Phân tích tình hình sử dụng vốn ODA trong phát triển cơ sở hạ tầng kỹ thuật ở Hà Nội

Kết cấu của bài khóa luận Ngoài lời mở đầu, lời kết và danh mục tài liệu tham khảo, bài khoá luận gồm 3 chương: Chương I: Vài nét về nguồn hỗ trợ phát triển chính thức và vai trò của nguồn vốn này đối với đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng Chương II: Thực trạng sử dụng vốn ODA cho phát triển cơ sở hạ tầng kỹ thuật thành phố Hà Nội Chương III: Một số giải pháp nhằm thu hút và sử dụng có hiệu quả vốn ODA cho phát triển cơ sở hạ tầng kỹ thuật thành phố Hà Nội

pdf97 trang | Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 2256 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Phân tích tình hình sử dụng vốn ODA trong phát triển cơ sở hạ tầng kỹ thuật ở Hà Nội, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ư vào kết cấu hạ tầng kỹ thuật Hà Nội đã tạo ra những bước chuyển biến căn bản trong các lĩnh vực: giao thông, cấp thoát nước, vệ sinh môi trường, phát triển khu đô thị... Đây là những điều kiện tiên quyết thúc đẩy sản xuất công nghiệp-du lịch-dịch vụ phát triển, thu 68 hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài FDI, đồng thời tạo tiền đề thu hút và sử dụng có hiệu quả các nguồn vốn khác. 2.5.2 Những tồn tại và khó khăn  Tồn tại Trong quá trình thu hút và sử dụng vốn ODA đầu tư cho kết cấu hạ tầng kỹ thuật Hà Nội xuất hiện một số tồn tại được thể hiện dưới hai cấp độ: Vĩ mô và Vi mô. ở cấp vĩ mô - Các cấp, các ngành chưa có sự chuyển biến trong nhận thức, chưa thấy được bản chất của ODA phần lớn là các "khoản vay" không phải cho không để quản lý, sử dụng có hiệu quả. - Do mới hoà nhập vào cộng đồng quốc tế, nên các cơ quan quản lý còn chưa quen với quy trình, thủ tục của các nhà tài trợ, trong khi sự phối hợp với các nhà tài trợ cùng thực hiện dự án còn ở mức độ sơ khai. Điều này dẫn đến hiệu quả công tác quản lý chưa cao. - Những chi phí giao dịch: chi phí phát sinh từ quá trình chuẩn bị, đàm phán và theo dõi các hiệp định về cung cấp ODA. Những chi phí này quá cao gây ảnh hưởng đến lượng kinh phí viện trợ được cung cấp và các khoản cam kết viện trợ mới, giảm hiệu quả của viện trợ do sử dụng không phù hợp và chi tiêu vượt mức cho phép, cũng như do hoạt động viện trợ không đáp ứng được các ưu tiên phát triển. - Việc huy động vốn đối ứng cho các chương trình, dự án ODA là hết sức khó khăn. Vốn ODA cam kết đầu tư vào lĩnh vực hạ tầng kỹ thuật thành phố Hà Nội là rất lớn. Tuy nhiên tỷ lệ giải ngân là rất thấp một phần do khả năng không huy động được vốn đối ứng của các bộ, ngành đóng trên địa bàn thành phố Hà Nội. - Việc tổ chức, đặc biệt là bố trí nhân sự cho ban chuẩn bị chương trình, dự án còn thiếu và yếu kém. Các ban quản lý chương trình, dự án khó tuyển dụng được cán bộ quản lý có năng lực phù hợp, đặc biệt vì họ không thể cạnh 69 tranh với các điều kiện việc làm của các cơ sở tuyển dụng lao động có tiềm năng khác, chủ yếu là tư nhân. - Nhiều khâu, nhiều lĩnh vực chưa có sự phối hợp giữa các bộ, ban, ngành gây chậm trễ cho quá trình thực hiện dự án. - Chưa hình thành một hệ thống thông tin mạng, kết nối các cơ quan quản lý ODA của thành phố với chính phủ, các ngân hàng, các bộ để có sự trao đổi thông tin đa chiều, đầy đủ về mọi khía cạnh của dự án, nhằm nâng cao hiệu quả quản lý các dự án ODA. - Việc theo dõi, đánh giá dự án chưa được tổ chức có hệ thống. Các ban quản lý dự án chưa có những ràng buộc về trách nhiệm khi thực hiện báo cáo, nên việc báo cáo thường không đầy đủ và chậm, dẫn đến các cơ quan quản lý ODA rất khó khăn trong việc tổng hợp, phân tích, lập báo cáo tổng quan về tình hình thực hiện các dự án ODA, phát hiện các vướng mắc khó khăn để kịp thời giải quyết. - Chưa hình thành khung cơ chế tài chính trong nước đối với các dự án ODA hạ tầng kỹ thuật, nhất là các dự án cho vay lại. Điều này gây khó khăn cho việc tính toán các hiệu quả tài chính của dự án, là cơ sở để lựa chọn phương án đầu tư, thẩm định và vay vốn. ở tầm vi mô Những tồn tại ở tầm vi mô được thể hiện ở các giai đoạn của quá trình đầu tư, thực hiện đầu tư và quản lý, khai thác công trình. - Chuẩn bị đầu tư + Khâu chuẩn bị đầu tư, đặc biệt là khâu hình thành dự án ban đầu, còn nhiều yếu kém, nhiều dự án nghiên cứu khả thi phải làm đi làm lại nhiều lần gây lãng phí nguồn lực và thời gian, làm chậm tiến độ thực hiện dự án (VD: dự án cấp nước Gia Lâm, dự án Bắc Thăng Long-Vân Trì...) + Thời gian chuẩn bị dự án trước khi ký kết các điều ước quốc tế về ODA cũng như sau khi ký kết kéo dài (1-2 năm, cá biệt 5 năm) làm chậm tiến độ dự án. 70 + Thủ tục xem xét, trình duyệt dự án tuy đã được đơn giản hóa, nhưng nhiều khâu, nhiều cấp vẫn còn bất hợp lý. - Thực hiện đầu tư + Công tác tổ chức đấu thầu (lựa chọn nhà thầu tư vấn, nhà thầu cung cấp thiết bị, nhà thầu xây lắp...) còn bộc lộ nhiều thiếu sót. Việc phân chia gói thầu còn bất hợp lý, khâu đánh giá , lựa chọn nhà thầu còn thể hiện sự thiếu minh bạch. + Trong quá trình thực hiện dạ án xuất hiện nhiều thay đổi, đòi hỏi phái thay đổi một số nội dung của dự án. Những cân nhắc thay đổi thường làm kéo dài dự án (dự án thoát nước Hà Nội, dự án phát triển kết cấu hạ tầng giao thông đô thị giai đoạn 1...). + Một số dự án không bố trí đủ vốn đối ứng (năm 2001 chỉ huy động vốn trong nước được 605 so với kế hoạch), gây khó khăn cho quá trình triển khai dự án. + Trong quá trình thi công, khâu giải phóng mặt bằng còn chậm và nảy sinh nhiều khó khăn, đặc biệt với các công trình giao thông, Nhà nước chưa xây dựng được một khung giá đền bù thống nhất và thoả đáng. Mặt khác, việc xây dựng các khu chung cư phục vụ cho công tác di dân, giải phóng mặt bằng còn nhiều phức tạp. + Trình độ cán bộ quản lý còn kém, việc giảm sát lỏng lẻo dẫn đến tiến độ và chất lượng thi công không đảm bảo. + Việc triển khai thực hiện các dự án còn chậm trễ kéo theo tình trạng giải ngân còn diễn ra chậm, không đúng với lịch trình cam kết với phía nước ngoài (giai đoạn chuẩn bị đầu tư dự án thoát nước Hà Nội giai đoạn 1, dự án phát triển hạ tầng khu đô thị Bắc Thăng Long-Vân Trì...) Hậu quả là: * Những điều kiện ưu đãi bị giảm đi tương đối: do thời gian ân hạn giảm, thời gian có hiệu lực của vốn vay giảm. * Làm giảm lòng tin của các nhà tài trợ vào khả năng tiếp nhận vốn ODA của thành phố nói chung và cả nước nói riêng. 