Phao Hành chính công Cao học

Khái niệm về hành chính: Hành chính là thuật ngữ được sử dụng trong khoa học quản lý và khái niệm đó cũng được ra đời trong quản lý một hệ thống nào đó do con người tổ chức ra tồn tại theo lịch sử của xã hội loài người. Nhưng đặc biệt là nó mang bản chất quản lý các hoạt động của hệ thống nhằm ổn định và phát triển hệ thống đó. Như vậy, hành chính là hoạt động được sinh ra từ quản lý một hệ thống có nội dung là chấp hành và điều hành trong quản lý một hệ thống theo những quy định đã định trước nhằm đạt mục tiêu mà hệ thống đã đề ra. 3.2. Hành chính nhà nước: Từ khái niệm quản lý nhà nước và hành chính ta có thế phát biểu. Hành chính nhà nước là hoạt động được tách ra từ quản lý nhà nước, mang tính chất quyền lực nhà nước, đó là hoạt động lập quy và điều hành được thực hiện bởi các cơ quan trong hệ thống hành chính nhà nước từ trung ương đến cơ sở với những công cụ và phương pháp thích hợp nhằm đảm bảo cho hành chính nhà nước đạt được các mục tiêu mà quản lý nhà nước đã đề ra để duy trì và phát triển xã hội theo trật tự nhất định và phục vụ nhân dân. II. Bản chất của hành chính nhà nước và những đặc trưng chủ yếu của hành chính nhà nước Việt Nam

doc9 trang | Chia sẻ: tlsuongmuoi | Lượt xem: 2559 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Phao Hành chính công Cao học, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
hội bằng luật lệ và thực hiện các chính sách do các nhà chíh trị ban hành; - Tập trung vào sự chính xác và hiệu quả (tìm ra cách tốt nhất để hoàn thành công việc. - Quá trình phù hợp đúng đắn. - Không thiên vị (đối xử như nhau đối với những trường hợp giống nhau) phục vụ lợi ích công. 3.2. Mô hình quản lý công mới (NPM). Mô hình quản lý công mới được ra đời ở một số nước phát triển và một số nước đang phát triển và những năm 1980s của thế kỷ XX, nhằm đáp ứng những yêu cầu cấp bắch như: Những sức ép lên khu vực công; những thay đổi trong lý thuết kinh tế; tác động những thay đổi từ khu vực tư sang khu vực công; đặc biệt là toàn cầu hóa như một lực lượng kinh tế; và những thay đổi trong công nghệ. Mô hình này có những đặc điểm như sau: a. Tăng cường hiệu quả hoạt động quản lý: Mục tiêu của quản lý công mới là, hiệu quả của hoạt động quản lý nên các nhà hành chính công không quan tâm đến chu trình., cách thức tiến hành mà quan tâm đến mục tiêu có đạt được hay không. b. Phi quy chế hóa được thể hiện bằng cách đơn giản hóa các thể chế, các quy định, thủ tục của chính phủ vì chúng đã trở nên quá nặng nề và phức tạp, đến nổi người dân không hiểu nỗi, và thậm chí cả các cơ quan hành chính nhà nước cũng khó áp dụng. Từ đó đặt ra yêu cầu cải cách thể hế theo hướng: - Nâng cao chất lượng thể chế hành chính. - Tạo ra một hệ thống thể chế bao gồm các quy định đơn giản hơn và số lượng ít hơn sẽ tăng tự do cho các công dân, thúc đẩy sự phát triển của xã hội. c. Phân quyền. Đó là việc Chính phủ giao quyền hạn, trách nhiệm, thẩm quyền nhều hơn cho các đơn vị chính quyền địa phương (phân quyền lãnh thổ), hay cho các bộ và các tổ chức bên dưới (phân quyền chức năng) trong việc chủ động quản lý các nguồn lực được phân bổ trong phạm vi thẩm quyền của chúng ; đồng thời nó đề cao mối quan hệ vững chắc giữa Chính phủ với hệ thống hoạch định chính sách, giữa cấp hoạch định chíh sách với cấp thi hành. Phân quyền trong hành chính đã đạt được các lợi ích sau : - Tăng cường hoạch định chính sách ở cấp hành chính trung ương bằng cách giảm bớt các hoạt động có tính chất tác nghiệp. - Tăng hiệu quả hoạt động của nền hành chính do phát huy được tính chủ động, sáng tạo của chính quyền địa phương, làm cho nền hành chính sát thực tế hơn với đặc điểm kinh tế - xã hội địa phương. - Phát triển nền dân chủ, tăng cường sự tham gia của công dân trong hoạt động hành chíh nhà nước. d. Vận dụng các nguyên tắc của kinh tế thị trường : cạnh tranh và đấu thầu, xác định hiệu quả bằng việc so sánh giữa kết quả với chi phí, coi công dân là khách hàng của nền hành chính, làm cho nền hành chính trở nên năng động, đa dạng, phong phú, thoát khỏi vỏ ốc quan liêu truyền thống của bộ máy thư lại cũ. e. Mối quan hệ giữa chính trị, nhà nước và nền hành chính nhà nước. Đội ngũ các cán bộ quản lý hành chính đặc biệnt là các cán bộ quản lý cao cấp không còn là những người trung lập với chính trị mà họ tham dự vào quá trình xây dựng đường lối, chính sách. Bản thân họ là những người được rèn luyện chính trị, tham gia công tác chính trị và làm công tác chính trị và hành chính trong bộ máy hành pháp vào nền hành chính nhà nước, và do đó có thể xem họ là chiếc cầu nối giữa quyền lực chính trị với nền hành chính quốc gia. f. Tư nhân hóa một phần các hoạt động của nhà nước trên cơ sở thực hiện các mục tiêu và pháp luật nhà nước, đặc biệt là các dịch vụ công cộng. Tư nhân hóa không chỉ là con đường nâng cao hiệu quả, mà vì bản thân Chính phủ đã có quá nhiều chức năng và ôm đồm, nều không tư nhân hóa thì không thể đáp ứng nhanh mọi yêu cầu ngày càng tăng của các công dân. Tư nhân hóa không chỉ được hiểu đơn thuần là bán đi một phần tài sản của nhà nước mà một ý nghĩa quan trọng khác nữa là thu hút được đông đảo các thành phần xã hội, nhất là khu vực tư nhân, các công dân và các tổ chức phi chính phủ, tham gia vào hoạt động của nền hành chính công. h. Hành chính nhà nước không tách khỏi hành chính tư và vận dụng nhiều phương pháp áp dụng quản lý doanh nghiệp vào thực tiễn hoạt động của mình. Đó cũng là đòi hỏi khách quan của hiệu quả, chất lượng và sự linh hoạt trong đáp ứng các dịch vụ cho yêu cầu ngày càng tăng của công dân cả về số lượng và chất lượng. i. Xu thế quốc tế hoá hoạt động hành chính nhà nước Xu thế quốc tế hóa đời sống kinh tế - xã hội cũng ảnh hưởng đến nền hành chính nhà nước. Các nước phải điều chỉnh nhiều quy định pháp luật theo pháp luật và thông lệ quốc tế đối với nhiều vấn đề mang tính chất toàn cầu, dặc biệt là những vấn đề xã hội. Nền hành chính phát triển của các nước đều phải quan tâm và gánh vác nghĩa vụ chung đối với những vấn đề của loìa người. 