Pháp luật trong hệ thống công cụ điều chỉnh quan hệ xã hội

Điều chỉnh là một thuật ngữ Hán Việt, trong đó, “điều” chỉ sự cân nhắc, thêm, bớt làm cho phù hợp; “chỉnh” là sửa đổi, uốn nắn, làm cho ngay ngắn , Từ điển Tiếng Việt giải thích, điều chỉnh là “sửa đổi, sắp xếp lại ít nhiều cho đúng hơn, cân đối hơn” . Trong sự phát triển tự nhiên của đời sống xã hội, bên cạnh những mối quan hệ cần thiết, có ích cho xã hội thì cũng luôn tồn tại cả những mối quan hệ không có ích, thậm chí có hại cho trật tự chung. Để duy trì ổn định, trật tự xã hội đòi hỏi các mối quan hệ trong xã hội phải được điều chỉnh, nhằm khuyến khích, tạo điều kiện cho những quan hệ xã hội có lợi cho đời sống cộng đồng được tồn tại và phát triển, ngăn chặn và đi tới loại bỏ những mối quan hệ mà cộng đồng không mong muốn. Điều chỉnh quan hệ xã hội là việc sử dụng các công cụ để tác động lên các quan hệ xã hội, làm cho chúng trở nên thay đổi và phát triển theo những mục đích, định hướng nhất định, nhằm duy trì và bảo vệ trật tự xã hội.

doc18 trang | Chia sẻ: linhmy2pp | Ngày: 09/03/2022 | Lượt xem: 565 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Pháp luật trong hệ thống công cụ điều chỉnh quan hệ xã hội, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
nh. Nói cách khác, các mối quan hệ xã hội được điều chỉnh bằng cách xác định cách thức xử sự cho các chủ thể quan hệ xã hội đó, qui định quyền, nghĩa vụ cho họ, qui định cho họ những việc được làm, nên làm, cần phải làm hay không được làm 2. Hệ thống công cụ điều chỉnh quan hệ xã hội Các quan hệ xã hội rất phong phú, đa dạng và phức tạp, bởi vậy, để điều chỉnh chúng một cách có hiệu quả, cần phải có nhiều công cụ khác nhau, bao gồm pháp luật (thể chế quan phương), đạo đức, phong tục tập quán, tín điều tôn giáo, lệ làng, hương ước, luật tục, qui định của các tổ chức xã hội(thể chế phi quan phương). Các công cụ này vừa có sự độc lập, vừa có sự ràng buộc, phụ thuộc lẫn nhau, hợp thành hệ thống công cụ điều chỉnh các mối quan hệ xã hội. Ngày nay, nhìn chung các nhà khoa học đều tiếp cận khái niệm pháp luật theo nhiều cấp độ. Theo nghĩa hẹp, pháp luật là hệ thống qui tắc xử sự mang tính bắt buộc chung cùng “các nguyên tắc, định hướng, mục đích pháp luật” Lê Minh Tâm, Xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam những vấn đề lý luận và thực tiễn, Nxb Công an nhân dân, H. 2003, tr.11. , do nhà nước ban hành để điều chỉnh các quan hệ xã hội. Theo nghĩa rộng, pháp luật được xem xét cả từ“đầu vào, đầu ra, cả pháp luật ở trạng thái tĩnh và trạng thái động” Hoàng Thị Kim Quế, Quan niệm về pháp luật, một vài suy nghĩ, Tạp chí nhà nước và pháp luật, số 6/2006, tr.11. , theo đó, pháp luật tồn tại và phát triển trên cả ba lĩnh vực: “hệ thống qui phạm pháp luật, tư tưởng pháp luật, ý thức pháp luật và văn hóa pháp luật, thực tiễn pháp luật (trong các hình thức thực hiện pháp luật, các quan hệ pháp luật)” Hoàng Thị Kim Quế, sđd, tr.11. . Theo cách tiếp cận này, pháp luật được hiểu rất rộng, đó không chỉ là hệ thống pháp luật thực định, nó còn được nhận thức cả trên bình diện ý thức pháp luật, cả trên bình diện thực tiễn thực hiện pháp luật. Đạo đức là một khái niệm hết sức phức tạp, khái niệm này vừa hết sức phổ biến trong dân gian, vừa đậm đặc chất học thuật, bởi vậy nó được hiểu theo nhiều cách khác nhau trong những thời gian, không gian, đối tượng khác nhau. Trong đời sống hàng ngày, đạo đức Nhiều khi còn nói tắt là đức để phân biệt với tài là năng lực, trình độ, tài năng. thường được đồng nhất với ý thức đạo đức cá nhân, đó là đức hạnh, phẩm hạnh của con người, những nét đẹp, nết tốt, những “phẩm chất tốt đẹp của con người do tu dưỡng theo những tiêu chuẩn đạo đức xã hội mà có” Từ điển Tiếng Việt, Nxb Đà nẵng, 1997, tr. 280. . Trong khoa học, trước hết, đạo đức được hiểu là tổng thể những quan niệm, quan điểm về chân, thiện, mỹ, nghĩa vụ, danh dự (trong đó cốt lõi là điều thiện) cùng những qui tắc xử sự được hình thành trên cơ sở những quan niệm, quan điểm đó nhằm điều chỉnh hành vi, ứng xử của con người, chúng được thực hiện bởi lương tâm, tình cảm cá nhân và sức mạnh của dư luận xã hội. Đạo đức không chỉ là những qui tắc đối nhân, xử thế, nó còn là các chuẩn mực để mỗi người tự tu thân, dưỡng tâm, rèn luyện tính cách theo những định hướng giá trị nhất định Vũ Trọng Dung (chủ biên), Giáo trình Đạo đức học Mác Lênin, Nxb Chính trị Quốc gia, H. 2005, tr. 9. . Chính vì vậy, đạo đức là công cụ điều chỉnh quan trọng bậc nhất đối với các quan hệ xã hội. Theo nghĩa rộng, khái niệm đạo đức mang một dung lượng rất rộng, nó được nhận thức cả từ góc độ ý thức (ý thức đạo đức xã hội và ý thức đạo đức cá nhân), cả từ góc độ thể chế (nguyên tắc, qui tắc, chuẩn mực đạo đức), cả từ góc độ thực tiễn (hành vi đạo đức). Phong tục, tập quán là loại qui phạm xã hội rất gần gũi với con người. “Phong tục” là một thuật ngữ Hán-Việt, trong đó “phong” nghĩa gốc là gió, “tục” là quen dùng, quen thuộc, “phong tục” là thói quen đã ăn sâu vào đời sống xã hội, được mọi người công nhận và làm theo” Hoàng Phê (chủ biên), Từ điển tiếng Việt, Nxb Đà Nẵng 1997, tr. 869. . Tác giả Thiều Chửu giải thích: bề trên giáo hóa kẻ dưới gọi là phong, kẻ dưới bắt chước bề trên gọi là tục; ý nói cái gì người này nêu ra, người kia nối theo một cách tự nhiên, dần dần thành quen như vật theo gió, vẫn cảm theo đó mà không tự biết Thiều Chửu, Hán Việt tự điển, Nxb Tp HCM, năm 2000, trang 25, 760. . Vì gió lan khắp mọi nơi nên phong tục là thói quen phổ biến Phan Ngọc, Mẹo giải nghĩa từ Hán Việt và chữa lỗi chính tả, Nxb Thanh niên, H. 2000, tr. 254. . “Tập quán” cũng là một thuật ngữ Hán-Việt, trong đó “tập” nghĩa là quen, “quán” cũng có nghĩa là quen, “tập quán” là tất cả những gì đã quen thuộc, khó đổi đi được Thiều Chửu, sđd, trang 211, 503. . Tập quán là thói quen đã thành nếp trong đời sống xã hội, trong sản xuất và sinh hoạt thường ngày, được mọi người công nhận và làm theo Hoàng Phê (chủ biên), sđd, tr. 870. . Như vậy, mặc dù được biểu đạt bằng hai khái niệm khác nhau nhưng thực chất phong tục hay tập quán đều chỉ chung thói quen xử sự, chính vì vậy, trong đời sống hàng ngày thường không có sự phân biệt phong tục với tập quán, chúng thường được gọi chung là phong tục tập quán Tuy nhiên, cũng có một số tác giả có sự phân biệt hai khái niệm này. Theo đó, phong tục và tập quán mặc dù có những điểm chung, song tính bắt buộc của tập quán không cao, thường chỉ là những việc rất đáng làm theo nếu không chủ yếu bị dư luận phê