71 * Tỷ lệ giải ngân thấp, thời gian đầu tư kéo dài, làm giảm hiệu quả của vốn đầu tư, tính thời cơ của dự án, ảnh hưởng đến tăng trưởng và phát triển kinh tế. Bên cạnh đó, tiến độ đầu tư chậm lại, các công trình không được huy động đúng theo kế hoạch, gây ảnh hưởng dây chuyền đến sự phát triển của các ngành, lĩnh vực khác và ảnh hưởng đến khả năng huy động vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài, cũng như các nguồn vốn trong nước, vốn tín dụng khác. - Quản lý, vận hành, khai thác + Công tác quản lý hậu dự án (khi công trình, dự án đã hoàn thành đi vào khai thác, sử dụng), chưa được quan tâm đúng mức, nhất là đối với các cơ quan quản lý cấp trên, dẫn đến nhiều tình huống trở ngại, phát sinhh không được xử lý kịp thời (VD: do buông lỏng quản lý nhiều đoạn đường giao thông vừa xây dựng xong đã bị đào xới, xuống cấp nghiêm trọng). + Công tác duy tu, bảo dưỡng thường xuyên, định kỳ công trình chưa được chú trọng. + Việc đánh giá sau dự án được tiến hành khi dự án đã hoàn thành sau một thời gian nhằm xác định mức độ ảnh hưởng lâu dài của các kết quả dự án đến đời sống kinh tế xã hội chưa được quan tâm chú trọng. Những tồn tại khó khăn trên xuất hiện từ thực tiễn quản lý và sử dụng vốn ODA, trong thời gian tới các cấp, các ngành có liên quan cần tập trung xem xét có hướng tháo gỡ, giải quyết để nguồn vốn ODA phát huy hiệu quả tối đa, góp phần thúc đẩy tăng trưởng và phát triển kinh tế xã hội thủ đô trên con đường công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.  Khó khăn - Trong quá trình thu hút, sử dụng vốn ODA cho xây dựng kết cấu hạ tầng kỹ thuật thành phố Hà Nội xuất hiện nhiều khó khăn có khả năng ảnh hưởng đến việc thu hút các nguồn vốn vay và tài trợ quốc tế ở hiện tại cũng như trong tương lai. - Trước tiên, bối cảnh quốc tế hiện nay không có lợi cho việc thu hút vốn ODA. Cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ các nước Đông Nam á hồi đầu 72 năm 1997, và ảnh hưởng tác động suy thoái của nền kinh tế thế giới làm chậm lại dòng di chuyển vốn quốc tế trong đó có ODA. Theo đánh giá cua tổ chức hợp tác phát triển kinh tế OECF công bố năm 1997, thì khoản hỗ trợ chính thức của các nước phát triển trên thế giới chỉ đạt 55 tỷ USD, giảm 6% so với năm 1996. Nếu so với tổng sản phẩm quốc dân (GNP), thì cung cấp ODA chỉ đạt 0,25% GNP, đây là mức thấp nhất so với mục tiêu mà Đại hội đồng Liên hợp quốc đặt ra là 0,7% GNP của các nước phát triển. Do vậy, cung cấp các nguồn vốn vay và tài trợ cho Việt Nam nói chung và Hà Nội nói riêng có xu hướng giảm sút. Các nhà tài trợ lớn Mỹ, Nhật Bản, nền kinh tế đang lâm vào khủng hoảng, suy thoái. Vì vậy, trong kế hoạch ngân sách, các khoản chi tiêu công cộng bị cắt giảm. Trong nhiều trường hợp, bình quân ngân sách viện trợ còn bị cắt giảm nhiều hơn so với ngân sách chi tiêu công cộng. Điều đó một phần xuất phát từ thực tế là ưu tiên về mặt chính trị đối với việc xây dựng ngân sách viện trợ. Một số thành viên của Liên minh Châu Âu EU phải tập trung ngân sách để đạt các chỉ số gia nhập khối đồng tiền chung Châu Âu, nên đã giảm nguồn ODA thông qua thu hẹp danh sách các nước nhận viện trợ. Trong hai tài khóa liền, Pháp và Đức giảm nguồn cung cấp viện trợ cho Việt Nam. Các tổ chức thuộc hệ thống Liên hợp quốc cũng gặp khó khăn về mặt tài chính, do một số nước giàu (Mỹ, Anh...) nợ hoặc giảm mức đóng góp, dẫn đến ngân sách dành cho viện trợ giảm xuống. Nguồn cung cấp viện trợ giảm xuống, trong khi nhu cầu và sự cạnh tranh quốc tế trong việc thu hút vốn ODA ngày càng diễn ra gay gắt. Để có thể thu hút tối đa vốn ODA, các nước nghèo ở Châu Phi, Nam á, Đông Nam á... đã xây dựng cơ chế, thủ tục thu hút vốn ODA rất gọn nhẹ và có chiến lược kêu gọi, vận động ODA rất rõ ràng (VD: một số nước như Indonesia không đánh thuế vào hàng hóa nhập khẩu của các dự án sử dụng vốn ODA...) 73 - Điều kiện cung cấp ODA có khuynh hướng giảm bớt tính ưu đãi: như tăng lãi suất, rút ngắn thời gian trả nợ, giảm viện trợ không hoàn lại, tăng phần, tỷ lệ cho vay... 2.5.3 Đánh giá hiệu quả chung của các dự án ODA cơ sở hạ tầng kỹ thuật thành phố Hà Nội Xét về tổng quan, các dự án ODA đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng kỹ thuật Hà Nội trong thời gian là có hiệu quả, thể hiện trên các khía cạnh sau: - Các công trình hoàn thành đảm bảo chất lượng, có ý nghĩa kịp thời đáp ứng các mục tiêu, chiến lược phát triển kinh tế-xã hội của thành phố (dự án cấp nước Hà Nội giai đoạn 4, dự án phát triển hạ tầng giao thông đô thị giai đoạn 1, dự án thoát nước Hà Nội giai đoạn 1...). - Tăng công ăn việc làm, giảm tỷ lệ thất nghiệp: các dự án ODA kết cấu hạ tầng đã thu hút một lượng lớn cán bộ kỹ thuật, công nhân lành nghề, lao động thủ công, góp phần tăng thu nhập, cải thiện cuộc sống của nhân dân thủ đô. - Các dự án đầu tư kết cấu hạ tầng kỹ thuật đã từng bước nâng cao điều kiện sống cho nhân dân, tăng phúc lợi công cộng và cải thiện các điều kiện về môi trường. - Thúc đẩy tăng trưởng kinh tế thành phố thông qua đầu tư phát triển các công trình thuộc lũnh vực kết cấu hạ tầng (tốc độ tăng trưởng GDP của Hà Nội năm 2001 đạt 14,2%; tăng 0,6% so với năm trước). Trong thời gian qua, phát triển kết cấu hạ tầng đã tạo tiền đề thúc đẩy sản xuất công nghiệp-du lịch-dịch vụ phát triển (tốc độ tăng giá trị sản xuất công nghiệp năm 2001 đạt 14%). Tuy nhiên, không thể phủ nhận một bộ phận nhỏ những dự án vốn ODA chưa được sử dụng có hiệu quả, chất lượng công trình chưa đảm bảo yêu cầu, nó chỉ là những “điểm tối” mà chính quyền thành phố Hà Nội cần khắc phục trong thời gian tới. 74 75 chương 3- Một số giải pháp nhằm thu hút và sử dụng có hiệu quả vốn ODA cho phát triển cơ sở hạ tầng kỹ thuật thành phố Hà Nội 3.1 Mục tiêu phát triển cơ sở hạ tầng kỹ thuật thành phố Hà Nội đến năm 2020 3.1.1 Mục tiêu Trong tiến trình hội nhập, phát triển với thủ đô các nước trong khu vực và trên thế giới, Hà Nội đã đặt ra những mục tiêu cụ thể trước mắt cũng như lâu dài. Đường lối nhất quán chung là đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, kết hợp giữa phát triển kinh tế và đẩy mạnh an ninh quốc phòng, xây dựng Hà Nội trở thành trung tâm kinh tế, văn hóa, chính trị của cả nước. Trong tương lai hướng phát triển