới trong thời đại
ngày nay. Bất kỳ một nền kinh tế nào muốn
tồn tại và phát triển được thì cũng không có
con đường nào khác ngoài hướng cho nền
kinh tế của mình đi theo cách thức phát triển
mà nền KTTT yêu cầu. Đặc biệt, sự xuất hiện
và phát triển của nền kinh tế mới này lại gắn
liền với quá trình toàn cầu hóa. Do vậy, phát
triển KTTT đồng thời phải đưa nền kinh tế
hội nhập vào quá trình này. Không thể phát
triển KTTT mà lại từ chối toàn cầu hóa và
ngược lại, không thể tham gia vào quá trình
toàn cầu hóa mà lại không phát triển KTTT.
Việt Nam là một quốc gia đang phát triển,
tham gia vào nền kinh tế thế giới với điểm
Lê Thị Sự Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 98(10): 91 - 96
95
xuất phát thấp, chúng ta cũng như các nước
đang phát triển khác, đứng trước hai khả
năng: hoặc biết tranh thủ thời cơ, có đường
lối và chiến lược phát triển đúng, thông minh
sáng tạo thì hoàn toàn có thể vươn lên, đi
nhanh, sớm khắc phục tình trạng kém phát
triển, sớm tiến kịp các nước đi trước; hoặc
không đủ bản lĩnh chớp lấy thời cơ thì đất
nước không thể thoát khỏi tình trạng nghèo
nàn, tụt hậu ngày càng xa hơn, thậm chí bị gạt
ra ngoài lề con đường phát triển của nền kinh
tế thế giới.
Do đó, đứng trước ngưỡng cửa của nền
KTTT, ở Việt Nam vẫn có những quan điểm
trái chiều. Có người ủng hộ xu thế mới này
nhưng cũng có người không tin tưởng vào
khả năng hội nhập của nền kinh tế nước ta.
Nhận thức rõ được xu thế của thời đại, Đảng
ta đã không ngừng đưa ra những chính sách
đổi mới kịp thời, trở thành những chiến lược
đúng đắn cho con đường đi lên của Việt Nam.
Tại Đại hội lần thứ IX, Đảng ta đã xác định:
“Thế kỷ XXI sẽ có nhiều biến đổi. Khoa học
và công nghệ sẽ có bước tiến nhảy vọt. KTTT
sẽ có vai trò ngày càng nổi bật trong quá
trình phát triển lực lượng sản xuất” [1; 91].
Đến Đại hội X, Đảng ta chỉ rõ: “Chúng ta
tranh thủ các cơ hội thuận lợi do bối cảnh
quốc tế tạo ra và tiềm năng, lợi thế của nước
ta để rút ngắn quá trình công nghiệp hóa,
hiện đại hóa đất nước theo định hướng xã hội
chủ nghĩa gắn với phát triển KTTT. Phải coi
KTTT là yếu tố quan trọng của nền kinh tế
công nghiệp hóa, hiện đại hóa; phát triển
mạnh các ngành kinh tế và các sản phẩm kinh
tế có giá trị gia tăng cao và dựa nhiều vào tri
thức” [2; 28-29].
Như vậy, Đảng ta đã khẳng định, cần nắm bắt
khoa học công nghệ hiện đại và KTTT để rút
ngắn quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa
đất nước. Muốn rút ngắn phải biết tăng tốc và
biết đi tắt, bỏ qua những bước đi mà các nước
đi trước đã phải đi vòng do lúc đó chưa có
điều kiện. Đảng ta quan niệm, KTTT là một
thực tế khách quan, một trình độ phát triển
của lực lượng sản xuất, nhưng đó không phải
là một hình thái kinh tế - xã hội mới, cũng
không phải là một lĩnh vực kinh tế độc lập,
nằm ngoài các ngành kinh tế khác. Do vậy,
chúng ta cần biết vận dụng những thành tựu
của tri thức nhân loại để tiến hành công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, đưa nền
kinh tế đất nước tiến kịp với nền kinh tế nhân
loại, đồng thời xây dựng một xã hội xã hội
chủ nghĩa công bằng và tiến bộ.
