MỤC LỤC
* Lời mở đầu. 2
CHƯƠNG I - TIỀN ĐỀ LÝ THUYẾT.
1. Khái niệm chính sách tỷ giá. 6
2. Mục tiêu của chính sách tỷ giá. 6
2.1. Mục tiêu theo nghĩa rộng. 6
2.2. Mục tiêu theo nghĩa hẹp. 7
3. Chế độ tỷ giá và các công cụ chính sách tỷ giá ở Việt Nam. 7
3.1. Chế độ tỷ giá ở Việt Nam. 7
3.2. Các công cụ của chính sách tỷ giá ở Việt Nam. 8
CHƯƠNG II - CHÍNH SÁCH TỶ GIÁ CỦA VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 2008-2010.
1. NĂM 2008. 12
1.1. Bối cảnh kinh tế thế giới và Việt Nam cuối 2007 đầu 2008. 12
1.2. Điều hành chính sách tiền tệ nói chung. 12
1.3. Chính sách tỷ giá năm 2008. 14
1.3.1. Giai đoạn 1 (từ 01/01 – 11/06/2008) 14
1.3.2. Giai đoạn 2 (từ 11/06 – 15/10/2008) 17
1.3.3. Giai đoạn 3 (từ 16/10 đến hết năm 2008) 18
2. NĂM 2009. 21
2.1. Bối cảnh kinh tế thế giới và Việt Nam. 21
2.2. Điều hành chính sách tiền tệ nói chung. 22
2.3. Chính sách tỷ giá năm 2009. 22
2.3.1. Giai đoạn 1 (từ 01/01 - 24/11/2009) 22
2.3.2. Giai đoạn 2 (từ 25/11 đến hết năm 2009) 24
3. NĂM 2010: (3 quý đầu năm) 26
3.1. Bối cảnh kinh tế thế giới và Việt Nam cuối 2009 đầu 2010. 26
3.2. Điều hành chính sách tiền tệ nói chung. 27
3.3. Chính sách tỷ giá 3 quý đầu năm 2010. 27
3.3.1. Giai đoạn 1 (từ 01/01- 10/02/2010) 27
3.3.2. Giai đoạn 2 (từ 17/8 - hết quý 3/2010) 29
CHƯƠNG III - ĐÁNH GIÁ VÀ ĐỀ XUẤT GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN CHÍNH SÁCH TỶ GIÁ.
1. Đánh giá. 34
1.1. Đánh giá về hành động của NHTW trong quá trình thực thi chính sách. 34
1.2. Đánh giá về việc duy trì điều hành chính sách theo chế độ tỷ giá thả nổi
có điều tiết. 36
2. Giải pháp. 40
* Tài liệu tham khảo. 42
* Nhóm sinh viên thực hiện.
43 trang |
Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 2485 | Lượt tải: 3
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Phân tích tình hình chính sách tỷ giá 2008-2010 và đề xuất giải pháp hoàn thiện nhằm nâng cao sức cạnh tranh của Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
nh thực thi chính sách. 34
1.2. Đánh giá về việc duy trì điều hành chính sách theo chế độ tỷ giá thả nổi
có điều tiết. 36
2. Giải pháp. 40
* Tài liệu tham khảo. 42
* Nhóm sinh viên thực hiện. 43
CHƯƠNG I - TIỀN ĐỀ LÝ THUYẾT.
1. Khái niệm chính sách tỷ giá:
Chính sách tỷ giá là một bộ phận của chính sách kinh tế. Vì vậy, hiểu theo nghĩa rộng thì: Chính sách tỷ giá là những hoạt động của chính phủ (đại diện thường là NHTW) thông qua một chế độ tỷ giá nhất định và hệ thống các công cụ, can thiệp nhằm duy trì một mức tỷ giá cố định hay tác động để tỷ giá biến động đến một mức cần thiết phù hợp với mục tiêu chính sách kinh tế quốc gia.
Trên thực tế, các quốc gia luôn sử dụng tỷ giá là công cụ trước tiên để điều chỉnh hoạt động xuất nhập khẩu của mình vì hiệu quả tác động từ tỷ giá là nhanh chóng và rõ ràng nhất. Do đó, theo nghĩa thực tế, ta có thể hiểu: Chính sách tỷ giá là những hoạt động của chính phủ thông qua cơ chế điều hành tỷ giá và hệ thống các công cụ, can thiệp nhằm đạt được một mức tỷ giá nhất định, để tỷ giá tác động tích cực đến hoạt động xuất nhập khẩu của quốc gia.