phán, dị nghị hoặc tẩy chay, ngược lại “phong tục có tính bắt buộc nghiêm ngặt, những người vi phạm có thể phải chịu những hình phạt nghiêm khắc” (Vai trò của pháp luật trong đời sống xã hội, Nxb Chính trị quốc gia, H. 2008, tr. 182, 183). Tác giả Bùi Xuân Đính cho rằng, tập quán dễ thay đổi khi điều kiện sống thay đổi, ngược lại phong tục mang tính bảo thủ cao, ít thay đổi hoặc chậm thay đổi khi điều kiện sống đã thay đổi (Những vấn đề lý luận và thực tiễn trong việc sử dụng phong tục tập quán và hương ước của người Việt trong thực tiễn xây dựng và thực hiện pháp luật ở Việt Nam, chuyên đề nghiên cứu trong đề tài khoa học cấp Bộ Tư Pháp: “Cơ sở dữ liệu của việc soạn thảo luật ở Việt Nam”, H. 2006, tr. Tác giả Bùi Xuân Phái cho rằng, phong tục là một loại chuẩn mực được hình thành một cách có ý thức được thế hệ trước truyền dạy lại một cách có ý thức, đúng cách, được đảm bảo thực hiện một cách khá nghiêm ngặt, còn tập quán thì đơn thuần chỉ là những thói quen, lan truyền tự phát trong cộng đồng (Những nguyên tắc của việc áp dụng tập quán vào giải quyết các quan hệ hôn nhân và gia đình, tham luận trong hội thảo do Bộ Tư pháp tổ chức tháng 8/2014 góp ý cho dự thảo Nghị định hướng dẫn thi hành Luật hôn nhân và gia đình, tr. 2). . Phong tục, tập quán mang tính cộng đồng, dân tộc, địa phương, vùng miền rất rõ nét. Ở Việt Nam, các phong tục, tập quán được biểu hiện cụ thể ở từng làng, trở thành lệ làng Bùi Xuân Đính, sđd, tr. 2. . Bên cạnh khái niệm phong tục, tập quán, trong ngôn ngữ hàng ngày còn có các thuật ngữ tập tục, tục lệ, lệ tục, chúng đều chỉ thói quen của con người, nhưng không phải là riêng của một cá nhân hay gia đình nào, mà là của một dân tộc hoặc một địa phương, một cộng đồng xã hội. Một công cụ quan trọng điều chỉnh các mối quan hệ xã hội mang tính tự quản tại các cộng đồng làng xã là hương ước. Hương ước tồn tại ở nhiều nước trên thế giới như Việt Nam, Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc, một số nước Đông nam Á Bùi Xuân Đính, sđd, tr. 5-6. . “Hương ước” là một thuật ngữ Hán Việt, trong đó “hương” là làng, quê; “ước” là giao kèo, thỏa thuận, qui ước, “hương ước” là những những giao kèo, thỏa thuận, qui ước của cộng đồng thôn, làng, nói cách khác, hương ước là tổng thể các qui tắc xử sự điều chỉnh các quan hệ xã hội trong phạm vi một thôn, làng. Hương ước có nguồn gốc từ phong tục tập quán, được hình thành trên cơ sở phong tục tập quán của mỗi làng, là hình thức thành văn của phong tuc tập quán nhưng không hoàn toàn đồng nhất với phong tục tập quán. Bên cạnh những qui định được chép lại từ phong tục tập quán, trong bản hương ước của mỗi làng còn có những qui định do dân làng đặt ra trên cơ sở điều kiện, hoàn cảnh cụ thể của thôn, làng. Để nắm lấy các thôn, làng, can thiệp vào công việc của thôn, làng, hạn chế vai trò tự quản, tự trị của nó, nhà nước qui định thủ tục phê chuẩn hương ước và đưa vào đó những qui định liên quan đến nhà nước. Khác với phong tục tập quán, hương ước có qui định các biện pháp xử phạt người vi phạm, tuy nhiên nhà nước chỉ cho phép thôn, làng xử phạt một số vi phạm nhỏ thuộc nếp sống cộng đồng, vượt quá giới hạn đó, thôn, làng phải trình quan trên để nhà nước giải quyết. Như vậy, có thể coi hương ước như một bộ luật của thôn, làng Vũ Duy Mền, Hoàng Minh Lợi, Hương ước làng xã Bắc bộ Việt Nam với Luật làng Kan tô Nhật Bản (thế kỷ XVII-XIX), Viện Sử học, H. 2001, tr. 253. , đồng thời cũng được xem như “cánh tay nối dài” của pháp luật, nó điều chỉnh các quan hệ xã hội trong các thôn, làng, nơi mà chính quyền trung ương chưa vươn tới được. Hương ước như là một sự dung hoà giữa pháp luật của nhà nước với phong tục tập quán của thôn, làng. Ở Việt Nam, theo nhiều nhà nghiên cứu, hương ước xuất hiện muộn nhất vào cuối thế kỷ XV Bùi Xuân Đính, sđd, tr. 17. . Dưới chế độ phong kiến, các bản hương ước đều qui định cách thức ứng xử trong các mối quan hệ thân tộc, xóm giềng, tuổi tác, ngôi thứ, cách thức tiến hành các nghi lễ tín ngưỡng, hiếu, hỷ, khao vọng, cách thức tổ chức cũng như vai trò của các thiết chế phường, hội, giáp... như việc bầu cử các chức dịch trong thôn, làng, việc thu thuế, bắt lính... Hiện nay, nhà nước khuyến khích các cộng đồng dân cư xây dựng hương ước mới trên cơ sở kế thừa những mặt tích cực của hương ước cũ cũng như đảm bảo phù hợp với quy định của pháp luật hiện hành Chỉ thị số 24/1998 ngày 19.6.1998 của Thủ tướng chính phủ; thông tư liên tịch số 03/2000 ngày 31.3.2000 của Bộ Tư pháp, Bộ Văn hóa thông tin và Ban thường trực ủy ban trung ương mặt trận Tổ quốc Việt Nam. . Luật tục là một loại công cụ quan trọng để điều chỉnh quan hệ xã hội. Hiện nay, nhiều xã hội, nhiều tộc người trên thế giới vẫn tồn tại và thực hành luật tục dưới những hình thức rất đa dạng Phan Đăng Nhật, Những vấn đề lý luận và thực tiễn của việc vận dụng luật tục trong thực tế ở Việt Nam, tr.28, chuyên đề nghiên cứu trong đề tài cấp bộ của Bộ tư pháp: “Những vẫn đề lý luận và thực tiễn về nguồn của pháp luật Việt Nam”, H. 2007. . Theo nghĩa rộng, “luật tục” là tất cả những qui tắc xử sự mang tính chất dân gian, đó là luật của dân gian Nguyễn Minh Đoan, Vai trò của pháp luật trong đời sống xã hội, Nxb Chính trị Quốc gia, H. 2008, tr. 183. . Theo cách hiểu này, “luật” là qui tắc, “tục” chỉ những qui tắc xử sự mang tính dân gian, nguyên thủy, bản địa, không thành văn, hoàn toàn mang tính chất khu biệt với luật nhà nước, đối lập với những gì mang tính chất hàn lâm, sách vở Phan Đăng Nhật, Những vấn đề lý luận và thực tiễn của việc vận dụng luật tục trong thực tế ở Việt Nam, chuyên đề nghiên cứu trong đề tài cấp Bộ Tư pháp: “Những vấn đề lý luận và thực tiễn về nguồn của pháp luật Việt Nam, H. 2006, tr. 1. . Như vậy, luật tục bao gồm cả phong tục tập quán, lệ làng Theo nghĩa hẹp Trong phạm vi chương này của giáo trình, khái niệm luật tục được đề cập theo nghĩa hẹp. , “luật tục” là hình thức sơ khai, tiền thân của luật pháp và chỉ có ở các tộc người thiểu số trong xã hội tiền giai cấp Bùi Xuân Đính, sđd, tr. 3. . Theo cách hiểu này, luật tục là những phong tục tập quán có dáng dấp của pháp luật, là bước quá độ, là sự chuyển tiếp giữa phong tục tập quán và pháp luật, là hình thức phát triển cao của phong tục tập quán và là hình thức sơ khai của pháp luật. Chính vì thế, luật tục còn được gọi là tập quán pháp Cần phân biệt với tập quán pháp là một hình thức, một loại nguồn của pháp luật (xem chương 12 giáo trình này). . Hiện nay, ở một số quốc gia trên thế giới, bên cạnh