của Hà Nội sẽ mở rộng ra các khu vực phụ cận xây dựng các khu công nghiệp, thành phố vệ tinh xung quanh thuộc các Tỉnh Hà Tây, Vĩnh Phúc, Bắc Ninh và Hưng Yên. Để phục vụ cho mục tiêu đó những định hướng phát triển cơ bản của thành phố Hà Nội trong thời gian tới: - Nâng cấp mạng lưới đường nội đo, xây dựng, mở rộng hệ thống đường vành đai. Hình thành các trục lộ kết nối Hà Nội với các tỉnh, đô thị, khu công nghiệp xung quanh. Xây dựng vùng trọng điểm khu vực kinh tế phía Bắc. - Phát triển các khu đô thị mới ở các khu vực phụ cận nhằm đáp ứng nhu cầu nhà ở đang tăng nhanh trong thời gian tới và giải phóng quỹ đất cho việc thực hiện các quy hoạch tổng thể về giao thông, cấp, thoát nước. - Xây dựng các trung tâm phát triển mới phục vụ cho quá trình đô thị hóa mở rộng. - Phát triển hệ thống vận tải công cộng (tuyến xe buýt, đường sắt...) trong nội thành cũng như các tuyến liên tỉnh đáp ứng nhu cầu vận tải hành khách, hàng hóa tăng nhanh trong thời gian tới, giảm dần tỷ lệ phương tiện giao thông cá nhân. 76 - Xây dựng, hoàn thiện mạng lưới cấp, thoát nước khu vực nội thành, các khu đô thị mới, khu công nghiệp..., phát triển mạng lưới cấp nước sạch ở các xóm, xã nghèo, vùng sâu, vùng xa thuộc các huyện ngoại thành. - Bảo vệ môi trường đô thị thông qua các dự án hỗ trợ kỹ thuật, dự án thu gom, xử lý chất thải sinh hoạt, chất thải rắn, chất thải y tế, chất thải độc hại, hình thành các khu xử lý nước thải... - Hướng phát triển trước mắt của Hà Nội, mở rộng thành phố Hà Nội trung tâm về phía Tây Bắc, Tây Nam, và phía Bắc. Trong đó, ưu tiên cho đầu tư phát triển khu vực phía Bắc Sông Hồng. Hình thành nên một Hà Nội mới gồm các khu vực Bắc Thăng Long-Vân Trì, Đông Anh-Cổ Loa, Gia Lâm-Sài Đồng-Yên Viên, đồng thời tiếp tục các dự án phát triển kết cấu hạ tầng kỹ thuật Nam Thăng Long. - Về lâu dài, Hà Nội phát triển theo hướng Tây, hình thành chuỗi đô thị Miếu Môn-Xuân Mai-Hoà Lạc-Sơn Tây. Phía Bắc là các cụm đô thị Sóc Sơn-Xuân Hoà-Đại Lải-Phúc Yên và các đô thị khác. 3.1.2 Phương hướng đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng kỹ thuật thành phố Hà Nội đến năm 2020. Để đạt được những mục tiêu trên, Hà Nội phải huy động một khối lượng lớn đầu tư cho kết cấu hạ tầng kỹ thuật. Một phần được huy động trong nước thông qua ngân sách chính phủ và đầu tư tư nhân. Phần còn lại được huy động từ bên ngoài thông qua đầu tư trực tiếp nước ngoài, vốn vay và viện trợ. Phương hướng phát triển kết cấu hạ tầng được cụ thể hoá cho từng lĩnh vực.  Giao thông Hướng phát triển cơ sở hạ tầng giao thông trong thời gian tới phải được ưu tiên phát triển đồng bộ với các công trình hạ tầng thuộc các lĩnh vực khác, nhằm xây dựng một tổng thể hoàn chỉnh, phục vụ yêu cầu phát triển kinh tế, xã hội của thủ đô, tránh tình trạng có sự "chồng chéo" lẫn nhau, phá đi làm lại, gây lãng phí của cải xã hội. 77 Song song với phát triển hệ thống hạ tầng giao thông động, phải phát triển cả hệ thống giao thông tĩnh. Phấn đấu mục tiêu lâu dài, Hà Nội đạt tỷ lệ đất hạ tầng giao thông chiếm 25% diện tích đất đô thị. Bên cạnh đó, để đáp ứng lưu lượng vận tải hành khách và hàng hóa tăng nhanh trong thời gian tới, Hà Nội phải lấy vận tải hành khách công cộng làm trung tâm. Bảo đảm tỷ lệ vận tải hành công cộng đến năm 2010 đạt 30%, đến năm 2020 đạt 50% số lượng hành khách. Hình thành mạng lưới xe buýt nội thành và các vùng phụ cận. Xây dựng bến xe dọc theo vành đai 2, vành đai 3... Về đường bộ, bên cạnh việc mở rộng cải tạo tuyến quốc lộ hướng vào thành phố: quốc lộ 1, quốc lộ 2, quốc lộ 3, quốc lộ 5, quốc lộ 6, quốc lộ 18 và quốc lộ 32. Hoàn thành việc xây dựng các tuyến đường vành đai số 1, số 2 và số 3, nghiên cứu chuẩn bị mở tuyến đường vành đai số 4. Với hệ thống đường nội đô, nâng cấp một số tuyến đường: nâng cấp phố Láng Trung, nâng cấp phố Hoàng Quốc Việt, nâng cấp phố Giang Văn Minh-Đội Cấn... Đồng thời, xây dựng một số tuyến đường: Xây dựng đường dạo Hồ Tây, xây dựng đoạn đường Thái Hà- Chùa Láng-Voi Phục... Cải tạo, phân làn đường đối với các nút giao thông huyết mạch: nút Ngã Tư Sở, Ngã Tư Vọng, nút Kim Liên-Ô Chợ Dừa, nút Cầu Giấy, nút đầu cầu Chương Dương, nút Ngã Tư Trung Hiễn, nút Ngã Tư Bưởi... ở các khu đô thị mới, xây dựng hoàn chỉnh mạng lưới kết hợp đồng bộ với cơ sở hạ tầng kỹ thuật khác, đáp ứng yêu cầu mọi mặt của quá trình đô thị hoá. Xây dựng các điểm, bãi đỗ xe trong thành phố kết hợp với xây dựng các bãi đỗ xe liên tỉnh: Gia Lâm, Giáp Bát, Cầu Giấy, Hà Đông... Thực hiện duy tu bảo dưỡng với các cây cầu hiện có: cầu Thăng Long, cầu Chương Dương, xây dựng lại cầu Long Biên, xây dựng một số cầu mới bắc qua Sông Hồng như là một phần trong quy hoạch tổng thể phát triển đô thị sang bờ Bắc Sông Hồng. 78 Về đường sắt, tiếp tục nâng cấp, hoàn thiện hệ thống đường sắt bao gồm: Ga Long Biên, Giáp Bát, Vân Trì, Cổ Loa, Ga Gia Lâm, Phú Diễn, Hà Đông... ưu tiên xây dựng hệ thống đường sắt đô thị hợp thành mạng lưới vận tải hành khách công cộng của thủ đô, bao gồm cả tuyến đi trên cao và tuyến ngầm. Các tuyến đường sắt được xây dựng trong tương lai có chú trọng đến các đầu mối trung chuyển hành khách và hàng hóa có khối lượng lớn và hiện đại (Ga Hàng Cỏ, Sân bay Nội Bài) bao gồm: Tuyến Văn Điển-Hàng Cỏ-Gia Lâm-Yên Viên, tuyến Hàng Cỏ-Cát Linh-Kim Mã-Thủ Lệ-Nghĩa Đô-Phú Diễn-Minh Khai, tuyến Hà Đông-Ngã Tư Sở-Hàng Cỏ, tuyến Giáp Bát-Vành đai 3, tuyến cầu Thăng Long-Nội Bài và tuyến Kim Mã-Láng-Hòa Lạc... Về đường hàng không, nâng cấp, hiện đại hóa cụm cảng hàng không Nội Bài trở thành một trong những sân bay lớn trong khu vực, đáp ứng mục tiêu đón trên 2 triệu lượt khách/năm trong thời gian tới. Các sân bay Gia Lâm, Bạch Mai, Hòa Lạc cũng được nâng cấp, hoàn thiện phục vụ vận chuyển hàng không nội địa. Trong tương lai, sẽ xây dựng thêm sân bay quốc tế tại Miếu Môn.  