2. Mục tiêu của chính sách tỷ giá:
2.1. Mục tiêu theo nghĩa rộng:
Ổn định giá cả.
Với giả định các yếu tố khác không đổi, khi NHTW tác động làm tăng (giảm) tỷ giá, sẽ dẫn đến ảnh hưởng mức giá cả chung của nền kinh tế, do đó sẽ kích thích (kiềm chế) lạm phát. Để duy trì giá cả ổn định thì NHTW phải sử dụng chính sách tỷ giá ổn định và cân bằng.
Thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và việc làm đầy đủ.
Khi các yếu tố khác là không đổi, muốn thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, giảm tỉ lệ thất nghiệp, cần áp dụng chính sách phá giá nội tệ. Ngược lại, nếu muốn giảm bớt tốc độ tăng trưởng kinh tế quá nóng thì áp dụng chính sách nâng giá nội tệ.
Cân bằng cán cân vãng lai.
Bằng chính sách định giá nội tệ thấp (hoặc cao) sẽ làm cho cán cân vãng lai đang thâm hụt (hoặc thặng dư) trở về trạng thái cân bằng.
2.2. Mục tiêu theo nghĩa hẹp:
Trong thực tế, tỷ giá chỉ có tác động trực tiếp đến các hạng mục thuộc cán cân vãng lai. Vì thế, ta thường hiểu mục tiêu chính sách tỷ giá là mục tiêu điều chỉnh cán cân vãng lai, hay hoạt động xuất nhập khẩu của quốc gia.
3. Chế độ tỷ giá và các công cụ chính sách tỷ giá ở Việt Nam.
3.1. Chế độ tỷ giá ở Việt Nam:
Ngày 12/12/1997, Quốc hội khóa XII Nhà nước CHXHCN Việt Nam đã thông qua Luật Ngân hàng Nhà nước Việt Nam số 01/1997/QH10, qui định về NHNN, để xây dựng và thực thi có hiệu quả chính sách tiền tệ quốc gia, quản lý nhà nước về tiền tệ và hoạt động ngân hàng; trong đó, đã đề cập đến việc xác định chế độ tỷ giá ở Việt Nam tại điều 19 chương 3 như sau:
“Điều 19. Tỷ giá hối đoái
1. Tỷ giá hối đoái của đồng Việt Nam được hình thành trên cơ sở cung cầu ngoại tệ
trên thị trường có sự điều tiết của Nhà nước.
2. Ngân hàng Nhà nước xác định và công bố tỷ giá hối đoái của đồng Việt Nam.”
Như vậy, tỷ giá hối đoái trên thị trường Việt Nam từ năm 1997, đã được xác định theo chế độ tỷ giá thả nổi có điều tiết – trong đó, tỷ giá không cố định mà cũng không tự do biến động hoàn toàn. Một mặt, tỷ giá được hình thành và biến động theo các lực lượng thị trường; mặt khác, NHTW tích cực can thiệp để giảm sự biến động quá mức của tỷ giá, hoặc để tỷ giá biến động trong một biên độ nhất định.
Tiếp tục, vào ngày 16/6/2010 vừa qua, tại kỳ họp thứ 7, Quốc hội khóa XII đã thông qua Luật Ngân hàng Nhà nước Việt Nam số 46/2010/QH12, có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/2011 và thay thế Luật Ngân hàng Nhà nước Việt Nam số 01/1997/QH10 và Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Ngân hàng Nhà nước Việt Nam số 10/2003/QH11; trong đó, công bố Nhà nước ta sẽ tiếp tục duy trì chế độ tỷ giá này trong tương lai.
“Điều 13. Tỷ giá hối đoái.
1. Tỷ giá hối đoái của đồng Việt Nam được hình thành trên cơ sở cung cầu ngoại tệ trên thị trường có sự điều tiết của Nhà nước.
2. Ngân hàng Nhà nước công bố tỷ giá hối đoái, quyết định chế độ tỷ giá, cơ chế điều hành tỷ giá.”
3.2. Các công cụ của chính sách tỷ giá ở Việt Nam.
Để đồng nội tệ được định giá cao hơn hay thấp hơn, thì chính phủ phải sử dụng các công cụ cần thiết để can thiệp lên tỷ giá. Các công cụ này được gọi là công cụ của chính sách tỷ giá.