hệ thống pháp luật chung của cả nước, trong các cộng đồng dân tộc thiểu số chậm phát triển, luật tục vẫn tồn tại. Luật tục có nội dung tương đối tổng hợp, điều chỉnh một cách rộng rãi các mặt của đời sống cộng đồng, từ các quan hệ về hôn nhân, gia đình, đến các quan hệ về sở hữu đất đai, về mua bán, trao đổi tài sản, quản lý hành chính... Lê Hồng Sơn, Khái niệm, vị trí, vai trò và một số nội dung chính của luật tục từ góc độ nghiên cứu pháp luật, tham luận tại hội thảo Vai trò của luật tục trong mối quan hệ với pháp luật dân sự, Hà Nội tháng 2 năm 2001. . Luật tục qui định khá da dạng các biện pháp xử lý người vi phạm, bao gồm các biện pháp để tạ lỗi với thần linh, tạ lỗi đối với dân làng, đền bù cho người bị hại, thậm chí kể cả biện pháp tử hình Bùi Xuân Đính, sđd, tr. 3. . Luật tục còn bao gồm cả các qui định về trình tự, thủ tục xử lý người vi phạm, theo đó mỗi khi xét xử xong, bao giờ cũng kèm một nghi lễ nhằm hòa giải, xóa bỏ tranh chấp, thù oán giữa các bên với sự chứng giám của thần linh và dân làng. Tín điều tôn giáo là một khái niệm chung dùng để chỉ giáo lý, giáo luật của các tôn giáo, tín ngưỡng của các cộng đồng dân cư. Giáo lý là lý luận, học thuyết của tôn giáo, đó là những quan niệm, quan điểm về thần linh, về đức tin, được thể hiện trong hệ thống kinh sách của mỗi tôn giáo. Giáo luật (luật giáo hội) là hệ thống qui tắc xử sự của một tổ chức tôn giáo để điều chỉnh các mối quan hệ trong cộng đồng tôn giáo đó. Trong các tôn giáo trên thế giới, Đạo Phật, Đạo Thiên chúa, Đạo Hồi là những tôn giáo lớn, có tổ chức chặt chẽ, có hệ thống giáo lý, giáo luật đầy đủ nhất. Hệ thống giáo lý của Đạo Thiên chúa được thể hiện trong kinh Cựu ước, kinh Tân ước Hệ thống giáo luật của tôn giáo này được thể hiện tập trung trong Bộ Giáo Luật (The Code of Canon Law), được sửa đổi toàn diện nhất gần đây vào năm 1983 với 1752 điều luật cụ thể. Hệ thống tín điều của đạo Hồi gọi là Luật Hồi giáo (Shariah) được chứa đựng ở bốn nguồn là kinh Coran, Sunna, Idjmá, Qias, trong đó là kinh Coran và Sunna là hai nguồn chính. Luật Hồi giáo cũng như luật giáo hội của nhà thờ Thiên chúa giáo được coi như “pháp luật” của những người theo đạo. Tín ngưỡng dân gian là những quan niệm, quan điểm về thần linh, về đức tin của một cộng đồng nhất định, được lưu truyền tự nhiên trong dân gian thông qua huyền thoại, truyền thuyết, thần tích, được thể hiện dưới dạng tập quán của cộng đồng. Điểm khác biệt giữa tín ngưỡng với giáo lý, giáo luật là ở chỗ, tín ngưỡng thường mang tính dân gian, ngược lại giáo lý, giáo luật thường mang tính hệ thống, do các vị giáo chủ hoặc tổ chức giáo hội xây dựng nên, được được ghi chép thành kinh sách, được truyền giảng ở các tu viện, thánh đường... Trong xã hội hiện đại, nhìn chung tín ngưỡng dân gian vẫn tiếp tục tồn tại, tham gia mạnh mẽ trong việc điều chỉnh hành vi con người. Kỷ luật của một tổ chức là tổng thể nói chung những điều qui định có tính chất bắt buộc đối với hoạt động của các thành viên trong một tổ chức, để đảm bảo tính chặt chẽ của tổ chức đó Hoàng Phê (chủ biên), Từ điển tiếng Việt, sđd, tr. 500. . Kỷ luật của một tổ chức thường được thể hiện tập trung trong hiến chương, điều lệ, nội qui của tổ chức đó, trong đó bao gồm các qui định về mục tiêu, tôn chỉ; cơ cấu tổ chức, cách thức thiết lập, nhiệm vụ, quyền hạn của các cơ quan của nó; tiêu chuẩn đối với thành viên, trình tự thủ tục kết nạp thành viên, quyền và nghĩa vụ của thành viên; vấn đề khen thưởng, kỷ luật đối với thành viên Giữa pháp luật, đạo đức, phong tục tập quán, tín điều tôn giáo vừa có những điểm tương đồng, vừa có những điểm khác biệt. Với tính chất là những công cụ điều chỉnh các mối quan hệ xã hội, pháp luật, đạo đức, phong tục tập quán, tín điều tôn giáo... đều là những khuôn mẫu, mực thước, mô hình, chuẩn mực cho hành vi con người. Bên cạnh đó, giữa pháp luật và đạo đức, phong tục tập quán, tín điều tôn giáo... có sự khác biệt ở nhiều khía cạnh, rõ nét nhất là con đường hình thành, hình thức thể hiện, biện pháp bảo đảm thực hiện... 3. Vị trí, vai trò của pháp luật trong hệ thống công cụ điều chỉnh quan hệ xã hội Trong hệ thống công cụ điều chỉnh quan hệ xã hội, mỗi công cụ có vị trí, vai trò khác nhau, tùy thuộc điều kiện kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, địa lý, lịch sử, tôn giáo, tín ngưỡng của quốc gia. Trong lịch sử, ở một số quốc gia trên thế giới, có thời kỳ, các chuẩn mực đạo đức xã hội hay các qui định trong luật lệ nhà thờ nổi lên giữ vị trí hàng đầu trong toàn bộ hệ thống công cụ điều chỉnh quan hệ xã hội. Ở Trung Quốc trong suốt hàng nghìn năm, đạo đức được coi trọng hơn so với pháp luật. Các triều đại phong kiến Trung quốc, từ nhà Hán đến nhà Thanh, nhân trị luôn thắng pháp trị, đạo đức luôn là công cụ chủ đạo để xác lập và giữ gìn trật tự, kỷ cương xã hội Đỗ Đức Minh, Học thuyết pháp trị Trung Hoa cổ đại, giá trị tham khảo trong quản lý xã hội ở Việt Nam hiện nay, Nxb Chính trị - Hành chính, H. 2013, tr. 142. . Chủ trương Đức trị trở thành đường lối chính trị chủ yếu của các nhà nước phong kiến Trung Quốc trong hơn hai thiên niên kỷ Vũ Thị Nga, Luận văn thạc sĩ luật học, Trường đại học Luật Hà Nội, năm 2000, tr.21. . Ở các nước Tây Âu thời kỳ phong kiến, lợi dụng tình hình chưa ổn định của các quốc gia “man tộc” vừa mới được thành lập, nhà thờ Thiên chúa giáo đã giành lấy chức năng chính trị và hành chính, thao túng nhà nước, lấn át nhà nước Nguyễn Gia Phu, Nguyễn Văn Ánh, Đỗ Đình Hãng, Trần Văn La, Lịch sử thế giới trung đại, Nxb giáo dục, H. 2003, tr. 45. . Trong thời kỳ này, thần học là nội dung học tập chủ yếu trong các trường học, giáo lý, giáo luật của nhà thờ có vai trò chi phối hết sức mạnh mẽ hành vi của con người, từ các quan hệ trong gia đình đến các quan hệ kinh tế, chính trị, văn hóa trong xã hội. “Trong tay bọn giáo sỹ, chính trị và luật học cũng như tất cả các khoa học khác vẫn chỉ là những ngành của thần học, và những nguyên lý thống trị trong thần học cũng được áp dụng cho chính trị và luật học. Những giáo lý của giáo hội đồng thời cũng là những định lý chính trị và những đoạn kinh thánh cũng có hiệu lực trước mọi tòa án như là luật pháp” Mác-Anghen, toàn tập, tập 3, Nxb Sự thật, H. 1986, tr. 45. . Thậm chí, có nhà bác học còn bị đưa ra xét xử và bị tử hình bởi tòa án giáo hội vì không chịu tuân thủ tư tưởng của nhà thờ. Ở các quốc gia Hồi giáo, hệ thống tín điều của đạo Hồi có vai trò đặc biệt quan trọng trong đời sống xã hội, được coi là chân lý, được lấy làm chuẩn mực cho mọi xử sự của con người. Kinh Coran được thiêng liêng hoá, trở nên bất di bất dịch và bất khả xâm phạm, không một quyền lực nào trên thế giới có thể thay đổi được Réne David: Những hệ thống pháp luật chính trong thế giới đương đại, sđd, tr.340, 347. . “Các qui định này hoàn toàn độc lập, không chịu sự chi phối của bất kỳ nhà nước nào” Michael Bogdan, Luật so sánh, KLUWER NORSTEDTS JURIDIK TANO (Lê Hồng Hạnh và Dương Thị Hiền dịch, Sách được dịch và xuất bản theo sự tài trợ của Sida, H. 2002, tr. 174.) . Thậm chí, vai trò của luật Hồi giáo quan trọng đến mức có ý kiến cho rằng, ở đâu người ta không dùng đến luật Hồi giáo, ở đó đạo Hồi không tồn tại Réne David, Tìm hiểu pháp luật quốc tế: Những hệ thống pháp luật chính trong thế giới đương đại (Nguyễn Sĩ Dũng và Nguyễn Đức Lam dịch), Nxb Tp Hồ Chí Minh, 2003, tr. 339. . Luật Hồi giáo điều chỉnh từ những mối quan trong gia đình đến những mối quan hệ với láng giềng, với cộng đồng, nói chung là tất cả các mối quan hệ xã hội trong đời sống kinh tế, chính trị của quốc gia. Đặc biệt ảnh hưởng của luật Hồi giáo trong các lĩnh vực hôn nhân, gia đình, thừa kế, hình sự khá mạnh mẽ Michael Bogdan, sđd, tr.174. . Nói cách khác, luật Hồi giáo điều chỉnh cả việc đạo và việc đời. “Trong đạo Hồi thống trị quan điểm về xã hội thần quyền, trong đó nhà nước có ý nghĩa chỉ phục vụ cho tôn giáo đang thống trị” Réne David, sđd, tr.339, 340. . Chính vì vậy, “nhà nước, pháp luật chỉ là thứ cấp bên cạnh tôn giáo và đơn giản chỉ là công cụ để thực hiện các qui định của tôn giáo” Giáo trình Luật so sánh, sđd, tr. 353. . Các đạo luật do các nhà nước ban hành không thể làm thay đổi luật Hồi giáo mà chỉ có thể điều chỉnh những chi tiết mà Sharia chưa cụ thể hóa hoặc còn bỏ trống Michael Bogdan, sđd, tr.177. , hoặc để điều chỉnh cuộc sống bên ngoài cộng đồng Hồi giáo. Một số quốc gia như Afghanistan, Pakistan, Arabiasaudi, Yemen, Oman, Bahrein, Koweit, Qatar thừa nhận tính tối cao của luật Hồi giáo, mọi qui định pháp luật đều phải phù hợp với kinh Coran. Một số quốc gia như Marocco, Tunice, Angiery, Iran, Pakistan còn ghi nhận sự tuân thủ các nguyên tắc của luật Hồi giáo trong hiến pháp Réne David, sđd, tr.349. . Ở Việt Nam, trong điều kiện kinh tế tiểu nông, tự cấp, tự túc manh mún thời kỳ phong kiến, các quan hệ xã hội chủ yếu chỉ diễn ra trong phạm vi làng xã, phong tục tập quán, lệ làng, hương ước có vai trò rất quan trọng, thậm chí đứng trên luật pháp của nhà nước, “phép vua thua lệ làng”. Ngay trong cơ chế kinh tế kế hoạch hóa, tập trung, bao cấp trước đây, điều chỉnh các mối quan hệ xã hội cũng chủ yếu bằng mệnh lệnh hành chính Viện nghiên cứu nhà nước và pháp luật, Xã hội và pháp luật, Nxb Chính trị quốc gia, H. 1994, tr. 255. và các chuẩn mực đạo lý Đến đại hội VI của Đảng cộng sản Việt Nam, tư duy của Đảng có sự đổi mới, văn kiện Đại hội này viết: “Quản lý xã hội bằng pháp luật chứ không thể chỉ bằng đạo lý” (Xem, Văn kiện Đại hội toàn quốc lần thứ VI, Nxb Sự thật, H. 1987, tr.121. . Tuy nhiên, cùng với sự phát triển của đời sống, vai trò của pháp luật trong hệ thống công cụ điều chỉnh quan hệ xã hội ngày càng được coi trọng, nó ngày càng trở nên thắng thế vai trò của các thể chế phi quan phương. Như trên đã đề cập, luật tục chỉ giữ vai trò quan trọng trong xã hội tiền giai cấp. Khi xã hội xuất hiện giai cấp và đấu tranh giai cấp, luật tục trở nên yếu thế, một bộ phận của nó được chuyển hóa thành pháp luật, một bộ phận bị pháp luật loại trừ, bộ phận còn lại tồn tại chỉ như sự hỗ trợ, bổ sung cho pháp luật. Có thể nói, phong tục tập quán, lệ làng, hương ước chỉ phát huy mạnh mẽ vai trò của nó trong xã hội tiểu nông, tự cấp, tự túc bởi chúng phù hợp với điều kiện kinh tế xã hội của làng xã, phù hợp với suy nghĩ và tầm nhìn của người nông dân tiểu nông. Khi nền kinh tế hàng hóa ra đời, ngành thương nghiệp xuất hiện, các quan hệ xã hội vượt ra khỏi phạm vi làng xã thì phong tục tập quán, lệ làng, hương ước bị thu hẹp phạm vi ảnh hưởng, vai trò của nó trong hệ thống công cụ điều chỉnh quan hệ xã hội bị suy giảm đáng kể. Đặc biệt, khi nền kinh tế được công nghiệp hóa, hiện đại hóa, quá trình đô thị hóa diễn ra rộng khắp, đời sống xã hội có sự biến đổi nhanh chóng, giao lưu xã hội diễn ra trên phạm vi quốc gia, thậm chí quốc tế thì vai trò của phong tục tập quán, lệ làng, hương ước chỉ còn rất hạn chế. Ở các nước Á Đông chịu sự ảnh hưởng sâu sắc của Nho giáo, trong hàng thiên niên kỷ, mặc dù Đức trị luôn là tư tưởng chủ đạo, tuy nhiên trên thực tế, bề ngoài, công cụ cai trị vẫn là pháp luật. Đó chính là đường lối cai trị “nội Nho ngoại Pháp”, có sự kết hợp chặt chẽ đạo đức với pháp luật, dùng pháp luật để thể chế hóa những tư tưởng của Nho giáo. Nhìn chung trên thế giới, một khi tôn giáo có sự tách bạch với chính trị, thế quyền thoát ly khỏi thần quyền thì ảnh hưởng của tín điều tôn giáo trong đời sống xã hội bị thu hẹp rất đáng kể. Trong điều kiện hợp tác, hội nhập quốc tế và toàn cầu hóa, vai trò của Luật Hồi giáo ở các nước theo đạo Hồi cũng đang có những biến động mạnh mẽ. Ở nhiều quốc gia Hồi giáo, một mặt tiếp tục khẳng định sự gắn bó với các nguyên tắc của đạo Hồi, nhưng mặt khác vẫn tìm cách thích nghi với pháp luật trong thế giới hiện đại. Ở các nước Trung Á thuộc Liên Xô trước đây, các nước từng là thuộc địa của phương Tây, chịu ảnh hưởng của pháp luật phương Tây như Malaysia, Bengale, Bắc Nigeria, Indonesia, các nước châu Phi nói tiếng Pháp, các nước nói tiếng Ả rập, luật Hồi giáo vẫn tồn tại, tuy nhiên, vai trò của nó trong hệ thống công cụ điều chỉnh quan hệ xã hội đã bị hạn chế đáng kể so với trước kia Giáo trình Luật so sánh, sđd, tr. 353. . Trong điều kiện ngày nay, pháp luật trở thành công cụ hàng đầu, quan trọng và có hiệu quả nhất, công cụ không thể thay thế để điều chỉnh các mối quan hệ xã hội, quản lý xã hội. “Pháp luật nổi lên như là một công cụ “thép”, có hiệu lực mang tính uy quyền của nhà nước. Pháp luật là hạt nhân, giữ vị trí trung tâm trong hệ thống các qui tắc xã hội” Hoàng Thị Kim Quế, Pháp luật và đạo đức, Nxb Chính trị quốc gia, H. 2007, tr. 50. . Pháp luật không đơn thuần là công cụ quản lý nhà nước, nó còn được xác định là công cụ để mỗi người tự bảo vệ lợi ích của mình; công cụ điều chỉnh các mối quan hệ giữa người với người trong cuộc sống nhằm thiết lập, duy trì, bảo vệ trật tự của đời sống chung. Nói cách khác, trong điều kiện ngày nay, pháp luật không còn được quan niệm là của riêng nhà nước, nó phải được quan niệm là một