Cấp nước Từ nay đến 2020, Hà Nội sẽ có khoảng 8 dự án cấp nước mới, trong đó 4 dự án hiện tại đang được thực hiện. Trong số đó, có dự án nâng cấp và xây dựng mới 5 nhà máy xử lý nước ở Gia Lâm, Cự Khôi, Thương Thanh, Châu Quỳ, Yên Viên với tổng công suất 200 triệu lít/ngày. Xây dựng 3 nhà máy cấp nước ở Đông Anh, Vân Trì, Bắc Thăng Long, công suất 165 triệu lít/ngày. Đồng thời, mở rộng 11 giếng nước của công ty kinh doanh nước sạch (thuộc UBND thành phố Hà Nội). Phát triển mạng lưới cấp nước ở phía Bắc Hà Nội: xây dựng mạng lưới giếng khoan mới và xây dựng mạng lưới phân bố 60 triệu lít/ngày. Tiếp tục triển khai, hoàn thành dự án 1A ở phía Bắc Hà Nội của Ngân hàng thế giới WB. Xây dựng các giếng khoan mới ở Cáo Đỉnh và Dư Thung khoảng 60 triệu lít/ngày, cải tạo mạng lưới phân bố nước. Nâng cấp hệ thống thu thuế sử dụng nước và quy hoạch của công ty cấp nước Hà Nội sẽ 79 tiếp tục mở rộng giếng nước đến năm 2005. Phát triển khu vực giếng nước mới ở phía Nam Hà Nội năm 2010. Xây dựng giếng khoan mới và xây dựng mạng lưới phân bố ở Hà Đông thêm 22 triệu lít/ngày. Các dự án trên nhằm phấn đấu đạt mục tiêu cấp nước sinh hoạt đến năm 2010 là 150-180 lít/người/ngày, với 90-95% dân số đo thị được cấp nước. Đến năm 2020 là 180-200 lít/người/ngày, với 95-100% dân số đô thị được cấp nước. Kết hợp giữa khai thác hợp lý nguồn nước ngầm với khai thác nguồn nước mặt từ Sông Hồng, Sông Công, Sông Cầu...  Thoát nước và vệ sinh môi trường Quy hoạch tổng thể hệ thống thoát nước của Hà Nội trong thời gian tới bao gồm 8 dự án (2 dự án đã triển khai). Đối với hệ thống thoát nước nội thành sẽ được cải tạo, nâng cấp và từng bước được xử lý trước khi xả vào hệ thống cống chung. Thực hiện xây dựng hệ thống thoát nước cho khu vực phía Bắc Hà Nội giai đoạn (1996-2001) lưu vực Sông Tô Lịch, dự án bao gồm: cống chính, kênh thoát nước, hồ điều hoà, cổng cống, các trạm bơm. Giai đoạn 2 của dự án (2002-2006) ở lưu vực Sông Nhuệ bao gồm: cống chính, kênh thoát nước, hồ điều hoà, cổng cống, các trạm bơm với nguồn tài chính của OECF. Đồng thời, triển khai xây dựng các dự án thoát nước ở các khu đô thị, khu công nghiệp mới. Xây dựng hệ thống thoát nước ở Gia Lâm và các vùng xung quanh, xây dựng hệ thống thoát nước ở phía Bắc Thăng Long, xây dựng hệ thống thoát nước ở các khu đô thị xung quanh dọc theo quốc lộ 21, xây dựng hệ thống thoát nước cho các thành phố vệ tinh dọc theo quốc lộ 18... Về vệ sinh môi trường trong thời gian, sẽ thiết lập hệ thống bảo vệ và giám sát môi trường, quản lý chất thải rắn, ô nhiễm không khí và nước thông qua dự án quản lý môi trường của thành phố Hà Nội. Phát triển hệ thống quản lý chất thải rắn: xây dựng và hoạt động 2 nhà máy chất thải bệnh viện và chất thải rắn. Đến năm 2020, bảo đảm 100% khối lượng chất thải rắn của thành phố được thu gom, vận chuyển, xử lý bằng công nghệ thích hợp. 80 Tổng số các dự án phát triển hạ tầng kỹ thuật thành phố Hà Nội đến năm 2020 gồm 108 dự án/tiểu dự án. Trong đó, 60% là các dự án cải tạo và xây dựng đường bộ giao thông. - Dự kiến mức vốn đầu tư đến năm 2010 khoảng 15 tỷ USD. - Giai đoạn 2010-2020 khoảng 10 tỷ USD. - Tổng số vốn huy động trong nước khoảng 47-50%. Phần vốn còn lại phải huy động từ bên ngoài thông qua đầu tư trực tiếp nước ngoài FDI và vốn hỗ trợ phát triển chính thức ODA. 3.2 Triển vọng thu hút vốn ODA cho phát triển cơ sở hạ tầng kỹ thuật thành phố Hà Nội trong những năm tới Trong những năm qua, Việt Nam được đánh giá là một trong những quốc gia có nền kinh tế, môi trường chính trị ổn định nhất trong khu vực Đông Nam á. Trong bối cảnh cuộc khủng hoảng kinh tế, chính trị đang bùng phát ở nhiều nơi trên thế giới, thì đây chính là nhân tố quan trọng củng cố niềm tin của cộng đồng các nhà tài trợ quốc tế. Mặt khác, Việt Nam có tỷ lệ tăng trưởng cao và liên tục khoảng 7,5-10%/năm. Công cuộc cải tổ nền kinh tế do chính phủ ta đang tiến hành được sự đánh giá cao của cộng đồng quốc tế. Môi trường thể chế, chính sách ngày càng được hoàn thiện, khu vực kinh tế tư nhân được lành mạnh hóa để tạo ra thu nhập, tỷ lệ tiết kiệm và nguồn thu từ thuế ngày càng tăng (tỷ lệ tiết kiệm tăng từ 18%-22% như hiện nay) là những nguồn động lực quan trọng gia tăng vốn ODA vào Việt Nam, và cho đầu tư kết cấu hạ tầng Hà Nội nói riêng. Mối quan hệ hợp tác giữa chính phủ Việt Na, UBND thành phố Hà Nội và cộng đồng các nhà tài trợ ngày càng được củng cố và phát triển. Mối quan hệ này được vun đắp thông qua các cuộc họp thường niên của nhóm tư vấn (CG), hội nghị hợp tác phát triển tiểu vùng Sông Mê Công và các cuộc họp trao cởi mở giữa hai hoặc nhiều bên. 81 Những bước cải thiện về khuôn khổ pháp lý đối với quản lý và sử dụng ODA đã tạo điều kiện cho các chương trình, dự án ODA triển khai có hiệu quả tạo sức hút mạnh mẽ đối với dòng vốn vay và tài trợ quốc tế. Mặt khác, các dự án ODA đầu tư cho phát triển kết cấu hạ tầng kỹ thuật Hà Nội trong thời gian qua phát huy hiệu quả tốt là một minh chứng thuyết phục nhất đối với các nhà tài trợ tiếp tục bỏ vốn cho các chương trình giai đoạn tiếp theo và mở rộng thêm quan hệ hợp tác phát triển. Nhìn chung, triển vọng thu hút và sử dụng vốn ODA đầu tư cho kết cấu hạ tầng Hà Nội là khả quan. Cơ hội biến triển vọng đó thành hiện thực dành cho chính quyền thành phố Hà Nội và các bộ, ban ngành có liên quan. 3.3 Một số giải pháp thu hút và sử dụng có hiệu quả nguồn vốn vay và tài trợ quốc tế cho phát triển cơ sở hạ tầng kỹ thuật thành phố Hà Nội 3.3.1 Giải pháp ở tầm vĩ mô  Nhóm giải pháp về môi trường luật pháp, thể chế, chính sách Một báo cáo gần đây của Ngân hàng thế giới đã xem xét việc đánh giá và đưa ra kết luận “Viện trợ phát triển chính thức chỉ có thể phát huy hiệu quả trong một môi trường chính sách phù hợp. Nếu được quản lý có hiệu quả thì mức viện trợ bằng 1% GNP sẽ góp phần giảm 1% tỷ lệ nghèo đói và 1% tỷ lệ tử vong ở trẻ sơ sinh. Viện trợ cho các nước có hệ thống quản lý tốt mang lại hiệu quả lớn gấp 3 lần viện trợ dàn trải”. Báo cáo cũng đề cập tới Việt Nam những năm 80 như là một ví dụ minh chứng rằng những khoản kinh phí tài trợ có thể không phát huy tác dụng trong một môi trường thể chế và chính sách méo mó. Mặc dù được Liên Xô viện trợ không dưới 10% GNP mỗi năm, song hoàn toàn không đạt được tiến bộ nào trong lĩnh vực xoá đói giảm nghèo và cải thiện các chỉ số xã hội. Như vậy, môi trường thể chế, chính sách là điều kiện cơ bản, tiên quyết đối với sự thành công của các chương trình dự án ODA nói chung và ODA hạ tầng kỹ thuật nói riêng. 