3.3. Mô hình quản trị nhà nước tốt. Mô hình này ra đời vào năm 1990 ở một số nước trên thế giới nhằm đáp ứng yêu cầu về mở rộng dân chủ, xây dựng nền kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế, có những đặc trưng co bản như sau : - Đảm bảo sự tham gia của nhân dân - Nhà nước pháp quyền. - Trách nhiệm giải trình. - Công khai, minh bạch. - Định hướng đồn thuận - Công bằng, bình đẳng. - Hiệu lực và hiệu quả. - Thích ứng và linh hoạt. VẤN ĐỀ 3: Thể chế hành chính nhà nước. 1. Khái niệm: Có nhiều cách quan niệm về thể chế hành chính nhà nước, nhưng với cách hiểu thể chế hành chính là toàn bộ những yếu tố cấu thành để cho hành chính để cho hoạt động hành chính mang lại hiệu quả đạt được mục tiêu do hệ thống đề ra. Theo cách tiếp cận như vậy ta có thể định nghĩa thể chế hành chính nhà nước là: Thể chế hành chính nhà nước là toàn bộ các yếu tố cấu thành hành chính nhà nhà nước để hành chính nhà nước hoạt động quản lý hành chính có hiệu quả đạt được mục tiêu của quốc gia. Các yếu tố đó là: + Hệ thống các cơ quan hành chính nhà nước từ trương ương đến cơ sở + Hệ thống các văn bản pháp luật của nhà nước điều chỉnh sự phát triển kinh tế - xã hội trên mọi phương diện, đảm bảo xã hội phát triển ổn định, an toàn, bền vững. + Hệ thống các văn bản pháp luật của nhà nước quy định nhệm vụ, quyền hạn, thẩm quyền của các cơ quan thuộc bộ máy hành chính nhà nước từ trung ương đến cơ sở. + Hệ thống các văn bản quy định chế độ công vụ, công chức. + Hệ thống các văn bản pháp luật của nhà nước giải quyết những tranh chấp hành chính giữa công dân với nền hành chính thông qua khiếu nại, khiếu kiện hành chính. + Hệ thống các thủ tục hành chính nhằm giải quyết mối quan hệ giữa nhà nước với công dân và với các tổ chức xã hội khác. Tuy nhiên cũng có thể hiểu thể chế hành chính theo nghĩa hẹp hơn là một hệ thống gồm luật và các văn bản pháp quy dưới luật tạo khuôn khổ pháp lý cho các cơ quan hành chính nhà nước, một mặt là thực hiện chức năng quản lý, điều hành mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, cũng như cho mọi tổ chức cá nhân sống và làm việ theo pháp luật, mặt khác là các quy định về mối quan hệ giữa các cơ quan và nội bộ bên trong của các cơ quan hành chính nhà nước. Như vậy, thể chế hành chính nhà nước bao gồm những quy định của pháp luật để xây dựng cơ cấu tổ chức và nhân sự trong các cơ quan hành chính nhà nước và những quy định pháp luật làm cơ sở xây dựng quan hệ cụ thể giữa nhà nước tổ chức và công dân. 2. Phân loại thể chế 2.1. Thể chế nhà nước và thể chế tư: Thể chế nhà nước được quy định trong các văn bản quy phạm pháp luật và bắt buộc các tổ chức cá nhân thực hiện. Như vậy, thể chế hành chính nhà nước còn là cơ sở pháp lý để hướng dẫn xây dựng, thực hiện các thể chế tư. 2.2. Phân loại thể chế theo phương thức sản xuất. Dựa vào lịch sử loài người đã trải qua các phương thức sản xất, ứng với mỗi phương thức sản xuất có một thiết chế xã hội. Vì vậy người ta có thể dựa vào tính chất xã hội để phân loại thể chế. 2.3. Phân loại thể chế theo đặc trưng: Cách phân loại này chỉ ứng dụng trong khu vực nhà nước trên cơ sở đặc điểm tính chất của thể chế. Theo cách này có các loại nhóm thể chế phân theo tính quyền lực nhà nước, theo đối tượng quản lý, theo phạm vi quản lý, theo phân cấp quản lý nhà nước. 3. Các yếu tố ảnh hướng tới thể chế hành chính nhà nước CHXHCNVN - Chế độ chính trị. Tổng thể những phương pháp, cách thức mà nhà nước, các cơ quan hà nước sử dụng để thực hiện quyền lực nhà nước. Chế độ chính trị của nhà nước do bản chất của hệ thống chính trị quốc gia đó quyết định. Bản chất chính trị, cơ cấu tổ chức hệ thống nhà nước, vấn đề phân bố quyền lực nhà nước ảnh hưởng trực tiếp đến nội dung thể chế hành chính nhà nước. - Vai trò của hành chính nhà nước trong quản lý kinh tế. Hệ thống thể chế kinh tế và thể chế hành chính quản lý kinh tế cần được xem xét và điều chỉnh hợp lý với mức độ phát triển kinh tế sẽ tạo cơ hội cho kinh tế phát triển mạnh hơn và nhà nước có thể quản lý tốt hơn sự vận động của nền kinh tế. - Truyền thống văn hóa, phong tục, tập quán. Việc tiếp thu có chọ lọc những yếu tố phù hợp trong văn hóa truyền thống, kết hợp nó với đặc trưng thời đại để xây dựng một thể chế hành chính mang đặc điểm Việt Nam là một vấn đề hết sức quan trọng. Nếu như luật định hướng cho xã hội vận động và phát triển thì quản lý của các cơ quan trong hành chính nhà nước phải dựa vào những giá trị văn hóa để đưa ra quyết định cụ thể. - Ảnh hưởng của bên ngoài. Ngoài ra những nhân tố khác như hoàn cảnh địa lý của một số quốc gia, những thay đổi chính trị diến ra trên thế giới, ở những mức độ khác nhau, cũng gây ảnh hưởng đến tất cả các điểm của hệ thống hành chính nhà nước. 4. Nội dung của thể chế hành chính nhà nước ta. Thể chế hành chính nhà nước ở nước ta là yếu tố cấu thành tổng thể hệ thống thể chế nhà nước. Do đặc trưng chính trị - kinh eês – xã hội của Việt Nam thể chế hành chính nhà nước của ta mang những đặc trưng cơ bản của bản chất nhà nước Việt Nam. Có những nội dung chủ yếu như sau: a. Thể chế về việc xây dựng và ban hành nội dung văn bản quy phạm pháp luật. b. Thể chế hành chính trong lĩnh vực tổ chức bộ máy quản lý hành chính nhà nước. c. Thể chế hành chính trong lĩnh vực quản lý công vụ và đội ngũ cán bộ, công chức. d. Thể chế quan hệ giữa nhà nước và công dân. e. Thể chế hành chính nhà nước để giải quyết khiếu nại tố cáo. f. Thể chế hành chính nhà nước để quản lý các lĩnh vực đời sống kinh tế - xã hội: - Thể chế hành chính nhà nước để quản lý nhà nước về kinh tế. - Thể chế hành chính nhà nước để quản lý hành chính nhà nước về tại chinh tiền tệ. - Thể chế hành chính nhà nước để quản lý và sử dụng lực lượng lao động xã hội. - Thể chế hành chính nhà nước để quản lý hành chính nhà nước trên các lĩnh vực văn hóa, y tế, giáo dục. - Thể chế hành chính nhà nước để quản lý nhà nước về an toàn, trật tự xã hội, an ninh và quốc phòng. 5. Vai trò của thể chế hành chính nhà nước - Thể chế hành chính nhà nước là cơ sở cho việc xây dựng cơ cấu tổ chức bộ máy của cơ quan hành chính nhà nước thực hiện các chức năng nhà nuớc đã được phân công. Thể chế hành chính nhà nước quy định sự phân chia chức năng, quyền hạn giữa các cơ quan hành chính của chính phủ trung ương và giữa các cấp một cách cụ thể: Đó là việc ban hành các văn bản quy định về chức năng nhiệm vụ quyền hạn, cơ cấu tổ chức bộ máy. Nội dung của hoạt động thể chế này là nhiệm vụ đồng thời tổ chức bộ máy và nhân sự của các cơ quan hành chính nhà nước từ trung ương đến cơ sở. Đồng thời thể chế cũng quy định mối quan hệ giữa các cơ quan và việc ban hành các văn bản pháp luật để quản lý như thế nào; đồng thời cngx quy định nhiều chi tiết liên quan đèn các hoạt động quản lý hành chính nhà nước. - Thể chế hành chính là cơ sở xác lập nhân sự trong các cơ quan hành chính nhà nước. Dự trên cơ sở chức năng nhiệm vụ và tổ chức bộ máy cơ quan, từng vị trí được xác định một cách cụ thể, khoa học thì mới có thể bố trí được cán bộ, công chức hành chính vào đúng vị trí phù hợp với đúng năng lực, trình độ. Thể chế hành chính nhà nước chính là cơ sở pháp lý quy định nghĩ vụ, quyền lợi, quy định nội dung hệ thống quản lý nhân sự trong hành chính nhà nước… - Thể chế hành chính nhà nước là cơ sở cho việc xây dựng mối quan hệ cụ thể giữa nhà nước và công dân, giữa nhà nước và các tổ chức xã hội. Nếu như trong mối quan hệ giữa nhà nước và công dân và các tổ chức xã hội không được xác lập một cách cụ thể, đầy đủ bằng một hệ thống thể chế đúng đắn, thì nhà nước và hành chính nhà nước quản lý xã hội công dân thiếu dân chủ, thiếu công khai có thể dẫn đến tùy tiện, quản lý theo sở thích, theo cá nhân người được trao ủy quyền quản lý. VẤN ĐỀ 4: Chức năng và phương pháp hành chính nhà nước. 1. Khái niệm và phân loại chức năng hành chính nhà nước 1.1. Khái niệm chức năng hành chính nhà nước. Chức năng hành chính nhà nước là nội dung và hìh thức hoạt động chuyên biệt của hoạt động hành chính, là sản phẩm của quá trình phân công, chuyên môn hóa lao động trong lĩnh vực thực thi quyền hành pháp của nhà nước. Chức năng hành chính (hay chức năng của chính phủ) của mỗi quốc gia phụ thuộc vào vị trí của hệ thống hành pháp trong mối tương quan với cơ quan lập pháp và cơ quan tư pháp. Các chức năng hành chính đều được quy định chặt chẻ trong các văn bản quy phạm pháp luật của nhà nước và được cơ quan, xã hội chấp nhận.Các chức năng hành chính được phân bổ cho các cấp đảm nhiệm một cách rõ ràng cụ thể và không chồng chéo. Tóm lại, Chức năng hành chính nhà nước là những phương diện hoạt động cơ bản của hành chính trên các lĩnh vực thục thi quyền hành pháp nhằm thỏa mãn nhu cầu hợp pháp của nhân dân duy trì sự ổn định và phát triển xã hội. 1.2. Phân loại chức năng hành chính nhà nước. Có nhiều cách phân loịa chức năng hành chính khác nhau để thực hiện chức năng như: - Phân theo phạm vi thực hiện chức năng: Chức nâưng đối nội và chức năng đối ngoại. - Phân theo tính chất hoạt động của hành chính nhà nước có chức năng lập quy và chức năng hành chính. - Phân theo các lĩnh vực chủ yếu: có chức năng chính trị, chức năng kinh tế, chức năng văn hóa, chức năng xã hội - Phân loại theo cấp hành chính, có chức năng hành chính trung ương (chức năng Chính phủ, các bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính Phủ); chức năng hành chính địa phương (chức năng UBND và cơ quan chuyên môn các cấp) - Phân loại theo nhóm chức năng bên trong và chức năng bên ngoài hệ thống hành chính: + Chức năng bên trong gồm: Các chức nâưng vận hành nội bộ nền hành chính hoặc cơ quan hành chính: Lập kế hoạch, tổ chức, nhân sự, ra quyết định, phối hợp, lãnh đạo, ngân sách, báo cáo, kiểm soát. + Chức năng bên ngoài gồm: Các chức năng cơ bản như chức năng quản lý nhà nước đối với ngành, lĩnh vực cụ thể và chức năng cung ứng dịch vụ công. 1.3. Ý nghĩa của việc nghiên cứu chức năng hành chính nhà nước. + Nghiên cứu chức năng hành chính nhà nước có ý nghĩa sau: - Thứ nhất, thông qua việc xem xét chức năng hành chính có thể xác định được nội dung của hành chính nhà nước. - Thứ hai, chức năng hành chính nhà nước là một trong những căn cứ quan trọng nhất để thiết lập các cơ quan hành chính nhà nước và cũng là lý do chính đáng của sự tồn tịa chủ thể hành chính nhất định. - Thứ ba, đảm bảo quá trình hành chính được tiếp cận một cách bao quát trọn vẹn, hoàn chỉnh đối với từng cơ quan, từng chức vụ, từng cấp hành chính trong các ngành, lĩnh vực khác nhau của đời sống xã hội. - Thứ tư, tạo cơ sở khách quan cho việc xác định khối lượng công việc theo từng chức năng, định biên, xây dựng mô hình tổ chức cho từng loại chức năng hành chính, đặc biệt mô hình tổ chức cơ quan hành chính cấp bộ, cơ quan ngang bộ và mô hình tổ chức ủy ban nhân dân các cấp. - Thứ năm, bảo đảm sự phù hợp, ăn khớp giữa các chức năng của các cơ quan hành chính nhà nước, giảm thiểu sự chồng chéo hoặc bỏ trống chức năng trong hệ thống hành chính nhà nước. - Thứ sáu, giúp cho việc xác định mối quan hệ giữa các bộ phận cấu thành bộ máy hành chính nhà nước. - Thứ bảy, nghiên cứu chức năng hành chính nhà nước để phân biệt với các chức năng của hệ thống các cơ quan nhà nước khác như: chức năng lập pháp, chức năng tư pháp. - Thứ tám, nghiên cứu chức năng hành chính tạo cơ sở khoa học cho việc xác định thể chế hành chính quy chế công vụ và các chính sách phát triển nguồn nhân lực hiện hành. 2. Chức năng bên trong của hành chính nhà nước. 2.1. Chức năng hoạch định. Là chức năng cơ bản nhất trong các chức năng quản lý, là tiến trình kết hợp tất cả các mặt của tổ chức, đồng thời nó là cơ sở cho việc thực hiện các chức năng còn lại, đó là một quá trình xác định những mục tiêu tương lai và các cách thức thích hợp để đạt mụ tiêu đó. Hay nói cách khác đó là một quá trình nhằm trả lời cho các câu hỏi như: Làm cái gì, ai làm, khi nào làm, làm ở đâu, làm như thế nào. - Thứ nhất, xác định mục tiêu; - Thứ hai, xây dựng các kế hoạch hành động nhằm thực hiện mục tiêu. - Thứ ba, đánh gí mức độ hoàn thành mục tiêu, kế hoạch. 2.2. Chức năng tổ chức. - Xây dựng cơ cấu tổ chức hợp lý: thiết kế cơ cấu tổ chức gọn, phù hợp với mục tiêu, chức năng, nhiệm vụ của tổ chức; phân định trách nhiệm rõ ràng; tạo thuận lợi cho việc chỉ đạo và phối hợp. - Phân công công việc cho từng cá nhân, bộ phận. Phân công cho cá nhân phù hợp với năng lực; phân cho bộ phận theo chức năng hợp lý. - Xây dựng các mối quan hệ bên trong, bên - ngoài; quan hệ trực thuộc trên - dưới quan hệ phối hợp (ngang). 