loại qui tắc sinh hoạt công cộng, một công cụ để điều chỉnh các mối quan hệ xã hội, pháp luật là của chung toàn xã hội. Pháp luật luôn “ngự trị trong các mối quan hệ xã hội” Hoàng Thị Kim Quế, “Một số đặc điểm cơ bản của pháp luật trong nhà nước pháp quyền”, Tạp chí dân chủ và pháp luật, số 4/2002, tr. 5. . Bất kỳ một thể chế xã hội phi quan phương nào cũng không thể hoán đổi vị trí của pháp luật, càng không thể thay thế cho pháp luật. Pháp luật ngày càng có sự hiện diện thường xuyên trong cuộc sống của từng nhà, từng người. Thượng tôn pháp luật trở thành nguyên tắc ứng xử của toàn xã hội. Chính vì vậy, nhìn chung các nhà nước trên thế giới đều sử dụng pháp luật làm công cụ chủ yếu để quản lý xã hội. Hiến pháp Việt Nam năm 2013 qui định: nhà nước quản lý xã hội bằng pháp luật. Sở dĩ, pháp luật có vị trí, vai trò đặc biệt quan trọng như nêu trên là bởi vì, so với các công cụ điều chỉnh khác, pháp luật thể hiện những ưu thế vượt trội sau đây: Một là, pháp luật có phạm vi tác động rộng lớn nhất. Pháp luật do nhà nước ban hành, đồng thời nó được truyền bá, phổ biến bằng con đường chính thức thông qua hệ thống cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Nhờ đó, pháp luật có khả năng tác động đến mọi cá nhân, tổ chức trong xã hội, tác động đến mọi vùng miền, lãnh thổ của đất nước. Ở đâu có sự hiện diện của chính quyền, ở đó có sự tác động của pháp luật. Bởi vậy, pháp luật có thể điều chỉnh các quan hệ xã hội trên bình diện rộng lớn trên các lĩnh vực của đời sống. Hai là, pháp luật được đảm bảo bằng biện pháp cưỡng chế nhà nước, nhờ đó nó tính bắt buộc thực hiện đối với mọi người. Trong điều kiện xã hội có sự khác biệt, thậm chí là mâu thuẫn về lợi ích, mọi người đều muốn cái lợi cho riêng mình thì những lời khuyên, điều răn hay những cách xử sự theo thói quen... không thể phát huy tác dụng. Trong điều kiện đó, phải dùng các biện pháp cưỡng chế của pháp luật mới có thể thiết lập được trật tự, mới duy trì được sự ổn định của đời sống. Tất nhiên, sức mạnh của pháp luật có được chính là nhờ sức mạnh của nhà nước, sức mạnh của bộ máy chuyên nghiệp, chuyên môn làm nhiệm vụ cưỡng chế. Theo Lênin, nếu không có bộ máy nhà nước có đầy đủ sức mạnh để đảm bảo cho pháp luật được thực hiện thì pháp luật cũng chỉ như những tiếng kêu trống rỗng làm rung động không khí. Thông qua bộ máy nhà nước, quyền lực nhà nước tác động đến mọi cá nhân, tổ chức trong xã hội, bắt buộc các chủ thể phải phục tùng ý chí của nhà nước, vì vậy, pháp luật mang tính bắt buộc đối với mọi người. Nói cách khác, thực hiện pháp luật nghiêm chỉnh là sự bắt buộc đối với các chủ thể, hoàn toàn không phụ thuộc vào ý muốn chủ quan của họ. Trước pháp luật, ai ai cũng nhất thiết phải thực hiện theo. Trong khi đó, nhiều thể chế phi quan phương không có thiết chế chuyên nghiệp để đảm bảo thực hiện hoặc nếu có thì một mặt, bản thân các thết chế đó không thể có sức mạnh như nhà nước, mặt khác, các biện pháp cưỡng chế của nó cũng không nghiêm khắc như cưỡng chế nhà nước, vì vậy tính bắt buộc của các thể chế phi quan phương nếu có thì cũng không nghiêm ngặt như pháp luật. Ba là, pháp luật có hình thức xác định chặt chẽ nhất. Trong lịch sử, pháp luật có nhiều hình thức thể hiện, tuy nhiên trong xã hội hiện đại, pháp luật ngày càng có xu hướng thể hiện thành văn. Dưới hình thức này, pháp luật có sự xác định một cách hết sức chặt chẽ. Tính xác định chặt chẽ về hình thức là một trong những ưu thế vượt trội của pháp luật so với các công cụ điều chỉnh khác. “Trong mỗi xã hội (mỗi nước), luật pháp là sự tổng hợp duy nhất những chuẩn mực, không có “bản sao”, không có phương án hai” Đức Uy (dịch), Sai lệch chuẩn mực xã hội, tập 1, Nxb Thông tin lý luận, H. 1986, tr. 111. . Pháp luật, bản thân nó là một hệ thống, đó là một thể thống nhất bao gồm các qui phạm pháp luật có mối liên hệ mật thiết với nhau được sắp xếp một cách logic, khách quan và khoa học. Mỗi qui phạm pháp luật được xem “như dây mực, cái thủy chuẩn, cái qui, cái củ (thước tròn, thước vuông) của người thợ, là cái nhờ nó mà việc làm đạt được sự ngay thẳng, chính xác” Đỗ Đức Minh, Học thuyết pháp trị Trung Hoa cổ đại, giá trị tham khảo trong quản lý xã hội Việt Nam hiện nay, Nxb Chính trị - Hành chính, H. 2013, tr. 88. . Ngôn ngữ pháp luật thường một nghĩa, rõ nghĩa, chính xác, không trừu tượng, chung chung. Chính vì vậy, thông qua pháp luật, các cá nhân, tổ chức trong xã hội nắm bắt được một cách đầy đủ, chính xác và rõ ràng nhất các hành vi được phép, các hành vi bắt buộc, các hành vi bị cấm cũng như cách thức, trình tự, thủ tục thực hiện chúng Thông qua pháp luật, các chủ thể biết được trong điều kiện, hoàn cảnh nào, họ được làm gì, phải làm gì hay không được làm gì, hậu quả sẽ phải gánh chịu như thế nào nếu làm trái điều đó, từ đó có đầy đủ cơ sở để lựa chọn và thực hiện hành vi. Ngược lại, các thể chế phi quan phương thường không có sự xác định về hình thức. Phong tục tập quán thể hiện dưới dạng hành vi mẫu (thực hành xã hội), đạo đức, tín ngưỡng dân gian chủ yếu được truyền miệng dưới dạng tục ngữ, ca dao... Mặc dù tín điều của các tôn giáo thường được ghi chép thành kinh sách, được truyền giảng trong tu viện, nhà thờ, tuy nhiên nhìn chung những qui định trong đó thường rất khái quát và trừu tượng. Chẳng hạn, những qui định trong Kinh Coran được thể hiện dưới dạng những đoạn thơ, khá dài dòng và tương đối trừu tượng. Chính vì vậy, để nhận thức và thực hiện những qui tắc đó một cách chính xác, thống nhất là một khó khăn rất lớn đối với mọi người. Bốn là, pháp luật dễ thích ứng với điều kiện thực tế của đời sống xã hội. Là hình thức pháp lý của các quan hệ kinh tế xã hội, vì vậy, về cơ bản pháp luật qui định về vấn đề gì, qui định như thế nào, điều đó trước tiên phụ thuộc vào thực trạng của điều kiện kinh tế xã hội. Khi điều kiện kinh tế xã hội thay đổi, pháp luật có sự thay đổi theo. Chính vì vậy, pháp luật có thể đáp ứng kịp thời yêu cầu đòi hỏi của cuộc sống. Ngược lại, đạo đức, phong tục tập quán... thường có quá trình hình thành và biến đổi khá chậm chạp, nhiều tín điều tôn giáo đã hình thành cách ngày nay hàng nghìn năm nhưng không hề có sự thay đổi, thậm chí là bất di bất dịch. Nói cách khác, các thể chế phi quan phương thường không phản ánh kịp thời sự phát triển của cuộc sống. Do đó, chúng không thể điều chỉnh một cách kịp thời sự biến động của các quan hệ xã hội. Tuy nhiên, bên cạnh những ưu điểm vượt trội, pháp luật cũng có những hạn chế nhất định. Pháp luật không thể điều chỉnh được