82 - Cần đồng bộ hóa khung pháp lý của Việt Nam đối với việc thực hiện các dự án ODA, nghiên cứu và tiến hành sửa đổi một số nghị định liên quan đến quản lý và sử dụng ODA, tạo sự hài hòa giữa thủ tục của phía các nhà tài trợ và phía Việt Nam. Các nghị định hiện nay liên quan đến công tác huy động và thực hiện các dự án ODA bao gồm: Nghị định 87CP về quản lý và sử dụng vốn ODA, nghị định 52 CP về quản lý đầu tư và xây dựng, nghị định 88CP về đấu thầu, nghị định 22 CP về giải phóng mặt bằng... đã có những điểm cải thiện đáng kể về nhiều phương diện so với các nghị định cũ. Về cơ bản, các nghị định sửa đổi đã quy định rõ ràng hơn về quyền lợi, trách nhiệm của các ban, ngành có liên quan và cơ chế theo dõi đánh giá với các dự án ODA cũng được tăng cường. Tuy nhiên, trong các văn bản pháp quy đã ban hành, vẫn còn nhiều điểm chưa phù hợp với thông lệ quốc tế, chưa sát với thực tế, giữa các văn bản chưa có sự ăn khớp đồng bộ. + Riêng quy chế đấu thầu 88CP và quy chế quản lý đầu tư 52CP, Bộ KHĐT, các ban ngành quản lý dự án và các nhà tài trợ đều thừa nhận có sự thiếu nhất quán trong hai quy định này. Chẳng hạn như quy định mang tính nguyên tắc về hình thức lựa chọn nhà thầu chưa phù hợp với đặc thù của từng dự án, các nội dung về quản lý đấu thầu và chỉ định thầu còn nhiều điểm chưa thống nhất, khiến việc thực hiện dự án gặp phải những vướng mắc không đáng có. Những quy định về năng lực nhà thầu chưa sát với thực tế, gây khó khăn cho các nhà thầu trong nước khi tham gia đấu thầu. + Về vấn đề đồng bộ khung pháp lý liên quan đến nguồn vốn ODA phải kể đến nghị định 22 về đền bù giải phóng mặt bằng. Đây là văn bản có 7 nội dung cần được sửa đổi cho phù hợp với thực tế. Công tác đền bù chưa được cụ thể, chưa thống nhất với các văn bản về thu tiền, sử dụng đất dẫn đến có cách hiểu khác nhau giữa các dự án. Thêm vào đó, công tác quản lý đất ở địa phương chưa đồng bộ, khiến chính quyền địa phương lúng túng trong việc lập 83 phương án đền bù, gây khó khăn và chậm trễ trong việc triển khai công tác giải phóng mặt bằng của dự án. Việc sửa đổi khung pháp lý cần có sự phối hợp với ban quản lý dự án tại các tỉnh, địa phương có dự án khi đưa ra vướng mắc khó khăn để tập trung điều chỉnh. - Về chính sách thuế hiện nay, chỉ trừ những dự án ODA ở dạng viện trợ không hoàn lại mới được miễn thuế hàng hóa (bao gồm cả thuế nhập khẩu và thuế giá trị gia tăng VAT), còn các dự án ODA vay lại từ chính phủ thì tiền thuế cho hàng hóa từ dự án đều được giải ngân từ vốn đối ứng, lấy từ ngân sách nhà nước. Do đó, việc đánh thuế hàng hóa dự án thực chất là lấy từ “túi này” bỏ sang “túi kia” của nhà nước, trong điều kiện huy động vốn đối ứng trong nước còn rất khó khăn thì điều này là một nghịch lý. Bộ tài chính cho rằng, việc đánh thuế là một nguyên tắc của nền kinh tế hoàn hảo vì thế chưa thể xếp ODA là một trường hợp ngoại lệ. Do đó, giải phảp trước mắt là áp dụng hình thức ghi thu-ghi chi trong việc đánh thuế hàng hóa nhập khẩu phục vụ cho các dự án sử dụng vốn ODA, tiến tới đề nghị Bộ tài chính đồng ý miễn thuế nhập khẩu, VAT đối với hàng hóa nhập khẩu của dự án. - Nhiều nhà tài trợ cho rằng cần phải đảm bảo tính linh hoạt để tiến tới thực hiện phương thức hỗ trợ theo chương trình. Nghị định mới sửa đổi (nghị định 22CP, 52CP, 87CP, 88CP, 90CP...) không hoàn toàn phù hợp với đường lối chung mà các đối tác nước ngoài của Việt Nam đang theo đuổi. Nhiều đối tác nước ngoài muốn chuyển hướng từ các dự án đơn lẻ như vẫn thường thực hiện từ trước đến nay sang hỗ trợ chính phủ một cách toàn diện và theo phương thức chương trình nhiều hơn. Việc tài trợ theo từng dự án đơn lẻ dẫn đến cùng một lĩnh vực, một địa bàn lãnh thổ có nhiều nhà tài trợ cùng hoạt động, gây ra tình trạng trùng lắp, lãnh phí nguồn lực. Vì vậy, về nguyên tắc chính phủ nên phê duyệt tất cả các giai đoạn của một chương trình lớn, song quyền hạn phê duyệt các hợp phần của chương trình được trao cho cấp dưới. Điều đó sẽ hạn chế tình trạng xây dựng quá nhiều chương trình và giảm nhẹ về năng lực tiếp nhận viện trợ đối với các cơ quan thụ hưởng. 84 - Bên cạnh đó, cần hoàn thiện quy định, về phân cấp, giảm bớt các thủ tục, các khâu, các cấp trong quá trình triển khai thực hiện dự án. Nhiều nhà tài trợ cho rằng, không nên tổ chức thực hiện quá nhiều cấp như hiện nay: Ban quản lý dự án trung ương, ban quản lý dự án địa phương, đơn vị thực hiện dự án. Theo họ, trong những trường hợp có thể nên giao trực tiếp dự án để thành phố trực tiếp thực hiện, cơ quan quản lý ngành hỗ trợ kỹ thuật. - Cần xây dựng chiến lược thu hút vốn ODA ngắn hạn, trung hạn và dài hạn. + Việc xây dựng chiến lược thu hút vốn ODA là cơ sở cho công tác kêu gọi, vận động sự tài trợ của cộng đồng quốc tế phục vụ cho mục tiêu phát triển kinh tế, xã hội của thủ đô trước mắt cũng như lâu dài. + Chiến lược đưa ra phải rõ ràng, thống nhất. Trong chiến lược phải hình thành một danh mục các dự án phát triển cho từng ngành, từng lĩnh vực cụ thể, là cơ sở để tổ chức các hội nghị trong nước và quốc tế, quảng bá, giới thiệu, kêu gọi tài trợ vốn. + Chiến lược huy động vốn ODA phải được xây dựng dựa trên chiến lược phát triển kinh tế xã hội của thủ đô. Có cân nhắc đến ưu thế của từng nhà tài trợ (về năng lực tài chính, năng lực kỹ thuật, các điều kiện thủ tục ràng buộc...), nhằm xây dựng chiến lược vận động vốn ODA cho phù hợp với từng đối tác tài trợ. + Việc hình thành chiến lược huy động vốn ODA nhằm tạo ra một kế hoạch thống nhất từ trung ương đến địa phương, thống nhất trong từng ngành, lĩnh vực, trong phối hợp vận động, thu hút vốn ODA, trành hiện tượng trùng lắp gây lãng phí nguồn lực.  