2.3. Chức năng nhân sự. - sự là cung cấp con người; duy trì và phát triển con người và cung cấp các chức vụ cho cơ cấu tổ chức. Bao gồm các nội dung cơ bản sau: tuyển dụng; sử dụng; quản lý hồ sơ nhân sự; đánh giá; khen thưởng; kỷ luật, thăng chức; thuyên chuyển, điều động, biệt phái; giải quyết các chế độ chính sách; Đào tạo và phát triển nhân lực để họ có thể thực hiện được nhưũng nhiệm vụ được giao một cách có hiệu lực, hiệu quả; chấm dứt nhiệm sở của cán bộ công chức. 2.4. Chức năng ra quyết định. Đây là chức năng cơ bản của quản lý vì quản lý suy cho cùng là hoạt động ban hành các quyết định. Chủ thể quản lý muốn tạo ra một tác động hành chính đều phải thông qua các mệnh lệnh, đó chính là quyết định. 2.5. Chức năng lãnh đạo. Bao gồm hướng dẫn và thúc đẩy mọi người làm việc vì mục tiêu chung. Bao gồm các công việc như: - Hướng dẫn cấp dưới thực hiện công việc; chỉ đạo các cấp dưới thực hiện các công việc đã phân công thông qua các hình thức như, mệnh lệnh, chỉ thị; khuyến khích, động viên, tạo cơ hội cho cấp dưới tham gia các hoạt động của tổ chức. 2.6. Chức năng phối hợp. Đây là chức năng điều hòa hoạt động của các cá nhân, bộ phận, đơn vị lệ thuộc, thiết lập một sự liên lạc đơn giản nhưng hợp lý giữa các cá nhân, đơn vị trong cơ quan ăn khớp với nhau, sẽ tránh sự trùng lắp, những quá trình nặng nề vì thủ tục rườn rà hay hệ thống thông báo phức tạp. bao gồm các hoạt động: - Xây dựng cơ chế phối hợp hoạt động giữa các cá nhân, bộ phận, đơn vị trong cơ quan. Cơ chế phối hợp thường được thể hiện cụ thể trong nội quy, quy chế hoạt động của các cơ quan. - Thiết lập mối quan hệ liên lạc, thông tin đơn giản, hiệu quả giữa các bộ phận trong cơ quan thông qua hình thức họp giao ban định kỳ, cơ chế thông báo, báo cáo… 2.7 Chức năng tài chính. Đây là chức năng liên quan đến việc phân bổ, sử dụng các nguồn tài chnhs trong cơ quan, bao gồm từ việc dự trù kinh phí hoạt động hàng năm theo các chương trình, kế hoạch, dự án được duyệt; sử dụng một cách có hiệu quả cho đến việc kiểm soát các chi tiêu theo đúng chế độ, đúng phân cấp. 2.8 Chức năng báo cáo. Thiết lập các báo cáo định kỳ và báo cáo đột xuất của cấp dưới để trình nộp cấp trên theo yêu cầu. Nó là cơ sở để cấp trên đánh giá cấp dưới. Báo cáo gồm báo cáo trực tiếp, báo cáo thống kê, báo cáo bằng văn bản. 2.9 Chức năng kiểm soát. Chức năng kiểm soát là hoạt động của quản lý nhằm đảm báo các hoạt động của các cơ quan đang được tiến hành theo đúng dự kiến, tuân thủ các quy định, đồng thời, phát hiện những sai sót, sai lệch, vi phạm, từ đó đưa ra các biện pháp cần thiết để sữa chữa những sai sót, tối thiểu hóa những sai lệch và xử lý những vi phạm. Mục đích của kiểm soát là nhằm đảm bảo hiệu lực và hiệu quả quản lý của cơ quan. 3. Chức năng nhà nước đối với bên ngoài. Chức năng hành chính nhà nước đối với bên ngoài là sự cụ thể hóa những vai trò, nội dung của hành chính nhà nước đối với bên ngoài xã hội những chức năng này còn gọi là chức năng điều tiết và can thiệp. 3.1. Những chức năng cơ bản của hành chính nhà nước. Trong thực tế có những công việc Chính phủ có thể làm hoặc có thể không phải làm, có những việc làm tốt và có những việc làm kém. Tuy nhiên sự hiện diện của chính phủ là cận thiết, để bù đắp khắc phục nhưng khiếm khuyết của thị trường. Các chức năng cơ bản của chính phủ. - Cung cấp cơ sở hạ tầng kinh tế - Giải quyết và hòa giải các mâu thuẫn trong xã hội. - Duy trì cạnh tranh - Bảo vệ các nguồn lực tự nhiên - Bảo đảm sự tiếp cận tối thiểu của cá nhân đối với các hàng hóa và dịch vụ kinh tế. - Duy trì sự ổn định của nền kinh tế. 3.2. Chức năng nhà nước đối với ngành, lĩnh vực. Chức năng này thể hiện nội dung của hành chí đối với các ngành, lĩnh vực thể hiện nội dung của hành chính nhà nước đối với các ngành, lĩnh vực khác nhau của đời sống xã hội. Chức năng quản lý nhà nước đối với các ngành, lĩnh vực cụ thể được thể hiện thông qua một số nội dung: - Định hướng phát triển đối với ngành, lĩnh vực của đời sống xã hội. - Tạo môi trường pháp lý phù hợp cho các ngành, lĩnh vực phát triển. - Khuyến khích, hỗ trợ, điều tiết các ngành, lĩnh vực. - Ngăn ngừa, khắc phục những yếu tố tiêu cực phát sinh trong phạm vi ngành, lĩnh vực. 3.3. Chức năng cung cấp dịch vụ công cho xã hội. Về nguyên tắc chính phủ không cần thiết phải trực tiếp cung cấp dịch vụ công mà là đảm bảo rằng các dịch vụ đó được cung cấp trên thực tế. Do vậy, chính phủ chỉ tập trung cung cấp những hàng hóa, dịch vụ mà xã hội cần trong những trường hợp: - Thiếu người cung cấp do đòi hỏi tiềm lực kinh tế, nhân lực lớn…, - Các chủ thể khác không muốn cung cấp do lợi nhuận thấp. - Các chủ thể khác cung cấp không hiệu quả. - Các dịch vụ mà nhà nước chưa thể chuyển giao cho các chủ thể khác làm (các chủ thể khác muốn cung ứng nhưng nhà nước chưa cho phép). Việc xác định những dịch vụ công nào do hành chính nhà nước trực tiếp cung ứng tùy thuộc vào quan điểm chính trị và điều kiện kinh tế - xã hội trong từng giai đoạn của mỗi quốc gia. 4. Phương pháp hành chính nhà nước. 4.1. Khái niệm: Phương pháp hành chính nhà nước là cách thức tác động của chủ thể quản lý hành chính nhà nước lên đối tượng quản lý hành chính nhà nước nhằm đạt được mục tiêu đề ra. 4.2. Các yêu cầu đối với việc xây dụng các phương pháp hành chính nhà nước. Các phương pháp phải đảm bảo các yếu cầu sau: - Phương pháp quản lý phải đa dạng và thích hợp để tác động lên những đối tượng khác nhau. - Các phương pháp phải có tính khả thi, đem lại hiệu quả cao. - Các phương pháp quản lý phải hoàn toàn phù hợp với pháp luật hiện hành, với cơ chế hiện hành của nhà nước. 4.3. Các phương pháp quản lý hành chính nhà nước. 4.3.1. Phươn pháp giáo dục. là cách tác động vào nhận thức của con người nhằm nâng cao tính tự giác, tinh thần trách nhiệm và khả năng thực hiện nhiệm vụ của họ. 4.3.2. Phương pháp tâm lý. Cách thức tác động lên tâm tư, tình cảm con người để khuyến khích họ nhiệt tình, hăng say lao động, gắn bó với tập thể. 4.3.3. Phương pháp tổ chức. Cách thức tác động lên con người thông qua mối quan hệ tổ chức nhằm đưa con người vào khuôn khổ, kỷ luật, kỷ cương. 4.3.4. Phương pháp kinh tế. Cách thức tác động vào đối tượng quản lý thông qua các lợi ích kinh tế, để cho đối tượng bị quản lý tự lựa chọn phương án hoạt động ó hiệu quả nhất trong phạm vi hoạt động của họ. 4.3.5 Phương pháp hành chính. Là cách thức tác động trực tiếp của chủ thể hành chính nhà nước lên đối tượng bằng các quyết định hành chính mang tính chất bắt buộc. Phương pháp này dựa trên mối quan hệ quyền lực phục tùng - mối quan hệ quyền hành trong tổ chức. Trong các phương pháp này thì phương pháp giáo dục tư tưởng đạo đưcá là hàng đầu, phải làm thường xuyên liên tục và nghiêm túc. Mỗi phương pháp có một ưu thế riêng và được sử dụng trong một lĩnh vực, một tình huống quản lý cụ thể do chủ thể quản lý hánh chính nhà nước quyết định. VẤN ĐỀ 5: Quyết định quản lý hành chính nhà nước. I. Quan niệm về quyết định quản lý hành chính nhà nước. 1. Khái niệm quyết định quản lý hành chính nhà nước. Hiện nay có nhiều quan niệm khác nhau về quyết định quản lý hành chính nhà nước, song nếu xét về góc độ quản lý thì ta thấy rằng: Quyết định quản lý hành chnhs là kết quả thể hiện ý chí quyền lực của cơ quan hành chính nhà nước dưới các hình thức khác nhau và được các đối tượng bị tác động điều chỉnh nghiêm túc thực hiện. 2. Vai trò của quyết định quản lý hành chính nhà nước. - Quyết định quản lý hành chính