tất cả các quan hệ xã hội, những quan hệ xã hội được thiết lập trên cơ sở tình cảm của con người pháp luật không điều chỉnh được. Mặt khác, biện pháp cưỡng chế nhà nước không phải khi nào cũng đem lại hiệu quả như mong muốn. Đối với những chủ thể trong những điều kiện “không còn gì để mất” thì cưỡng chế chưa hẳn đã có ý nghĩa đối với họ, kể cả biện pháp cưỡng chế nghiêm khắc nhất. Ngược lại, sự tác động của dư luận xã hội (biện pháp đảm bảo thực hiện của các thể chế phi quan phương) nhiều khi rất có tác dụng, thậm chí, có trường hợp dư luận còn có thể khiến người ta xử sự một cách cực đoan là tự tìm đến cái chết. Niềm tin, đặc biệt là niềm tin tôn giáo là nhân tố có sức mạnh to lớn, thúc đẩy người ta thực hiện hành vi một cách triệt để, tận tâm, đến cùng. 4. Quan hệ giữa pháp luật với các công cụ khác trong hệ thống công cụ điều chỉnh quan hệ xã hội 4.1. Quan hệ giữa pháp luật và đạo đức Có thể nói, bất kì một hệ thống pháp luật nào bao giờ cũng ra đời, tồn tại và phát triển trên một nền tảng đạo đức nhất định. Đạo đức như là môi trường cho sự phát sinh, tồn tại và phát triển của pháp luật, là chất liệu làm nên các qui định trong hệ thống pháp luật. Những quan niệm, chuẩn mực đạo đức đóng vai trò là tiền đề tư tưởng chỉ đạo việc xây dựng pháp luật. Ý thức đạo đức cá nhân là nhân tố ảnh hưởng mạnh mẽ đến việc thực hiện pháp luật. Nó chính là môi trường thuận lợi để tiếp thu, cảm nhận và thực hiện pháp luật. Người có ý thức đạo đức tốt thường là người có thái độ tôn trọng pháp luật, nghiêm chỉnh thực hiện pháp luật. Ngược lại, chủ thể có ý thức đạo đức kém dễ coi thường pháp luật, vi phạm pháp luật. Vai trò của ý thức đạo đức cá nhân càng có ý nghĩa quan trọng trong hoạt động áp dụng pháp luật của nhà chức trách, khi đưa ra các quyết định áp dụng pháp luật bao giờ họ cũng phải tính đến các quan niệm đạo đức xã hội sao cho “đạt lí” nhưng cũng “thấu tình”. Ngược lại, pháp luật có sự tác động trở lại một cách mạnh mẽ tới đạo đức. Pháp luật là công cụ để truyền bá những quan điểm, quan niệm, tư tưởng, chuẩn mực đạo đức, nhờ đó chúng nhanh chóng trở thành những chuẩn mực mang tính bắt buộc chung đối với tất cả mọi người. Pháp luật góp phần củng cố, giữ gìn và phát huy các giá trị đạo đức xã hội, hỗ trợ, bổ sung cho đạo đức, đảm bảo cho chúng được thực hiện nghiêm chỉnh trên thực tế. Pháp luật loại trừ những quan niệm, tư tưởng, đạo đức lạc hậu, trái với lợi ích giai cấp thống trị, lợi ích chung của cộng đồng cũng như tiến bộ xã hội. Pháp luật góp phần ngăn chặn sự thoái hoá, xuống cấp của đạo đức; ngăn chặn việc hình thành những quan niệm đạo đức trái thuần phong mĩ tục của dân tộc và tiến bộ xã hội; góp phần làm hình thành những quan niệm đạo đức mới. 4.2. Quan hệ giữa pháp luật với phong tục tập quán, luật tục Phong tục tập quán, luật tục, truyền thống tốt đẹp, những yếu tố làm nên bản sắc văn hoá của một dân tộc luôn là cơ sở hình thành nên những qui định cụ thể trong hệ thống pháp luật. Đặc biệt, trong điều kiện nền kinh tế tiểu nông, tự cấp, tự túc, khép kín, ảnh hưởng của phong tục tập quán, luật tục đến pháp luật càng mạnh mẽ. Trong điều kiện đó, các quan hệ xã hội chủ yếu diễn ra trong phạm vi làng xã với sự đan xen chằng chịt và hết sức bền chặt của các quan hệ huyết thống, hôn nhân, láng giềng, kinh tế..., làm cho sự can thiệp của nhà nước đối với các làng xã trở nên khó khăn. Vì vậy, khi ban hành pháp luật, nhà nước phải lựa theo phong tục tập quán, luật tục sao cho pháp luật phù hợp với phong tục tập quán, luật tục Bùi Xuân Đính, sđd, tr. 5. . Đây có thể được xem như đặc điểm chung của pháp luật ở các quốc gia tiểu nông. Khi pháp luật phù hợp phong tục tập quán, luật tục nó sẽ dễ dàng đi vào cuộc sống nhờ thói quen xử sự của người dân. Với ưu thế gần gũi với đời sống cộng đồng, được cả cộng đồng thừa nhận, hình thức thể hiện lại đơn giản, cụ thể, dễ tác động vào nhận thức con người..., nhiều phong tục tập quán, nhiều qui định trong luật tục có nội dung phù hợp với pháp luật có thể được vận dụng để bổ sung, hỗ trợ cho pháp luật trong trường hợp thiếu pháp luật, nhất là ở những địa bàn và những lĩnh vực mà pháp luật không thể vươn tới. Tuy nhiên, phong tục tập quán, luật tục cũng có thể là nhân tố cản trở đối với việc thực hiện pháp luật, nhất là trong điều kiện kinh tế xã hội lạc hậu, chậm phát triển. Chính lối sống theo phong tục tập quán, lệ làng, luật tục là nhân tố cản trở rất lớn đối với việc thực hiện pháp luật. Ngược lại, pháp luật tác động mạnh mẽ đến phong tục tập quán, luật tục. Pháp luật thừa nhận sự tồn tại của phong tục tập quán, luật tục, khuyến khích các cộng đồng phát huy vai trò của phong tục tập quán, luật tục trong việc điều chỉnh các mối quan hệ xã hội dưới sự chỉ đạo bởi tư tưởng cơ bản của pháp luật. Nhà nước còn có thể pháp luật hoá các phong tục tập quán cũng như các qui định trong luật tục có nội dung phù hợp với các giá trị đạo đức và tiến bộ xã hội để áp dụng cho chính cộng đồng có phong tục tập quán, luật tục đó, đồng thời thiết lập hệ thống thiết chế pháp lý để đảm bảo sự vận hành của chúng. Chẳng hạn, ở Việt Nam, thời kỳ thuộc Pháp, chính quyền thuộc địa đã thành lập các toà án phong tục để xét xử đối với người dân tộc thiểu số. Tham gia xét xử trong các phiên toà này luôn có mặt quan toà là người dân tộc thiểu số Phan Đăng Nhật, sđd, tr. 6-7. . Bằng những cách đó, pháp luật đã củng cố phong tục tập quán, luật tục, định hướng sự phát triển của chúng theo quĩ đạo của nhà nước, đảm bảo cho chúng được thực hiện nghiêm chỉnh trên thực tế, qua đó giữ gìn, bảo lưu và phát huy bản sắc văn hoá dân tộc. Pháp luật đóng vai trò quan trọng trong việc loại trừ những phong tục tập quán, luật tục có nội dung trái đạo đức xã hội, lạc hậu, phản tiến bộ, cản trở sự phát triển của cộng đồng. Tất nhiên, vai trò này của pháp luật còn phụ thuộc vào hiệu lực và hiệu quả hoạt động của bộ máy nhà nước, mức độ bám rễ của phong tục tập quán, luật tục trong đời sống, điều kiện kinh tế xã hội của địa phương, trình độ dân trí... 4.3. Quan hệ giữa pháp luật với hương ước Có thể nói về cơ bản, hương ước và pháp luật luôn thống nhất với nhau, gắn bó chặt chẽ với nhau, hỗ trợ nhau trong việc duy trì trật tự trong cộng đồng làng xã. Ở Việt Nam, “Qua xem xét hàng trăm bản hương ước, ở đủ các loại hình làng, các vùng, được soạn thảo ở nhiều thế kỷ cho thấy, không có bản hương ước nào có nội dung - dù chỉ một hai điều khoản hoặc một ý tứ chống lại nhà nước, đối lập một cách gay gắt với pháp luật” Bùi