Thực hiện tốt công tác kế hoạch hóa vốn đầu tư Kế hoạch hóa vốn đầu tư vừa là một nội dung, vừa là công cụ để quản lý hoạt động đầu tư vốn ODA hạ tầng kỹ thuật trên địa bàn thành phố Hà Nội. - Kế hoạch hóa vốn đầu tư phải được xây dựng trên mục tiêu, phương 85 hướng phát triển kinh tế xã hội của thành phố Hà Nội. Khi xây dựng chương trình, dự án ODA cần xác định đầy đủ các tính chất ưu tiên của nhu cầu. - Khi chuẩn bị thực hiện ký kết các điều ước ODA cần xác định rõ vốn đối ứng về quy mô, nguồn đóng góp, hình thức đóng góp. - Khi đã ký kết phải xây dựng kế hoạch bố trí nguồn lực cho triển khai thực hiện dự án đúng theo thời hạn, chất lượng, tiến độ ghi trong hợp đồng bao gồm: kế hoạch chuẩn bị đầu tư, kế hoạch chuẩn bị thực hiện dự án, kế hoạch đấu thầu, kế hoạch thực hiện dự án... - Kế hoạch đầu tư phải được xây dựng dựa trên khả năng huy động vốn ODA và vốn đối ứng vững chắc, đảm bảo kế hoạch có tính hiện thực đồng thời huy động vốn và sử dụng có hiệu quả nguồn vốn. - Phải phối hợp giữa kế hoạch năm và kế hoạch dài hạn trong đó kế hoạch năm là sự cụ thể hóa của kế hoạch dài hạn. Xây dựng kế hoạch thực hiện chương trình dự án trên cơ sở cân đối các nguồn lực, nhằm đảm bảo các cam kết đối với các nhà tài trợ và sử dụng có hiệu quả nguồn vốn vay phục vụ các mục tiêu tăng trưởng và phát triển của thành phố. - Xây dựng kế hoạch năm của từng chương trình, dự án bao gồm kế hoạch rút vốn (cả vốn trong nước và vốn nước ngoài) đối với từng hạng mục công trình của dự án theo các nội dung sau: + Phải căn cứ vào các điều ước quốc tế về ODA đối với các chương trình, dự án, trong đó quy định mức đóng góp, trách nhiệm của các bên cũng như nội dung, tiến độ thi công từng công trình, hạng mục công trình của dự án. + Phải dựa trên các chủ trương, chính sách của các cơ quan có thẩm quyền liên quan đến việc lập kế hoạch đối với chương trình, dự án, và các biện pháp chỉ đạo thúc đẩy thực hiện chương trình, dự án đảm bảo đúng cam kết. + Việc lập kế hoạch phải đảm bảo tính khoa học, độ tin cậy và tính tối ưu. Căn cứ vào thực tiễn triển khai chương trình, dự án, và dự báo các tác động khách quan ảnh hưởng đến tiến độ bao gồm: khả năng huy động đủ nhân lực, 86 các tài sản vật chất khác (tiền vốn, vật tư, máy móc...), thời gian tối thiểu cho các hoạt động xét thầu, trình duyệt, giải phóng mặt bằng... - Điều kiện để các chương trình dự án được đưa vào kế hoạch đầu tư hàng năm: + Chỉ đưa vào kế hoạch đầu tư hàng năm các chương trình, dự án đã được ký hiệp định hoặc chắc chắn có khả năng rút vốn trong năm kế hoạch. + Căn cứ vào tiến độ thực hiện dự án, mức đóng góp bên Việt Nam, việc bố trí vốn đối ứng căn cứ theo dự toán và tiến độ thực hiện đã được duyệt. + Kế hoạch rút vốn được xác định chính xác để có khả năng thanh toán cho các công trình, hạng mục công trình của dự án được thi công trong năm kế hoạch.  Nâng cao hiệu lực tổ chức, quản lý, điều phối ODA Viện trợ không chỉ đơn thuần là tiền bạc. Trên thực tế, đó là sự kết hợp giữa tiền bạc và tri thức. Bài học kinh nghiệm từ một số nước không có năng lực trong việc quản lý, tổ chức, điều phối vốn ODA, sử dụng vốn vay không hiệu quả, dẫn đến những mất cân đối về tài chính, cơ cấu, phát triển sai lệch với các năng lực quốc gia, theo hướng chỉ chú trọng đến các năng lực có thể chỉ phù hợp với giai đoạn trước mắt và ít chú trọng đến các năng lực cần thiết cho tương lai, tạo cơ hội cho tham nhũng, dẫn đến tình trạng nợ nần chồng chất và lệ thuộc vào nước ngoài. Vì vậy, nhóm giải pháp nâng cao hiệu lực tổ chức, quản lý, điều phối ODA tập trung vào các nội dung sau: - Tập trung quản lý, sử dụng vốn ODA theo một đầu mối thống nhất là Sở kế hoạch đầu tư Hà Nội, tạo điều kiện dễ dàng hơn cho công tác điều phối, đồng thời khuyến khích các nhà tài trợ bỏ vốn vào các dự án nằm trong chiến lược chung của quốc gia và thành phố. - Quản lý tập trung đảm bảo việc kiểm soát không chỉ về chính sách mà 87 còn về tài chính, điều này thúc đẩy trách nhiệm và khả năng sẵn sàng huy động vốn. - Đơn giản hóa các thủ tục quản lý, các quy định hành chính tạo điều kiện cho việc thực hiện thuận lợi các dự án và nâng cao hiệu quả công tác theo dõi dự án, kịp thời tháo gỡ vướng mắc, khó khăn. - Không ngừng phát huy vai trò làm chủ của phía Việt Nam trong quá trình tiếp nhận và sử dụng vốn ODA, vai trò làm chủ được thể hiện ngay cả khâu đề xuất nhu cầu, hình thành và thiết kế dự án, tổ chức thực hiện và theo dõi đánh giá dự án. - Hướng dẫn về quản lý tác nghiệp, thường do một số cơ quan có thẩm quyền của chính phủ đưa ra cần phải làm rõ và thống nhất hơn. - Nhà nước cần phải có năng lực quản lý nợ, kiểm soát nợ, theo dõi các cam kết tài chính và đảm bảo cho các tài khoản nợ được thực hiện. Cần có một số cơ chế theo dõi, quản lý nợ nước ngoài hữu hiệu. - Cần phân cấp rõ ràng về trách nhiệm, quyền hạn giữa các Sở, ban, ngành nhằm đảm bảo cho trách nhiệm quản lý, điều phối dự án. Theo báo cáo “Việt Nam, các vấn đề khuyến nghị về quản lý, thực hiện dự án ODA” của WB/JBIC/ADB, 4/2000 cho rằng “Chính phủ không phân cấp thỏa đáng cho các cơ quan chủ quản, trong khi đó các ban quản lý chương trình, dự án có quyền hạn rất hạn chế và quá nhiều cơ quan có thẩm quyền và cơ quan tư vấn can thiệp vào quá trình ra quyết định của các ban này”.  Tăng cường năng lực, trình độ của cán bộ quản lý ở các cấp Con người vẫn giữ vai trò trung tâm trong mọi hoạt động kinh tế xã hội. Do đó, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ có vai trò quan trọng trong việc nâng cao hiệu quả quản lý và sử dụng vốn ODA. Trong thời gian qua, một đội ngũ cán bộ (trên toàn địa bàn thành phố Hà Nội) đã được đào tạo, huấn luyện về công tác quản lý dự án (lập dự án, phân tích và đánh giá dự án, đấu thầu...). Tuy đã được cải thiện nhưng năng lực chuyên môn và khả năng ngoại ngữ 88 của các cán bộ tham gia vào các cơ quan quản lý, cơ quan thực hiện vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu thực tế. Một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ quản lý trong thời gian tới: - Tổ chức đào tạo chuyên môn, ngắn hạn, dài hạn, các lớp trong nước và quốc tế. Mời chuyên gia có nhiều kinh nghiệm giảng dạy. - Có chế độ đãi ngộ hợp lý đối với các cán bộ có năng lực, kết hợp với chế độ khen thưởng nhằm phát huy năng lực sáng tạo, tự nghiên cứu, nâng cao khả năng chuyên môn và trình độ ngoại ngữ của đội ngũ cán bộ. - Thay đổi chính sách tiền lương hợp lý hơn, nâng cao khả năng cạnh tranh của khu vực nhà nước so với các khu vực khác trong vấn đề tuyển dụng lao động có trình độ và năng lực.  