nhà nước là côn cụ quản lý hành chính nhà nước. Do đó noc có khả năng phát triển hoặc kìm hãm sự phát triển của đối tượng quản lý. - Quyết định quản lý hành chính nhà nước là sản phẩm lao động trí óc của chủ thể hành chính nhà nước, thể hiện quyền lực, năng lực, lương tâm của người lãnh đạo. Do đó số lượng cũng như chất lượng quyết định có ảnh hưởng nhiều đến hiệu lực và hiệu quả của hoạt động quản lý hành chính nhà nước. Hiệu lực hiệu quả không chỉ phụ thuộc vào nội dung chất lượng của quyết định quản lý mà còn phụ thuộc vào việc tổ chức thực hiện chúng, nhưng chất lượng và nội dung của quyết định trong nhiều trường hợp là chính yếu để đạt hiệu quả của quản lý hành chính nhà nước. 3. Tính chất của quyết định quản lý hành chính nhà nước. Quyết định quản lý hành chính nhà nước nó có nhưng tính chất sau: - Quyết định quản lý hành chính nhà nước mang tính quyền lực nhà nước, vì nó là kết quả của sự thể hiện ý chí của các cơ quan hành chính có thẩm quyền thực hiện nhân danh quyền lực nhà nước. - Quyết định quản lý hành chính nhà nước mang tính pháp lý, thể hiện hệ quả pháp lý của nó là làm phát sinh, thay đổi, chầm dứt các quan hệ pháp luật hành chnhs cụ thể. - Quyết định hành chính nhà nước mang tính dưới luật, ví nó là sản phẩm của hoạt động lập quy của cơ quan hành chính nhà nước, nội dung của nó phải phù hợp với hiến pháp, luật, pháp lệnh và các văn bản quản lý của cơ quan nhà nước cấp trên ban hành theo trình tự thủ tục luật định. - Quyết định quản lý hành chính nhà nước ban hành để thực hiện quyền hành pháp, tức là hoạt động chấp hành và điều hành của hệ thống hành chính nhà nước vói những người có thẩm quyền hành pháp. 4. Phân loại quyết định quản lý hành chính nhà nước. + Việc phân loại quyết định hành chính cũng có nhuều cách phân loại để xác định mức độ quan trọng của nó như phân loại theo thẩm quiyền ban hành, phân loại theo thời gian có hiệu lực của quyết định, căn cứ vào cấp hành chính, căn cứ vào tính chất và nội dung…để phân loại quyết định. + Trong tất cả các cách phân loại trên phân quyết định theo tính chất và nội dung là phân loại cơ bản nhất và có tính thực tiễn nhất. Theo đó nó được phân thành: - Quyết định chung: Là những quyết định đề ra các chính sách, nhiệm vụ, biện pháp lớn có tính chất chung. Nó là cơ sở cho việc ban hành các quyết định hành chính quy phạm và nó là công cụ định hướng trong thực hiện lãnh đạocủa hệ thống hành chính nhà nước. - Quyết định quy phạm: Là quyết định ban hành các quy phạm pháp luật hành chính để làm cơ sở, căn cứ cho việc ban hành các quyết định cá biệt. Việc áp dụng nó làm phát sinh, thay đổi hay chấm dứt các quan hệ pháp luật cụ thể. - Quyết định cá biệt: Quyết định hành chính cá biệt là quyết định do các chủ thể quản lý hành chính có thẩm quyền ban hành trên cơ sở quyết định hành chính quy phạm, hoặc trên cơ sở quyết định hành chính cá biệt của cấp trên nhằm giải quyết một vấn đề cụ thể trong quản lý hành chính nhà nước. Quyết định hành chính cá biệt có tính chất đơn phương và tính bắt buộc thi hành ngay. Nó được phân thành quyết định hành chính cho phép và quyết định hành chính ra lệnh. II. Một số yêu cấu cơ bản của quyết định quản lý hành chính nhà nước. 1. Các yêu cầu về tính hợp pháp. - Nội dung quyết định phải phù hợp với quy định của pháp luật. - Quyết định ban hành có căn cứ pháp lý. - Đúng thẩm quyền ban hành. - Đúng thể thức, kỹ thuật trình bày và thủ tục ban hành theo quy định của pháp luật. 2. Các yêu cầu về tính hợp lý. - Khi đánh giá quyết định quản lý hành chính theo tính hợp lý có thể căn cư vào các tiêu chí dưới đây: + Kết hợp hài hòa các lợi ích, lợi ích nhà nước, lợi ích tập thể và lợi ích cá nhân. + Tính cụ thể và phù hợp. Cụ thể về mục tiêu, chủ thể thực hiện, điều kiện, phương tiện thực hiện, thời gian không gian tiến hành. Phù hợp với từng vấn đề, đối tượng trong từng giai đoạn. + Tính hệ thống, tính toàn diện: Tính đến tất cả các yếu tố như: Chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, an ninh, quốc phòng, môi trường…phải tính đến tác động trước mắt và lâu dài, trực tiếp và gián tiếp. Đồng thời tính đồng bộ và phù hợp với các quyết định quản lý hành chính nhà nước liên quan, không mâu thuẫn, triệt tiêu lẫn nhau. + Bảo đảm ký thuật lập quy về văn phong, ngôn ngữ. III. Quy trình ban hành và tổ chức thực hiện quyết định quản lý hành chính nhà nước 1. Giai đoạn ban hành quyết định quản lý hành chính nhà nước. + Bước 1: điều tra, nghiên cứu, thu thập thông tin và xử lý thông tin. Phân tích đánh giá tình hình làm căn cứ cho việc ra quyết định. Dự đoán, lập phương án và chọn phương án tốt nhất. + Bước 2: Soạn thảo quyết định đay là bước quan trọng vì đòi hỏi người soạn thảo có các ký năng hành chính đồng thời am hiểu pháp luật để biến các nội dung của bước 1 thành văn hành chính. + Bước 3: thông qua quyết định: có hai phương thức thông qua: a) Thông qua theo chế độ lãnh đạo tập thể và quyết định theo đa số. + Các cuộc họp để thông qua quyết định chỉ được coi là có giá trị khi số người tham dự cuộc họp đạt 2/3 tổng số thành viên trở lên. Các thành viên dự họp phải có đủ tư cách và thẩm quyền, đúng thành phần, được cung cấp đầy đủ thông tin về nội dung cuộc họp và phải chịu trách nhiệm ý kiến của mình trong cuộc họp. b) Thông qua theo chế độ một thủ trưởng: Trên cơ sở đã bàn bạc thủ trưởng đơn vị là người quyết đinh cuối cùng. Bãn lĩnh của người lãnh đạo là dám làm. Dám quyết và dám chịu trách nhiệm. + Bước 4: Ban hành và công bố quyết định. Ban hành quyết định là bước văn bản hóa các quyết định quản lý hành chính nhà nước. Việc văn bản hóa quyết định quản lý hành chính nhà nước phải đảm bảo đúng thể thức. Kỹ thuật trình bày, cách trình bày và ngôn ngữ văn phong pháp luật. Công bố quyết định bằng cách đăng trên công báo, gửi đến các cơ quan kiểm tra hoặc thông tin trên các phương tiện thông tin theo quy định của pháp luật đối với từng loại quyết định. 2. Giai đoạn tổ chức thực hiện quyết định. Bước 5: Triển khai quyết định. Triển khai quyết định đến đối tượng quản lý bằng phơng tiện nhanh nhất, theo con đường ngắn nhất, tránh qua nhiều nấc trung gian không cần thiết. Bước 6: Tổ chức lực lượng thực hiện quyết định. + Một là, Quyết định phải được thực hiện rộng rãi trong toàn bộ phạm vi đối tượng, lĩnh vực cần điều chỉnh, tác động nhưng cần phải chỉ đạo kiểm điểm để nhanh chóng rút kinh nghiệm chỉ đạo toàn diện. + Hai là, Quyết định có thể được thực hiện thí đểm (làm thử) ở một số đối tượng, ở một số nơi để rút kinh