Hội nhập vào nền kinh tế thế giới là một xu
thế tất yếu, vì hiện nay không có một nền
kinh tế nào có thể đứng độc lập mà phát triển
được. Nhưng hội nhập mà không đủ năng lực
nội sinh, không biết tận dụng các yếu tố thuận
lợi của thời đại để phát triển nhanh thì sẽ bị
cuốn hút, đè bẹp. Nguy cơ tụt hậu về kinh tế
so với nhiều nước trong khu vực vẫn là thách
thức to lớn và gay gắt do điểm xuất phát của
Việt Nam quá thấp, lại phải phát triển trong
môi trường cạnh tranh khốc liệt.
Những khó khăn của đất nước khi hội nhập
buộc chúng ta phải có những chiến lược phát
triển phù hợp. Sự xuất hiện của KTTT là vận
hội chưa từng có để Việt Nam đi tắt, đón đầu,
từng bước đuổi kịp các nước tiên tiến trên thế
giới. Muốn làm được điều đó, điều quan trọng
là phải có một thiết chế chính sách cụ thể, phù
hợp cả trong đầu tư phát triển nguồn nhân lực
lẫn chính sách phát triển kinh tế hợp lý, cơ
chế phát triển thông thoáng của hệ thống
chính sách của nhà nước.
KẾT LUẬN
KTTT là vận hội để chúng ta đẩy nhanh công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Việt Nam
cần tận dụng cơ hội đó để thực hiện chiến
lược phát triển đi tắt, đón đầu, rút ngắn
khoảng cách, không bị tụt hậu so với nền kinh
tế thế giới. Đi tắt cũng có nghĩa là phải kết
hợp hai quá trình: chuyển từ kinh tế nông
nghiệp sang kinh tế công nghiệp và từ kinh tế
công nghiệp lên KTTT. Ở Việt Nam, hai quá
trình ấy phải tiến hành đồng thời, lồng ghép
vào nhau, hỗ trợ cho nhau. Thực hiện được
điều đó là một khó khăn rất lớn, đồng thời
cũng là một lợi thế của các nước đi sau như
Việt Nam chúng ta.
Lê Thị Sự Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 98(10): 91 - 96
96
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1]. Đảng Cộng sản Việt Nam (2001): Văn kiện
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb Chính
trị Quốc gia, Hà Nội.
[2]. Đảng Cộng sản Việt Nam (2006): Văn kiện
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb Chính
trị Quốc gia, Hà Nội.
[3]. Phạm Thị Hồng Điệp, “Nguồn lực con người
và phát triển bền vững KTTT”, Tạp chí Khoa học
xã hội, số 1 – 2008.
[4]. Phạm Minh Hạc (Chủ nhiệm, 1996), Vấn đề
con người trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện
đại hóa đất nước. Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
[5]. Đặng Hữu (2004), KTTT, thời cơ và thách
thức đối với xã hội Việt Nam, Nxb Chính trị Quốc
gia, Hà Nội.
[6]. Nguyễn Trọng Tuấn
SUMMARY
KNOWLEDGE ECONOMY –
THE INEVITABLE CHOICE OF VIETNAM TODAY
Le Thi Su*
College of Sciences – TNU
Knowledge Economy is becoming the mainstream of the world economy. Initially, this article
analyzes an overview of the process of formation, concepts and characteristics of the knowledge
economy. Since then, the author analyzes economic trends in the manner of the knowledge
economy in the developed countries today. According to this general trend, the choice of Vietnam
as economic trends in the knowledge of economic development is an indispensable requirement
and objective to be able to get the country out of poverty, backwardness, making Vietnam soon
become a developed industrial countries.
Keywords: Knowledge Economy; development trend; intergration strategy; globalization;
development strategy
Ngày nhận bài: 31/5/2012, ngày phản biện: 01/6/2012, ngày duyệt đăng:12/11/2012
*
Tel: 01256 356666, Email; lesudhkhtn@gmail.com
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- brief_36367_39967_4220139201691_5268_2052205.pdf