Cải thiện và chia sẻ thông tin, thúc đẩy quan hệ đối tác Dự án ODA chỉ thực sự thành công khi cả hai phía có sự hiểu biết lẫn nhau, phối hợp với nhau cùng thực hiện. Các cuộc thảo luận cởi mở giã hai hoặc nhiều bên sẽ giúp tìm ra những khó khăn, vướng mắc để kịp thời có hướng tháo gỡ, giải quyết. Đồng thời để có được mối quan hệ đối tác có hiệu quả trong lĩnh vực viện trợ đòi hỏi có sự cam kết thực hiện nguyên tắc công khai, minh bạch, tránh tình trạng hiểu lầm và bất đồng thường xuyên giữa các đối tác. Xây dựng, củng cố niềm tin về năng lực, khả năng của Việt Nam trong cộng đồng các nhà tài trợ quốc tế. Cả hai bên phải nỗ lực tăng cường hiểu biết và hỗ trợ lẫn nhau. Cần có sự thương thảo giữa các cơ quan của chính phủ và nhà tài trợ để đi tới thống nhất về các thủ tục, chính sách và có sự vận dung linh hoạt trong từng chương trình cụ thể. Trong mối quan hệ hợp tác phát triển, Việt Nam cần tránh bị phụ thuộc vào viện trợ trên cơ sở ưu tiên xây dựng năng lực bền vững quốc gia, sử dụng có hiệu quả vốn vay và viện trợ, tăng tiết kiệm, nâng cao tính hiệu quả trong 89 phân bổ nguồn lực thông qua khuyến khích, cạnh tranh, tăng cường, áp dụng cơ chế thị trường. 3.3.2 Giải pháp ở tầm vi mô  Nhóm giải pháp nâng cao chất lượng và đẩy nhanh tiến độ công tác chuẩn bị đầu tư Một trong những nguyên nhân gây chậm trễ việc thực hiện dự án là chất lượng công tác chuẩn bị đầu tư còn yếu kém, đặc biệt là khâu lập dự án đầu tư ban đầu. Dự án phải làm đi làm lại nhiều lần, tốn nhiều thời gian và chi phí. Tổng chi phí giai đoạn chuẩn bị đầu tư từ 0,5-15% vốn đầu tư của dự án nhưng nó quyết định đến hiệu quả của 85-99,5% vốn đầu tư của dự án ở giai đoạn thực hiện đầu tư. Thực tế, các dự án phát triển kết cấu hạ tầng kỹ thuật thường có quy mô vốn đầu tư lớn, tính chất kỹ thuật phức tạp, do đó việc xây dựng luận chứng kinh tế kỹ thuật cũng không gặp ít khó khăn. Một số giải pháp nâng cao chất lượng công tác lập dự án bao gồm: - Nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ kinh tế, cán bộ kỹ thuật lập dự án ở từng cấp, từng ngành. Tuyển chọn những người có năng lực và giàu kinh nghiệm, đã từng thực hiện các dự án tương tự. - Các dự án ODA hạ tầng kỹ thuật phải có mục tiêu và căn cứ pháp lý rõ ràng. - Trong quá trình lập dự án cần có sự nghiên cứu, đánh giá, phân tích tỷ mỷ, dựa trên các luận cứ có tính khoa học về mọi khía cạnh của dự án: khía cạnh kỹ thuật, khía cạnh tài chính, khía cạnh thị trường, khía cạnh kinh tế xã hội khác. - Đối với các dự án phức tạp có thể tuyển chọn các công ty tư vấn trong nước và quốc tế thông qua đấu thầu tuyển chọn tư vấn. Công tác đánh giá hồ sơ dự thầu và lựa chọn nhà thầu tư vấn cần phải được cải tiến theo hướng minh bạch, công bằng và có tính chính xác cao. 90 - Trong quá trình lập dự án cần chú ý đến các chỉ tiêu tài chính: giá trị hiện tại ròng (NPV), tỷ số lợi ích chi phí (B/C), tỷ số hoàn vốn nội bộ (IRR)... và phân tích các lợi ích kinh tế xã hội của dự án là cơ sở nhà tài trợ xem xét tính khả thi của dự án và ra quyết định tài trợ.  Nhóm giải pháp nâng cao chất lượng và đẩy nhanh tiến độ thực hiện dự án * Đẩy nhanh tiến độ giải phóng mặt bằng - Thực hiện tốt công tác xã hội hóa đầu tư, cho phép nhân dân cùng tham gia tìm hiểu, đóng góp ý kiến về các quy hoạch giao thông, cấp, thoát nước... của thành phố. Từ đó, dân hiểu và chấp hành tốt công tác giải phóng mặt bằng. - Xây dựng cơ chế đền bù thoả đáng, đảm bảo quyền lợi cho nhân dân. - Chính quyền thành phố, các sở, ban, ngành thực hiện nhanh chóng thủ tục cấp đất, cấp giấy phép xây dựng các khu chung cư phục vụ ho công tác di dân, giải phóng mặt bằng. * Tổ chức tốt công tác đấu thầu, mua sắm thiết bị và công nghệ Công tác xây dựng, lắp đặt các công trình kết cấu hạ tầng sử dụng đến một khối lượng lớn máy móc, thiết bị, công nghệ. Thông thường việc mua sắm thiết bị công nghệ được thực hiện thông qua đấu thầu, mua sắm, lựa chọn nhà cung cấp. Một số giải pháp nâng cao chất lượng công tác đấu thầu mua sắm: - Phân chia gói thầu hợp lý đảm bảo nguyên tắc về kỹ thuật, công nghệ, quy mô, thời gian và địa điểm thực hiện. - Hồ sơ mời thầu phải được chuẩn bị kỹ lưỡng, đầy đủ, rõ ràng, tránh gây hiểu sai, hiểu lầm đối với các nhà thầu, tạo thuận lợi cho khâu đánh giá hồ sơ dự thầu. - Các tiêu chí và thang điểm đánh giá phải hợp lý và phù hợp với 91 thông lệ chung quốc tế, cho phép lựa chọn các nhà thầu có đủ năng lực cung cấp hàng hóa, vật tư, có kỹ thuật phù hợp với trình độ phát triển chung ở trong nước. - Các chuyên gia trong hội đồng xét thầu phải đủ năng lực chuyên môn và kinh nghiệm trong đánh giá hồ sơ dự thầu. - Phải chấp hành đúng nguyên tắc, quy trình, thủ tục đấu thầu đảm bảo hiệu quả, công bằng, minh bạch. - Trong giai đoạn thương thảo và ký kết hợp đồng, phải sử dụng đội ngũ cán bộ có năng lực, có tài về thương thảo, có kinh nghiệm thực hiện các hợp đồng mua bán. * Nâng cao chất lượng thiết kế kỹ thuật và tổng dự toán Chất lượng, hiệu quả và tiến độ thi công của dự án ODA hạ tầng kỹ thuật phụ thuộc rất nhiều vào thiết kế kỹ thuật và tổng dự toán. Chất lượng bản thiết kế kỹ thuật tốt có thể giảm chi phí, rút ngắn thời gian thi công và nâng cao chất lượng công trình. Một số giải pháp chính: - Thiết kế kỹ thuật là một công việc phức tạp đòi hỏi phải có chuyên gia chuyên sâu về từng khía cạnh kỹ thuật của dự án. Phải sử dụng các cá nhân, tổ chức có chuyên môn sâu và giàu kinh nghiệm trong thiết kế kỹ thuật các dự án tương tự. - Đối với các dự án phức tạp có thể thuê tư vấn thiết kế. Phải tổ chức tốt công tác đấu thầu từ khâu lập hồ sơ mời thầu, xét thầu và lựa chọn nhà thầu, đảm bảo tính minh bạc, công bằng. Lựa chọn nhà thầu có đề xuất kxy thuật hợp lý, phù hợp với trình độ, khả năng tiếp nhận trong nước. - Thực hiện tốt công tác thẩm định thiết kế kỹ thuật: cần xem xét kỹ lưỡng sự hợp lý của các giải pháp thiết kế, sự phù hợp của thiết kế kỹ thuật với nội dung đã được phê duyệt trong quyết định đầu tư... * Thực hiện tốt công tác giám sát và đánh giá dự án Giám sát dự án là quá trình kiểm tra, theo dõi dự án về tiến độ thời gian, 92 chi phí và tiến trình thực hiện nhằm đánh giá thường xuyên mức độ hoàn thành và đề xuất những biện pháp, hành động cần thiết để thực hiện thành công dự án. Tăng cường công tác giám sát và đánh giá dự án bao gồm: - Tăng cường quản lý tiến độ thời gian, đảm bảo yêu cầu kế hoạch thông qua việc thường xuyên cập nhật thông tin về tiến độ thực hiện dự án. - Quản lý chi phí của chương trình dự án trong phạm vi ngân sách đã được duyệt. - Theo dõi tình hình toàn bộ chương trình, dự án, cũng như từng hạng mục, công trình về tỷ lệ giải ngân vốn trong nước, vốn nước ngoài, khối lượng vốn trong nước thực hiện, khối lượng vốn ODA thực hiện, tỷ lệ hoàn thành kế hoạch. - Phát hiện kịp thời những tình huống bất thường nảy sinh và đề xuất biện pháp giải