nghiệm, sau đó mới sơ kết, tổng kết, ra quyết định chính thức để triển khai rộng. Trong quá trình tổ chức thực hiện quyết định nhất thiết phải thực hiện công tác kiểm tra, việc ra quyết định và thực hiện quyết định phải gắn liền với việc kiểm tra thực hiện quyết định. Bước 7: Xử lý thông tin phản hồi, điều chỉnh quyết định kịp thời Thông tin phản hồi là mối liên hệ ngược trong quản lý. Một quyết định đx ban hành cần phải được chỉ đạo tiến độ thực hiện nó và cần có sự điều chỉnh khi cần thiết, tuy nhiên chỉ nên điều chỉh quyết định khi thấy cần thiết sau khi đã cơ sơ kết nghiêm túc, kết luận rõ ràng, tránh tnình trạng một quyết định thay đổi nhiều lần gây ra tâm lý không ổn định giảm lòng tin của cấp dưới, của người thực hiện. 4. Giai đoạn tổng kết,đánh giá việc thực hiện quyết định Sau khi thực hiện quyết định quản lý, điều quan trọng là phải đánh giá một cách trung thực, cụ thể, chíh xác kết quả hoạt động quản lý. Đánh giá quyết định phải trung thực, nhìn thẳng vào sự thật, nói đúng sự thật, không giấu giếm khuyết điểm, tránh khoa trương thổi phồng thành tích IV. Những yếu tố ảnh hưởng đến quá trình xây dựng quyết định quản lý hành chính nhà nước. 1. Những yếu tố khách quan Loại vấn đề quyết định điều chỉnh: loại vấn đề và tính chất phức tạp của vấn đề quy định loại quyết định, nội dung và quy trình xây dựng quyết định. Những vấn đề mà liên quan tới lợi ích cộng đồng, các tầng lớp nhân dân, các thành phần kinh tế thì loại quyết định thường là quyết định chính sách. Những vấn đề liên quan đến lợi ích của cọng đồng, các tầng lớp nhân dân, các thàh phần kinh tế thì loại quyết định đó là quyết định chính sách. Những vấn đề liên quan đến việc điều chỉnh một loại quan hệ xã hội thì cần ban hành quyết định quy phạm. Hoặc vấn đề quyết định chỉ giải quyết một tình huống cụ thể, gắn với sự kiện pháp lý thì ban hành quyết định hành chính cá biệt… - Yếu tố thẩm quyền ban hành quyết định: Nhà hành chính chỉ có thể ban hành quyết định quản lý hành chính để giải quyết vấn đề khi vấn đề đó thuộc phạm vi thẩm quyền của nhà hành chính. Tên loại quyết định cũng phụ thuộc vào thẩm quyền ban hành của người ra quyết định. - Yếu tố nguồn lực: Nhà hành chính chỉ có thể ban hành quyết định quản lý hành chính để giải quyết vấn đề khi nhà hành chính có đầy đủ các nguồn lực để thực hiện quyết định như tài chính, vật chất, con người. - Yếu tố thông tin: Nếu thông tin không đầy đủ thì trong quá trình giải quyết các vấn đề để ra quyết định sẽ bị hạn chế việc tìm ra các phương pháp để giải quyết vấn đề. - Yếu tố chính trị: Việc lựa chọn phương án quyết định để giải quyết vấn đề chịu sự ảnh hưởng bởi các quyết định chính trị, công luận, ý kiến các nhóm lợi ích mà chịu sự tác động của quyết định. - Thời gian ra quyết định: Thời gian có thể có cho việc ra quyết định ảnh hưởng đến chất lượng của các quyết định. Ra quyết định trong trường hợp thời gian hạn chế, gấp gáp thì việc thu thập thông tin đầy đủ về vấn đề quyết định khó thực hiện, cũng như việc tìm ra các phương án có thể khó rất khó khăn. 2. Những yếu tố chủ quan: + Năng lực của người ra quyết định, tác phong của họ là những yếu tố chủ quan ảnh hưởng đến việc xây dựng quyết định quản lý hành chính nhà nước. + Động cơ của người quyết định. V. Xử lý quyết định quản lý hành chính nhà nước không hợp pháp, không hợp lý. 1. Xử lý quyết định hành chính không hợp pháp, không hợp lý. a. Đình chỉ bãi bổ quyết định hành chính. - Khi có nghi ngờ về tính hợp pháp và hợp lý của quyết định nhưng chưa khẳng định rõ, thì cơ quan nhà nước có thẩm quyền ra quyết định tạm đình chỉ. Sau đó có căn cứ là quyết định bất hợp pháp và bất hợp lý thì có thể ra quyết định bãi bỏ. - Tùy thuộc vào thẩm quyền của mình mà cơ quan nhà nước cấp trên có quyền đình chỉ và bãi bỏ hoặc chỉ có quyền đình chỉ còn việc bãi bỏ thuộc thẩm quyền người khác. b. Khôi phục lại tình trạng cũ do việc thực hiện quyết định hành chính bất hợp pháp, bất hợp lý gây ra. Các chủ thể hành chính nhà nước ban hành quyết định trái pháp luật và thực hiện quyết định này gây ra hậu quả, vi phạm đến quyền tự do và lợi ích hợp pháp của công dân, thì nhà nước phải áp dụng các biện pháp để khôi phục lại tình trạng cũ và bồi thường thiệt hại. c. Truy cứu trách nhiệm người có lỗi. Tùy theo tính chất và mức độ của quyết định hành chính bất hợp pháp, bất hợp lý mà người có lỗi có thể bị truy cứu trách nhiệm kỷ luật, trách nhiệm bồi thường thiệt hại về tại sản hoặc truy cứu trách nhiệm hình sự. Khi một quyết định hành chính ban hành mà không tuân thủ các yêu cầu hợp lý thì quyết định đó có thể bị đình chỉ hoặc bãi bỏ. Trong trường hợp này người ban hành có thể bị truy cứu trách nhiệm kỹ luật, nhưng không áp dụng trách nhiệm haình sự vì quyết định không vi luật và không phải khôi phục lại tình trạng cũ. 2. Quyền khiếu kiện những quyết định hành chính không hợp pháp, không hợp lý. Sau khi thực hiện quyền khiếu nại hành chính đối với các quyết định hành chính bất hợp pháp, mà cá nhân, tổ chức không đồng ý với các quyết định giải quyết của các cơ quan hành chính nhà nước, thì cá nhân, tổ chức có quyền khiếu kiện hành chính. Khiếu kiện hành chính là phương thức theo đó cá nhân, tổ chức yêu cầu tòa hành chính phán xét và giải quyết tính hợp pháp của quyết định hành chính nhà nước và về việc bồi thường thiệt hại gây ra bởi một quyết định hành chíh cá biệt hoặc hành vi hành chính. Tòa án hành chính căn cứ vào nội dung đơn kiện về quyết định hành chính bất hợp pháp của cá nhân, tổ chức mà tiến hành xét xử theo thủ tục tố tụng hành chính. VẤN ĐỀ 6: Kiểm sóat đối với hành chính công. I. Quan niệm chung về kiểm soát đối với hành chính công. 1. Khái niệm: Để đảm bảo pháp chế và kỷ cương trong quản lý hành chính nhà nước, các chủ thể có thể kiểm soát hoạt động của hệ thống hành chính nhà nước. Kiểm soát đối với hạot động quản lsy hành chính nhà nước là lọi hoạt động đặc biệt của Nhà nước và xã hội nằhm đảm bảo tính hợp pháp, hợp lý và hiệu quả trong quản lý hành chính nhà nước. Đó là tổng thể những phương tiện tổ chức – pháp lý được cơ quan nhà nước, các tổ chức xã hội và công dân thông qua các hình thức giám sát, kiểm tra, thanh tra, kiểm sát, tại phán dưới sự lãnh đạo của đảng nhằm thiết lập trật tự trong quản lý, bảo vệ các quyền, tụ do, lợi ích hợp pháp của công dân, lợi ích của nhà nước và xã hội 2. Sự cần thiết khách quan của kiểm soát đối với hành chính nhà nước. Việc kiểm soát hành chính nhà nước là sự cần thiết khách quan. Nguyên tắc đó nớ được xuất phát