Xuân Đính, Chuyên đề nghiên cứu trong đề tài khoa học cấp Bộ Tư pháp: “Cơ sở dữ liệu của việc soạn thảo luật ở Việt Nam”, sđd, tr. 23. . Hương ước có sự hỗ trợ không nhỏ trong việc thực hiện pháp luật. Trong điều kiện pháp luật không thể qui định một cách cụ thể, chi tiết cho phù hợp với điều kiện của từng thôn, làng, hương ước như là một sự tiếp nối của pháp luật, là sự cụ thể hóa, chi tiết hoá pháp luật vào điều kiện, hoàn cảnh của làng xã. Nhờ đó, pháp luật có thể dễ dàng đi vào đời sống cộng đồng. Bằng lời văn của hương ước, các qui định khô khan, cứng nhắc của pháp luật trở nên đơn giản, dung dị, gần gũi với cuộc sống và sự hiểu biết của người dân, vì vậy nó dễ dàng được người dân tiếp nhận. Đồng thời, hương ước còn bao hàm những qui định nhằm điều chỉnh những quan hệ xã hội mang tính đặc thù của từng cộng đồng thôn, làng mà pháp luật chưa hoặc không thể vươn tới được. Ngược lại, pháp luật cũng có tác động mạnh mẽ đến hương ước. Sự tác động của pháp luật đến hương ước có thể diễn ra theo nhiều hướng. Một là, pháp luật không thừa nhận sự tồn tại của hương ước, cấm các làng xã xây dựng hương ước. Hai là, pháp luật thừa nhận sự tồn tại và khuyến khích các cộng đồng dân cư xây dựng hương ước. Trong trường hợp này, pháp luật có thể có các qui định về qui trình xây dựng hương ước, thủ tục phê chuẩn hương ước, định hướng về nội dung của nó, tìm cách đưa vào hương ước những nội dung có lợi cho nhà nước. Ba là, pháp luật không ngăn cấm, nhưng cũng không khuyến khích các cộng đồng dân cư xây dựng hương ước. Trong trường hợp này, pháp luật có các qui định về kiểm duyệt hương ước, nếu có những qui định trái pháp luật, hương ước có thể bị loại bỏ. 4.4. Quan hệ giữa pháp luật với tín điều tôn giáo Mối quan hệ giữa pháp luật với tín điều tôn giáo là một mối quan hệ khá phức tạp. Về cơ bản, tín điều tôn giáo điều chỉnh các quan hệ trong cộng đồng tôn giáo. Bên cạnh phần “đạo”, tín điều tôn giáo điều chỉnh cả phần “đời”. Trong điều kiện tôn giáo gắn liền với chính trị, nhà nước và nhà thờ có quan hệ chặt chẽ với nhau thì sự phân biệt giữa pháp luật với tín điều tôn giáo thường không rõ ràng. Trong trường hợp này, giáo luật được coi như pháp luật, thậm chí nhà nước, pháp luật chỉ là thứ cấp, đứng sau giáo hội và chỉ là công cụ để thực hiện các mục tiêu tôn giáo, pháp luật do nhà nước ban hành phải phù hợp với các tín điều tôn giáo. Trong điều kiện tôn giáo tách biệt khỏi chính trị, thần quyền và chính quyền đã có sự tách bạch nhau, giữa tín điều tôn giáo và pháp luật vừa có sự thống nhất, vừa có sự khác biệt, vừa có sự tác động qua lại lẫn nhau. Dễ nhận thấy có nhiều nội dung trong các tín điều tôn giáo thống nhất với pháp luật. Trong những trường hợp này, niềm tin tôn giáo tạo tiền đề quan trọng thúc đẩy các chủ thể thực hiện nghiêm chỉnh các qui định của pháp luật. Có thể nói, nhìn chung các tôn giáo đều là sự hướng thiện, khuyên con người làm điều lành, lánh điều ác, một giáo dân tốt đồng thời là một công dân tốt. Đạo đức tôn giáo có nhiều điểm phù hợp với tiến bộ xã hội. Trong giới luật của các tôn giáo nhìn chung đều có những qui định cấm trộm cắp, nói dối, giết người, ngoại tình... Như vậy, pháp luật và tín điều tôn giáo cùng tham gia điều chỉnh các quan hệ xã hội, phối hợp, hỗ trợ, bổ sung cho nhau để tạo nên sự điều chỉnh mạnh mẽ nhất đối với các quan hệ xã hội, xây dựng cuộc sống tốt đời, đẹp đạo. Bên cạnh đó, giữa pháp luật và tín điều tôn giáo cũng có sự khác biệt, thậm chí mâu thuẫn nhau. Chẳng hạn giáo lý đạo Thiên chúa cấm ly hôn, cấm áp dụng các biện pháp tránh thai..., điều này mâu thuẫn với pháp luật của nhiều nhà nước. Trong trường hợp đó, tín điều tôn giáo trở thành sự cản trở việc thực hiện pháp luật trong các cộng đồng giáo dân. “Về cơ bản, pháp luật không đối lập, không ngăn cấm, không loại trừ tín điều tôn giáo” Nguyễn Minh Đoan, Vai trò của pháp luật trong đời sống xã hội, Nxb Chính trị quốc gia, H. 2008. Tr. 231. . Pháp luật của các nhà nước đều thừa nhận và bảo hộ quyền tự do, tín ngưỡng tôn giáo của con người, thừa nhận và bảo hộ đức tin tôn giáo, coi đức tin tôn giáo là thiêng liêng. Pháp luật góp phần giữ gìn và phát huy giá trị của các tín ngưỡng dân gian thể hiện những giá trị tốt đẹp về lịch sử, văn hoá, đạo đức xã hội. Ngược lại, pháp luật nghiêm cấm lợi dụng tín ngưỡng tôn giáo làm phương hại đến lợi ích cộng đồng, quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức; nghiêm cấm mọi biểu hiện mê tín, dị đoan; nghiêm cấm tà đạo, nghiêm cấm việc truyền bá đức tin và hệ thống giáo lý, giáo luật phản tiến bộ, trái thuần phong mỹ tục và đạo đức xã hội. 4.5. Quan hệ giữa pháp luật với kỷ luật của các tổ chức xã hội Quan hệ giữa pháp luật với kỷ luật của các tổ chức xã hội là biểu hiện cụ thể của mối quan hệ giữa nhà nước với các tổ chức này. Nhà nước có quyền lực bao trùm xã hội, tác động đến mọi cá nhân, tổ chức trong xã hội. Vì vậy, pháp luật của nhà nước giữ vai trò chi phối đối với toàn bộ hệ thống kỷ luật của tất cả các tổ chức xã hội. Các tổ chức xã hội chỉ được thành lập và hoạt động khi pháp luật không cấm hoặc cho phép. Hiến chương, điều lệ, nội qui của các tổ chức xã hội phải phù hợp với pháp luật. Trong hệ thống kỷ luật của các tổ chức không được qui định các quyền và nghĩa vụ của hội viên trái với pháp luật của nhà nước, ảnh hưởng đến việc thực hiện quyền và nghĩa vụ công dân của họ. Pháp luật có thể có qui định về thủ tục đăng ký và phê duyệt của nhà nước đối với hiến chương, điều lệ các tổ chức xã hội, mọi qui định trong hệ thống kỷ luật của chúng nếu trái pháp luật đều bị pháp luật loại bỏ. Kỷ luật của nhiều tổ chức xã hội có qui định nghĩa vụ của hội viên trong việc tuân thủ nghiêm chỉnh pháp luật của nhà nước. Trong trường hợp đó, kỷ luật của các tổ chức xã hội đã có sự kết hợp, hỗ trợ cho pháp luật, đảm bảo sự điều chỉnh một cách toàn diện, có hiệu quả đối với các quan hệ xã hội. 5. Hoàn thiện hệ thống công cụ điều chỉnh quan hệ xã hội ở Việt Nam hiện nay Để xây dựng và hoàn thiện hệ thống công cụ điều chỉnh quan hệ xã hội ở Việt Nam hiện nay, một mặt cần hết sức coi trọng vai trò của pháp luật nhưng mặt khác phải nhận thức đúng vai trò, giá trị của các thể chế phi quan phương. Cần nghiên cứu, tiếp thu kinh nghiệm trong lịch sử dân tộc cũng như của các nước trên thế giới trong việc xử lý mối quan hệ giữa pháp luật với từng công cụ. Trong đó, cần chú trọng một số khía cạnh sau: Một là, xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Hệ thống pháp luật phải