(Cụ thể việc sử dụng các công cụ này sẽ được nhìn thấy rõ hơn ở phần 2 của bài thảo luận)
3.2.1. Nhóm công cụ tác động trực tiếp lên tỷ giá:
Hoạt động mua bán nội tệ của NHTW trên thị trường ngoại hối: nhằm tác động tới tỷ giá theo mục tiêu đã đề ra. Đây là công cụ quan trọng và chủ yếu của NHTW. Cụ thể: nếu trong lưu thông ngoại tệ đang bị thừa à ảnh hưởng đến VND bị lên giá, gây tác động xấu đến xuất khẩu thì NHTW tiến hành xem xét mua ngoại tệ vào, đẩy VND ra nhằm làm tỷ giá ổn định; ngược lại, nếu trong lưu thông đang thiếu ngoại tệ à VND bị giảm giá, NHTW xem xét mua vào VND và bán ngoại tệ ra nhằm giảm áp lực phá giá nội tệ.
Tuy nhiên, sử dụng công cụ này buộc NHTW phải có một lượng dự trữ ngoại hối đủ mạnh. Các hoạt động can thiệp trực tiếp của NHTW tạo ra hiệu ứng thay đổi cung ứng tiền trong lưu thông, có thể tạo ra áp lực lạm phát hay thiểu phát, chính vì vậy đi kèm theo các hoạt động can thiệp trực tiếp, NHTW thường sử dụng thêm một nghiệp vụ thị trường mở để hấp thụ lượng dư hay bổ sung phần thiếu hụt tiền tệ trong lưu thông.
Các biện pháp hành chính: vs xu thế mở cửa nền kinh tế, tự do hóa thương mại và tự do hóa tài chính thì các biện pháp này ngày càng được hạn chế áp dụng.
+ Biện pháp kết hối: quy định các thể nhân, pháp nhân có nguồn thu ngoại tệ phải bán một tỷ lệ nhất định trong thời hạn nhất định cho các tổ chức kinh doanh ngoại hối. Mục đích là để tăng cung ngoại tệ tức thời, hạn chế đầu cơ và giảm áp lực phải phá giá nội tệ.
+ Các quy định về hạn chế về đối tượng được mua ngoại tệ, mục đích sử dụng, số lượng được mua, thời điểm mua ngoại tệ… Mục đích nhằm giảm cầu ngoại tệ, giữ tỷ giá ổn định.
3.2.2. Nhóm công cụ tác động gián tiếp lên tỷ giá:
Với xu thế toàn cầu hóa, tự do hóa thương mại hiện nay, thì các biện pháp can thiệp trực tiếp đã bộc lộ những hạn chế rất lớn. Vì vậy, xu hướng chung là chuyển từ can thiệp trực tiếp sang can thiệp gián tiếp bằng các công cụ sau:
Lãi suất tái chiết khấu: xét với các yếu tố khác không đổi.
+ Khi NHTW tăng mức lãi suất tái chiết khấu sẽ dẫn tới mặt bằng lãi suất thị trường tăng theo, khiến cho các luồng vốn ngoại tệ chảy vào làm cho nội tệ lên giá.
+ Khi NHTW giảm lãi suất chiết khấu sẽ có tác động ngược chiều.
Trên thực tế, đây là công cụ có tác động nhanh chóng và mạnh mẽ nhất nên thường được sử dụng và tỏ ra hiệu quả cao.
Thuế quan:
+ Thuế (NK) cao làm hạn chế nhập khẩu, khiến cho cầu ngoại tệ giảm và kết quả là nội tệ lên giá.
+ Ngược lại, thuế thấp sẽ kích thích nhập khẩu, cầu ngoại tệ tăng lên dẫn đến nội tệ giảm giá.
Gia nhập WTO đã mở ra cho chúng ta cơ hội mở rộng thị trường xuất khẩu, và thực tế là trong hai năm 2007 và 2008, hội nhập kinh tế quốc tế đã có tác động rất tích cực đến xuất khẩu. Năm 2007, kim ngạch xuất khẩu tăng 21,9% so với năm 2006; và năm 2008, kim ngạch xuất khẩu tăng tới 29,1% so với năm 2007. (Năm 2009, do tác động của khủng hoảng kinh tế toàn cầu nên kim ngạch xuất khẩu giảm 8,9% so với 2008). Tuy vậy, sự gia tăng này cũng chưa thể hiện được mức độ bứt phá so với các năm trước và như kỳ vọng sau khi nước ta gia nhập WTO.
Cũng song song với đó, yêu cầu bao trùm khi gia nhập WTO và tham gia các khu vực mậu dịch tự do (FTA – Free Trade Area) là Việt Nam tiến hành từng bước mở cửa thị trường hàng hóa trong nước, thông qua các cam kết cắt giảm thuế nhập khẩu. Tổng hợp chung, các kết quả đàm phán cho toàn bộ biểu thuế nhập khẩu gồm 10.600 dòng thuế, và Việt Nam đã cam kết cắt giảm khoảng 30% mức thuế nhập khẩu hiện hành và sẽ thực hiện chủ yếu trong vòng năm năm kể từ khi gia nhập WTO.