từ: - Thứ nhất, nó đảm bảo cho mọi hoạt động quản lý nhà nước phù hợp với khuôn khổ pháp luật theo nguyên tắc pháp quyền xã hội chủ nghĩa. - Thứ hai, để tránh tình trạng lạm dụng quyền hành của các chủ thể quản lý hành chính nhà nước, bảo vệ quyền tự do và lợi ích hợp páhp của các tổ chức, công dân. - Thứ ba, Đảm bảo đúng bản chất nhà nước là nhà nước của dân, do dân và vì dân. Thứ tư, Kiểm soát hành chính nhà nước là hoạt động bắt buộc đối với moại nhà nước để phát hiện các sai sót trong quản lý nhà nước kịp thời sửa chữa, khắc phục những sai sót, khuyết điểm. Ngoài ra nguồn lực tài chính để thực hiện các hoạt động hành chính nhà nước là ngân sách nhà nước và nền hành chính sửu dựng một số lượng tài sản lớn của nhà nước, để đảm bảo sử dụng tài chính có hiệu quả thì việc kiểm soát tài chính là một công việc không thể thiếu đối với mọi nhà nước. 3. Phân loạo kiểm soát đối với nền hành chính nhà nước. Do tính chất phức tạp và đa dạng của các quan hệ giưa hành chính nhà nước với các chủ thể khác trong xã hội, nên kiểm sóat đối với hành chính cũng rất đa dạng. - Căn cứ vào mối quan hệ giữa chủ thể và đối tượng kiểm soát thì kiểm soất hành chính đực phân thành kiểm sóat bên trong (nội bộ) kiểm soát bên ngoài: + Kiểm soát bên ngòai là hoạt động kiểm soát mà chủ thể kiểm soát và đối tượng kiểm soát không cúng trong một hệ thống thứ bậc hành chính. + Kiểm soát nội bộ là hoạt động kiểm soát mà chủ thể và đối tượng kiểm soát trong cùng một hệ thống thứ bậc hành chính. - Căn cứ vào nội dung và tính chất của hoạt động kiểm soát, thì hoạt động kiểm soát chia thành liểm sóat chung và kiểm soát hoạt động hay kiểm soát tác nghiệp. + Kiểm soát chung được tiến hành thông qua việc đo lường các kết quả đạt được và so sánh nó với mục tiêu, tiêu chuẩn đã đề ra nhằm xác định các sai lệch và thực hiện mọi hoạt động điều chỉnh cần thiết để đảm bảo chắc chắn con người và các nguồn lực khác của hệ thống đang sử dụng theo cách thức hiệu lực và hiệu quả nhất trong quá trình đạt tới mục tiêu. + Kiểm sóat hoạt động là kiểm soát việc tuân thủ pháp luật, chấp hành các chương trình, các kế hoạch, chính sách, các thủ tục hành chính, ngân sách hàng năm…nhằm đảm bảo các hoạt động diễn ra theo đúng như dựu kiến và có những điều chỉnh kịp thời nhằm khắc phục những sai sót - Căn cú vào tính chất quyền lực trong kiểm soát, thì kiểm sóat đối với nền hành chính nhà nước được phân thành. + Kiểm soát bằng quyền lực chính trị (đảng chính trị, các tổ chức đại diện của dân) + Kiển soát bằng quyền lực nhà nước (lập pháp, hành pháp và tư pháp) + Kiểm soát bằng quyền lực xã hội (cong dân và công luận) II. Kiểm soát bên ngoài đối với hành chính công 1. Giám sát quốc hội. Quốc hội thực hiện quyền giám sát tối coaq đối với toàn bộ hoạt động của nhà nước, như vậy giám sát là chức anưng hiến định của cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất và đối tượng giám sát của quốc hội là hoạt động của mọi cơ quan nhà nước trong đó có hạot động của hệ thống hành chính nhà nước. Giàm sát của Quốc hội thông qua nhiều hình thức khác nhau: - Nghe, thảo luận và đánh giá các báo cáo của Chính phủ, các Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, trong các kỳ họp Quốc Hội. - Các đại biểu Quốc hội chất vấn và nghe trả lời chất vấn của Thủ tướng Chính phủ, Bộ trưởng và các thành viên khác của chính phủ. - Quốc hội thực hiện quyền giám sát thông qua các ủy ban, hội đồng của mình và kiểm toán của nhà nước. - Thực hiện giám sát thông qua các Ủy ban, hội đồng của mình và kiển toàn nhà nước. - Thực hiện giám sát thông qua các cuộc tiếp xúc với cử tri của đại biểu Quốc hội và các đoàn đại biểu Quốc hội, nghe yêu cầu, kiến nghị, khiếu nại, tố cáo của cử tri. 2. Giám sát của hội đồng nhân dân các cấp. Hội đồng nhân dân các cấp thực hiện giám sát hoạt động của UBND, các cơ quan chuyên môn của UBND, các xí nghiệp, cơ quan, tổ chức đáng trên địa bàn. Giám sát hội đồng nhân dân thông qua kỳ họp hội đồng nhân dân; nghe báo cáo của ủy ban nhân dân, của cơ quan chuyên môn; chất vấn chủ tịch và các thành viên của UBND, thủ trưởng các cơ quan chuyên môn của ủy ban; thông qua thường trực hội đồng nhân dân và các ban của hội đồng; bằng hoạt động đại biểu trong khu vực bầu cử. 3. Giám sát tư pháp. Theo hiện pháp, luật tổ chức toà án thì tòa án nhân đân tối cao, tòa án nhân dân địa phương, các tòa án quân sự và các tòa án khác do luật định là các cơ quan xét xử của nước công hào xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Thông qua các phiên tòa xét xử các vụ hình sự, dân sự, lao động, hôn nhân gia đình và kinh tế, tòa án thực hiện chức năng giám sát đối với hoạt động hành chính nhà nước. Giám sát của Tòa án nhân dân đối với hành chnhs nhà nước thông qua tài phán hành chính và tài phán tư pháp. 4. Giám sát của cơ quan Đảng. Đảng lãnh đạo xã hội thông qua việc lãnh đạo nhà nước và lãnh đạo tổ chức đoàn thể nhân dân. Do đó, kiểm sóat đối với nhà nước là một chức năng gắn liền với quyền lãnh đạo của Đảng, Đảng kiểm tra hoạt động của nhà nước thông qua các tổ chức đảng, đảng viên làm việc trong hoạt động quản lý nhà nước. Hoạt động kiểm tra đảng có các hnhf thức, nội dung, phương pháp đặc thù. Các cơ quan kiểm tra đối với hoạt động của nhà nước là: Đại hội đại biểu toàn quốc, Hội nghị ban chấp hành trung ương Đảng, Bộ chính trị, Ban bí thư, các ban của trung ương Đảng; Đại hội đại biểu các cấp và Đảng ủy các cấp đó; tổ chức Đảng cơ sở, chi bộ và tổ Đảng. Đảng lãnh đạo các tổ chức chính trị - xã hội và toàn thể nhân dân kiểm soát hành chính nhà nước. 5. Giám sát của các tổ chức chính trị - xã hội. Nhân dân tham gia quản lý nhà nước, xã hội thôgn qua các tổ chức ax hội mà họ là thành viên như; Mặt trận tổ quốc Việt Nam, Công đoàn, Đoàn thanh niên, Hội liên hiệp phụ nữ, Hội cựu chiến binh…đều được ghi nhận trong hiến pháp và pháp luật của Nhà nước. Chẳng hạn Mặt trận tổ quốc tiến hành hiệp thương bầu cử đại biểu quốc hội, hội đồng nhân dân các cấp; tham gia xây dựng, trình các dự án luật, pháp lệnh, nghị định… Quyền giám sát thực hiện pháp luật của bộ máy hành chính còn thuộc về các tổ chức xã hội khác như các tổ chức kinh tế tập thể, các hội nghề nghiệp, hội tự nguyện, hội tự quản, các tập thể lao động, trong đó tập thể lao động ơ các đơn vị cơ sở có vai trò đặc biệt quan trọng. Trong môi trường dân chủ hóa đời sống xã hội cần phát huy tính tích cực chính trị của các tổ chức xã hội trong việc tham gia giám sát các cơ quan hành chính nhà nước với phương châm dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra”. Trong giám sát của tổ chức xã hội, thanh tra nhân dân có vai trò quan trọng. Vì vậy, địa vị và nhiệm vụ quyền hạn của thanh tra nhân dân được quy định trong pháp lệnh thanh tra nhân dân được quy định trong pháp lệnh thanh tra. 6. Giám sát trực tiếp của nhân dân. Giám sát của công dân đối với hành chính nhà nước, ngoài hình thức gián tiếp thông qua các tổ chức xã hội và cơ quan đại diện của mình, còn thông qua thực hiện quyền kiến nghị, yêu cầu, khiếu nại, tố cáo các hành vi vi phạm pháp luật với cơ quan nhà nước, tổ chức có thẩm quyền. Công dân còn thực hiện quyền khiếu nại, tố cáo theo luật định. 7. Giám sát công luận đối với nền hành chính nhà nước. Bên cạnh những haình thức kiểm sóat trực tiếp và gián tiếp nêu trên, nhân dân còn có thể kiểm soát trực tiếp hành chính nhà nước bằng cách vận dụng công luận thông qua những phương tiện thông tin đại chúng như; báo chí, phát thanh, truyền hình, sách… chế tài của kiểm soát bằng công luận không mang tính quyền lực pháp lý, chỉ có tính cách đạo đức nghề nghiệp. Tuy nhiên qua những ý kiến công luận có thể giúp cơ quan hành chính điều chỉnh hoạt động của mình cho phù hợp hoặc thực hiện vai trò kiểm sóat cảu mình tốt hơn. III. Kiểm soát bên trong. 1. Kiểm tra thanh tra của cơ quan hành chính nhà nước thẩm quyền chung. Các cơ quan hành chính nhà nước thẩm quyền chung thực hiện quản lý hành chnhs nhà nước đối với xã hội theo phân cấp. Để đảm bảo tính hiệu lực pháp lý của mình, các cơ quan hành chính thẩm quyền chung thực hiện hoạt động kiểm soát đối với các đối tượng. Hoạt động kiểm tra, thanh tra của các cơ quan quản lý thẩm quyền chung (Chính phủ, Ủy Ban nhân dân các cấp) mang tính hệ thống thứ bậc, chủ thể kiểm tra, thanh tra là cấp trên của đối tượng bị kiểm tra, thanh tra. Do tính trực thuộc của đối tượng kiểm soát vào chủ thể kiểm soát, mà hoạt động kiểm tra của chính phủ, Ủy ban nhân dân có tính quyền lực cao thể hiện ở: Có quyền ra quyết định hành chính bắt buộc đối tượng kiểm tra phải thi hành; có quyền đình chỉ, bãi bỏ các quyết định trái với pháp luật, hoặc sai trái của đối tượng bị kiểm tra, khi cần có thể áp dụng các biện pháp kỷ luật đối với những người có chức vụ hoặc đối với cơ quan, tổ chức, đơn vị trực thuộc. 2.Kiểm tra thanh tra của cơ quan nhà nước thẩm quyền riêng. Các cơ quan hành chính thẩm quyền riêng (hay thẩm quyền chuyên môn) thực hiện chức năng quản lý hành chính nhà nước đối với ngành, lĩnh vực theo sự phân công. Dó đó, để đảm bảo hoạt động quản lý đối với ngành, lĩnh vực có hiệu lực, đúng pháp luật, mỗi một ngành hoặc lĩnh vực có chức năng kiểm tra và thanh tra chuyên ngành của mình. Kiểm tra chức năng: Là hoạt động kiểm tra do các cơ quan quản lý ngành, lĩnh vực thực hiện đối với các cơ quan, tổ chức, đơn vị không trực thuộc mình về mặt tổchức trong việc chấp hành pháp luật, đường lối, chính sách và các quy tắc quản lý về ngành, lĩnh vực mình quản lý thống nhất trên cả nước. Khi tiến hành kiểm tra theo chức năng, các cơ quan kiểm tra có quyền yêu cầu các cơ quan bị kiểm tra cùng cấp đình chỉ, sửa đổi bãi bỏ những quy định trái pháp luật của cơ quan đó, nhưng không có quyền tự mình đình chỉ, sửa đổi hặc bãi bỏ những quyết định đó, cũng không có quyền áp dụng các chế tài kỹ luật, phạt hành chính, trừ trường hợp cơ quan kiểm tra chức năng là cơ quan thanh tra nhà nước chuyên ngành. 3. Thanh tra đối với hành chính nhà nước. Hoạt động thanh tra là hoạt động chuyên trách bảo đảm pháp chế và kỷ luật trong quản lý nhà nước phải tiến hành dựa trên các nguyên tắc: Pháp chế xã hội chủ nghĩa, chính xác, khách quan, công khai, dân chủ và kịp thời. Hoạt động thnh tra nhằm mục đích cơ bản sau: - Phòng ngừa, phát hiện và xử lý các hành vi vi phạm pháp luật; - Phát hiện những sơ hở trong cơ chế quản lý, chính sách, pháp luật để kiến nghị với cơ quan nhà nước có thẩm quyền các biện pháp khắc phục. - Phát huy nhân tố tích cực; góp phần nâng cao hiệu lực, hiệu quả của hoạt động quản lý nhà nước; - Bảo vệ lợi ích của nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân. Thanh tra hành chính nhà nước gồm có thanh tra nhà nước và thanh tra nhân dân. - Thanh tra nhà nước là việc xem xét, đánh giá, xử lý của cơ quan quản lý nhà nước đối với việ thực hiện chính sách, pháp luật nhiệm vụ của cơ quan tổ chức, cá nhân chịu sự quản lý theo thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của pháp luật. Thanh tra nhà nước bao gồm, thanh tra hành chính và thanh tra chuyên ngành. + Thanh tra hành chính là hoạt động thanh tra của cơ quan quản lý nhà nước theo cấp hành chính đối với việc thực hiện chính sách, pháp luật, nhiệm vụ của cơ quan, tổ chức, cá nhân thuộc quyền quản lý trực tiếp. + Thanh tra chuyên ngành là hoạt động thanh tra của cơ quan quản lý nhà nước theo ngành, lĩnh vực đối với cơ quan, tổ chức, cá nhân trong việc chấp hành pháp luật, những quy định về chuyên môn - kỹ thuật, quy tắc quản lý ngành, lĩnh vực thuộc thẩm quyền quản lý. Cơ quan thanh tra nhà nước gồm cơ quan thanh tra được thành lập theo cấp hành chính (thanh tra chính phủ, thanh tra tỉnh, thanh tra huyện) và cơ quan thanh tra được thành lập ở cơ qaun quản lý theo ngành, lĩnh vực. - Thanh tra nhân dân là hình thức kiểm soát của nhân dân thông qua ban thanh tra nhân dân đối với việc thực hiện chính sách, pháp luật, việc giải quyết khiếu nại, tố cáo, việc thựuc hiện quy ché dân chủ ở cơ sở của cơ quan, tổchức, cá nhân có trách nhiệm ở xã, phường, thị trấn, cơ quan nhà nước, đơn vị sự nghiệp, doanh nghiệp nhà nước. 4. Kiểm tra nội bộ cơ quan hành chính nhà nước. Kiểm tra nội bộ chỉ hoạt động kiểm tra trong nội bộ ngành, một cơ quan, tổ chức do người đứng đầu ngành, cơ quan, tổ chức tiến hành. Phạm vi kiểm tra báo quát mọi hoạt động, mọi vấn đề thuộc chức năng, nhiệm vụ của cơ quan, đơn vị, nhân viên cấp dưới. Thủ trưởng cơ quan có thể trực tiếp kiểm tra, hoặc lập ra tổ chức giúp thủ trưởng kiểm tra. Khi tiến hành kiểm tra, thủ trưởng cơ qaun có quyền áp dụng các biện pháp thuộc quyền hạn của thủ trưởng như: Khen thưởng, kỷ luật, đình chỉ, sửa đổi hoặc bãi bỏ các quyết định sai trái của cấp dưới; kể cả những biện pháp kiểm kê, kê biên, niêm phong tài sản, tài liệu… Trong kiểm soát nội bộ, thủ trưởng có thể sử dụng các phương tiện như: phê duyệt kế hoạch, chương trình, dự án; kiểm soát nhân sự; các thủ tục tài chính và báo cáo; thanh tra.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docPhao Hành chính công Cao học.doc