toàn diện, thống nhất, đồng bộ, với kỹ thuật lập pháp ở trình độ cao. Pháp luật phải phản ánh đúng ý chí, lợi ích của nhân dân, pháp luật phải nhân đạo, nhân văn, vì con người, phục vụ con người. Pháp luật phải được xây dựng trên cơ sở đạo đức truyền thống tốt đẹp, những thuần phong, mỹ tục của dân tộc. Cần xác định đúng đắn giới hạn tác động của pháp luật, pháp luật không thể và không cần thiết điều chỉnh tất cả các mối quan hệ trong xã hội. Các biện pháp xử lý của pháp luật phải phù hợp với điều kiện kinh tế xã hội trong từng giai đoạn phát triển của đất nước. Điều chỉnh quan hệ xã hội bằng pháp luật phải đảm bảo hiệu quả về tất cả các mặt chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, đối ngoại cộng lại. Hai là, xây dựng, hoàn thiện các chuẩn mực đạo đức Đạo đức là nền tảng tinh thần của mọi xã hội. Nhà nước cần thực hiện đồng bộ các biện pháp để giữ gìn và phát huy các quan niệm, chuẩn mực đạo đức truyền thống tốt đẹp của dân tộc, loại bỏ những quan niệm đạo đức lạc hậu, ngăn chặn sự thoái hoá, xuống cấp của đạo đức, tiếp thu các chuẩn mực đạo đức tiến bộ của nhân loại. Pháp luật cần qui định trách nhiệm của mỗi cá nhân và thiết chế xã hội trong việc xây dựng, hoàn thiện các chuẩn mực đạo đức. Phát huy và sử dụng có hiệu quả các phương tiện thông tin đại chúng, các tổ chức xã hội nhất là tổ chức tôn giáo, gia đình, nhà trường, các loại hình văn hóa, nghệ thuật, các lễ hội truyền thống, các cá nhân có tầm ảnh hưởng lớn trong xã hội như các nhà chính trị, các vị linh mục, sư sãi, các nhà giáo, các văn nghệ sĩ, các già làng, trưởng bản, các vị bô lão Cần xây dựng bảng chuẩn mực đạo đức, văn hoá đối với con người Việt Nam nói chung với nội dung ngắn gọn, dễ nhớ để mọi người dù học vấn thấp đều có thể thấm nhuần. Bảng này cần được trình bày một cách trang trọng, đặt ở những vị trí thích hợp nơi công cộng để mọi người đều dễ dàng nắm bắt và thực hiện tốt Huỳnh Khái Vinh (chủ biên), Một số vấn đề về lối sống, đạo đức và chuẩn giá trị xã hội, Nxb Chính trị Quốc gia, H. 2001, tr. 272. . Khuyến khích xây dựng các chuẩn mực đạo đức nghề nghiệp, khuyến khích nông dân, thợ thủ công tập hợp thành các phường, hội, làng nghề, hợp tác xã, trong đó mỗi thiết chế đều có những chuẩn mực đạo đức riêng. Ba là, giữ gìn bảo lưu các thuần phong mỹ tục, đồng thời loại bỏ các phong tục tập quán lạc hậu, phản tiến bộ Cần sưu tầm, tập hợp hoá các phong tục, tập quán trên khắp cả nước Nguyễn Minh Đoan, Vai trò của pháp luật trong đời sống xã hội, Nxb Chính trị Quốc gia, H. 2008, tr. 197. . Thừa nhận và khuyến khích việc ứng xử theo các phong tục tập quán tốt đẹp của cộng đồng. Khuyến khích và đưa vào quĩ đạo của pháp luật việc tổ chức các lễ hội truyền thống thể hiện những thuần phong mỹ tục, bản sắc văn hóa của dân tộc. Bên cạnh biện pháp pháp lý, nhà nước cần sử dụng đồng bộ các biện pháp kinh tế, văn hóa nhằm nâng cao dân trí, ý thức pháp luật, ý thức chính trị, xóa bỏ triệt để cơ sở của sự tồn tại những phong tục, tập quán lạc hậu, phản tiến bộ. Bốn là, khuyến khích việc xây dựng hương ước, qui ước trong các cộng đồng dân cư Pháp luật hiện hành của nhà nước ta đã có các qui định về xây dựng và thực hiện hương ước, qui ước của làng, bản, thôn, ấp, cụm dân cư Chỉ thị số 24 TTg ngày 19.6.1998 của Thủ tướng Chính phủ; Thông tư liên tịch số 03/2000 ngày 31 tháng 3 năm 2000 của Bộ Tư pháp, Bộ Văn hoá thông tin và Uỷ ban trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam. . Cần tuyên truyền sâu rộng trong toàn xã hội về vai trò, tác dụng của hương ước. Bồi dưỡng, nâng cao trình độ cho cán bộ tư pháp xã, phường để hỗ trợ, giúp đỡ có hiệu quả các cộng đồng dân cư xây dựng hương ước. Nội dung của hương ước cần cụ thể, thiết thực, bám sát đời sống của thôn, làng, phản ánh đúng nhu cầu thực tế cũng như tính đặc thù về lịch sử, địa lý, dân cư, nghề nghiệp, phong tục tập quán, truyền thống, tín ngưỡng của từng thôn, làng. Phát huy vai trò của các tổ chức xã hội, cán bộ hưu trí, cựu chiến binh, các chức sắc tôn giáo, già làng, trưởng bản, trưởng tộc và những người khác có uy tín, trình độ trong cộng đồng trong xây dựng và thực hiện hương ước. Đề cao trách nhiệm của các cơ quan có thẩm quyền trong việc phê chuẩn hương ước. Năm là, nghiên cứu vận dụng luật tục Hiện nay, luật tục vẫn tồn tại và giữ một vai trò không nhỏ trong việc điều chỉnh các mối quan hệ trong đời sống người dân tộc thiểu số, nhất là ở Tây Nguyên. Trên thực tế, không ít trường hợp luật tục được người dân tuân thủ nghiêm chỉnh, triệt để hơn so với pháp luật. “Có những vụ việc mặc dù toà án nhân dân các cấp đã xét xử, nhưng người dân vẫn yêu cầu buôn làng xử lại và bản án xét xử theo luật tục được buôn làng chấp nhận hơn bất kỳ một bản án nào khác” Tham luận của Sở Tư pháp Đắc Lắc, Chuyên đề về luật tục, Kỷ yếu hội thảo ngày 28.3.1996, Viện nghiên cứu khoa học pháp lý, Bộ Tư pháp, H. 1997, tr. 65. . Vì vậy, cần tổ chức nghiên cứu sâu sắc để khai thác và vận dụng những giá trị của luật tục. Khuyến khích các cộng đồng dân tộc thiểu số xây dựng qui ước làng văn hoá dựa trên cơ sở của luật tục. Đồng thời tuyên truyền, vận động nhân dân loại bỏ những qui định trong luật tục đã lỗi thời, lạc hậu không phù hợp với pháp luật, đạo đức truyền thống tốt đẹp của dân tộc và tiến bộ xã hội. Trên cơ sở luật tục của các dân tộc thiểu số, nhà nước có thể vận dụng để xây dựng các văn bản pháp luật để áp dụng cho chính cộng đồng dân tộc đó. Các văn bản này có phạm vi điều chỉnh tương đương luật tục nhưng được diễn đạt bằng ngôn ngữ hiện đại, ngắn gọn. Về nội dung, các văn bản này cơ bản tuân thủ luật tục, tất nhiên phải sửa đổi cho phù hợp với tiến bộ xã hội Chẳng hạn, nghiêm cấm sự nhục mạ nhân phẩm trong trường hợp phạm tội loạn luân, nghiêm cấm việc thử tội bằng hình thức đổ chì nóng chảy vào tay, lặn nước, lấy kim trong nồi nước đang sôi... . Bên cạnh các biện pháp xử lý của luật tục (cúng tạ tội, phạt tiền...), có thể bổ sung thêm các biện pháp xử lý của nhà nước như tịch thu tài sản, phạt tù... Phan Đăng Nhật, sđd, tr. 6-15. . Sáu là, tăng cường công tác kiểm tra, giám sát của nhà nước đối với kỷ luật của các tổ chức xã hội Việc thành lập các tổ chức xã hội phải đảm bảo tuân thủ các qui định của pháp luật. Nhà nước cần sớm ban hành luật về các tổ chức xã hội, trong đó cần qui định cụ thể về thủ tục đăng ký, phê duyệt hiến chương, điều lệ, nội qui của chúng.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docphap_luat_trong_htcc_dieu_chinh_qhxh_6466_1806736.doc