quyết. - Thường xuyên đánh giá, tổng hợp tình hình thực hiện dự án ODA và lập báo cáo đánh giá tiến độ thực hiện dự án. - Thiết lập bộ phận chuyên trách, theo dõi, quản lý các dự án ODA, thực hiện các nhiệm vụ: + Giám sát kế hoạch: Xây dựng các kế hoạch đầu tư đầu năm cho các dự án ODA, thực hiện kiểm tra dựa trên cơ sở so sánh giữa thực tế với kế hoạch, theo sơ đồ GANTT hoặc CPM. Thường xuyên cập nhật các số liệu thực tế để so sánh với kế hoạch nhằm phát hiện ra chênh lệch, kịp thời điều chỉnh lại công việc. + Giám sát chi phí: So sánh chi phí thực tế với chi phí kế hoạch, các khả năng chi phí vượt trội được phát hiện, phân tích và xử lý kịp thời. Đồng thời cung cấp thông tin cho các bên liên quan để kịp thời bố trí vốn đối ứng. + Giám sát hoạt động: thực hiện kiểm tra chất lượng và đảm bảo chất lượng. Thực hiện các báo cáo, cung cấp thông tin về mức độ hoàn thành các công việc. 93  Nhóm giải pháp tăng cường quản lý và đánh giá dự án sau đầu tư Cần phải nâng cao hiệu lực công tác quản lý và đánh giá hậu dự án (khi công trình, dự án đã hoàn thành đưa vào sử dụng). - Sở KHĐT phối hợp ban quản lý dự án và bộ chủ quản thông qua công tác báo cáo, kiểm tra thường xuyên và định kỳ, nhằm kịp thời phát hiện ra những trở ngại phát sinh để kịp thời có hướng giải quyết. - Công trình cần được giao cho một đội chuyên trách, thực hiện công tác duy tu, bảo dưỡng thường xuyên nhằm nâng cao chất lượng và tuổi thọ công trình. - Sở KHĐT, các nhà tài trợ phối hợp với các bộ, ban, ngành chủ quản tiến hành kiểm tra, đánh giá dự án sau 5 năm, 10 năm, 20 năm... nhằm rút ra bài học thực tiễn cho việc triển khai các chương trình dự án tiếp theo. 94 Kết luận Trong những thập kỷ qua, người ta càng “hoài nghi” về tính hiệu quả của viện trợ nước ngoài, không biết sự viện trợ này có thực sự giúp các nước nghèo, đặc biệt là bản thân những người nghèo hay không, hay chỉ làm phình to khu ực công cộng vốn đã hoạt động kém hiệu quả, làm trầm trọng thêm thâm hụt cán cân thanh toán do nghĩa vụ trả nợ và những ràng buộc đối với hàng xuất khẩu của nước cấp viện trợ. Quan điểm của chính phủ Việt Nam hết sức rõ ràng, coi viện trợ là nguồn lực quan trọng bù đắp thiếu hụt về vốn để phát triển kinh tế đất nước. Mấu chốt của vấn đề là phải sử dụng vốn vay có hiệu quả, kết hợp với khả năng quản lý nợ nước ngoài, trên cơ sở tăng cường vai trò “làm chủ” quốc gia, nghĩa là đặt chính phủ và nhân dân vào vai trò người cầm lái. Đẩy mạnh cải cách hành chính, hoàn thiện môi trường chính sách nhằm thu hút hơn nữa vốn vay và viện trợ quốc tế. Thực tiễn đã khẳng định đúng tại một tỉnh, thành phố đã làm tốt công tác quản lý và sử dụng vốn ODA. Trong những năm qua, được sự quan tâm của Đảng, Chính phủ, UBND thành phố, Hà Nội đã thu hút được nhiều dự án ODA phục vụ cho việc phát triển kết cấu hạ tầng kỹ thuật. Nhiều công trình lớn, có giá trị kinh tế, văn hoá, chính trị đã hoàn thành đi vào hoạt động, góp phần thúc đẩy kinh tế thủ đô phát triển, cải thiện đời sống vật chất, văn hóa, tinh thần của người dân. Xây dựng thủ đô ngang tầm với vị thế trung tâm văn hóa, chính trị của cả nước. Môi trường luật pháp, thể chế, chính sách cũng có nhiều thay đổi, tạo một khuôn khổ pháp lý thông thoáng, thuận lợi cho các dự án ODA hoạt động. Hiệu lực quản lý nhà nước về hoạt động vay và trả nợ vốn vay đã được tăng cường. Công tác vận động, thu hút vốn ODA cũng có nhiều cải tiến. Tuy nhiên, bên cạnh đó, vẫn còn có nhiều tồn tại, vướng mắc cần tiếp tục nghiên cứu, xem xét, giải quyết để tăng cường hiệu quả của nguồn vốn này. 95 Trong tương lai, để phục vụ nhu cầu phát triển kinh tế, xã hội, Hà Nội cần huy động một khối lượng vốn lớn để đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng. Trong khi khả năng huy động vốn trong nước chỉ chiếm tối đa khoảng 50% nhu cầu vốn đầu tư, thì vốn ODA vẫn được xác định là nguồn vốn bổ sung quan trọng trong thời gian tới. Do vậy công tác quản lý, sử dụng vốn ODA cần tiếp tục được củng cố, hoàn thiện từ trung ương đến địa phương. Khi tốc độ tăng trưởng GDP của Hà Nội ổn định ở mức cao, thì cũng có khả năng các nhà đầu tư và các nhà cho vay vốn tiếp tục quan tâm đến Hà Nội, và như vậy có thể nguồn tài chính nước ngoài đầu tư vào phát triển kết cấu hạ tầng Hà Nội sẽ tăng thêm. Hơn nữa, tỷ lệ tiết kiệm vẫn còn ở mức thấp (khoảng 20% GDP), thấp hơn nhiều so với tỷ lệ tiết kiệm 30% cần có để tài trợ bền vững cho sự nghiệp phát triển như đã từng thực hiện ở những nước đang phát triển thành công. Vì vậy, để tránh bẫy nợ nần và lệ thuộc vào viện trợ nước ngoài, cần phải kết hợp các yếu tố như tiếp tục cải cách hành chính, chính sách và thể chế, phát triển khu vực kinh tế tư nhân lành mạnh hơn để tạo thu nhập, tiết kiệm và nguồn thu từ thuế trong nước, nhằm tài trợ bền vững cho sự nghiệp phát triển ở mức độ ngày càng cao, và sử dụng nguồn tài chính nước ngoài đặc biệt là ODA mang tính chiến lược, song có sự tính toán cẩn thận. 96 97 Danh mục tài liệu tham khảo 1. PGS-TS. Vũ Chí Lộc, Giáo trình đầu tư nước ngoài, NXB Giáo dục Hà Nội. 2. GS-TS. Tô Xuân Dân, PTS. Nguyễn Thị Hường, PTS. Nguyễn Thường Lạng, Quản trị dự án có vốn đầu tư quốc tế, NXB Thống kê Hà Nội. 3. Lê Văn Châu, Vốn nước ngoài và chiến lược phát triển kinh tế ở Việt Nam, NXB Chính trị quốc gia, 2001. 4. Bùi Đường Nghiên, Hiệu quả đầu tư và thực trạng hệ số ICOR ở nước ta, Tạp chí Nghiên cứu kinh tế. 5. Bộ KH-ĐT (1997,1998,1999, 2000), Báo cáo tổng quan tình hình đầu tư nước ngoài tại Việt Nam. 6. Tổng cục thống kê , Niên Giám thống kê, NXB Thống kê, Hà Nội. 7. Tổng cục thống kê (1998), Tư liệu kinh tế các nước thành viên ASEAN, NXB Thống kê Hà Nội. 8. Báo Đầu tư, Thời báo kinh tế Việt Nam, Vietnam Investment Review. 9. Tổ chức thương mại thế giới (WTO), Báo cáo hàng năm. 10. NXB Chính trị quốc gia, Việt Nam và các tổ chức kinh tế quốc tế. 11. Ngân hàng thế giới tại Việt Nam, Báo cáo phát triển Việt Nam 2001, Quan hệ hợp tác cho sự phát triển. 12. Ngân hàng thế giới tại Việt Nam, Báo cáo phát triển Việt Nam 2001, Các trụ cột của sự phát triển. 13. JBIC (2001), Tăng cường tiếp cận với cơ sở hạ tầng, Hà Nội.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfPhân tích tình hình sử dụng vốn ODA trong phát triển cơ sở hạ tầng kỹ thuật ở Hà Nội.pdf
Tài liệu liên quan