Hạn ngạch:
+ Hạn ngạch làm hạn chế nhập khẩu, dẫn đến là nội tệ lên giá.
+ Dỡ bỏ hạn ngạch có tác dụng ngược lại.
Để đáp ứng nhu cầu gia nhập WTO, Việt Nam cũng đã xóa bỏ hạn ngạch nhập khẩu đối với nhiều mặt hàng sản phẩm, như: ngô hạt, bông, sữa nguyên liệu, phim nước ngoài, … và sẽ dỡ bỏ tiếp hạn ngạch với các hàng hóa khác như: đường, thuốc lá nguyên liệu, … trong các năm tới.
Giá cả:
+ Chính phủ trợ giá cho những mặt hàng xuất khẩu chiến lược, làm cho khối lượng xuất khẩu tăng, tăng cung ngoại tệ khiến cho nội tệ lên giá.
+ Chính phủ bù giá cho một số mặt hàng nhập khẩu thiết yếu, làm tăng nhập khẩu, tăng cầu ngoại tệ dẫn tới nội tệ giảm giá.
Năm 2008, Nhà nước ta đã ra quyết định chấm dứt bù lỗ cho tất cả các mặt hàng xăng dầu, buộc doanh nghiệp phải tự mình cạnh tranh, đồng thời, trút bỏ bớt gánh nặng cho ngân sách. Sắp tới đây trong Đề án “Những định hướng lớn về giá cả trong chiến lược tài chính giai đoạn 2011 – 2020” điện, than, nước sạch... và nhiều mặt hàng thiết yếu, quan trọng khác mang tính chất đầu vào nền kinh tế cũng sẽ được loại bỏ cơ chế trợ giá, bù giá như đã từng thực hiện với xăng dầu.
Giống như dỡ bỏ thuế quan, hạn ngạch, đây là hướng đi tất yếu khi chọn tự do hóa thương mại, tự do hóa tài chính và mở cửa kinh tế.
Điều chỉnh tỷ lệ dự trữ bắt buộc bằng ngoại tệ đối với các NHTM:
+ Khi ngoại tệ trở nên khan hiếm, NHTW có thể tăng dự trữ bắt buộc đối với vốn huy động bằng ngoại tệ của các NHTM, khiến cho chi phí sử dụng vốn ngoại tệ tăng, kết quả là lãi suất huy động ngoại tệ giảm xuống và những người sở hữu ngoại tệ sẽ bán ngoại tệ đi lấy nội tệ, làm tăng cung ngoại tệ trên thị trường ngoại hối.
+ Ngược lại, khi có quá nhiều ngoại tệ lưu thông trên thị trường, NHTW có thể giảm dự trữ bắt buộc bằng ngoại tệ của các NHTM, khiến cho lãi suất huy động ngoại tệ tăng lên, dẫn đến xu hướng bán nội tệ đi để lấy ngoại tệ, cầu ngoại tệ tăng lên trên thị trường ngoại hối.
Quy định mức lãi suất trần đối với tiền gửi bằng ngoại tệ:
+ Khi mức lãi suất trần được “siết chặt” : mục đích là đánh vào tâm lý đầu cơ, tích trữ ngoại tệ, kích thích dân cư chuyển tiền gửi sang nội tệ, giảm lượng cầu ngoại tệ và đưa dòng ngoại tệ vào sản xuất, kinh doanh. ..
Ngoài ra, đồng nội tệ cũng trở nên có giá trị hơn, tạo cơ sở để từng bước hạ lãi suất huy động nội tệ, góp phần giảm lạm phát.
Người gửi tiền chuyển sang gửi nội tệ, nhà đầu cơ chuyển sang nắm giữ nội tệ khiến cho có sự dịch chuyển lớn từ ngoại tệ sang nội tệ, điều này làm tỷ giá giảm.
Khi mức lãi suất trần được “nới lỏng”: mục đích là hạn chế ngoại tệ lưu thông trên thị trường, đưa dòng nội tệ vào sản xuất, kinh doanh.
CHƯƠNG II - CHÍNH SÁCH TỶ GIÁ CỦA VIỆT NAM
GIAI ĐOẠN 2008-2010.
1. NĂM 2008:
1.1. Bối cảnh kinh tế thế giới và Việt Nam cuối 2007 đầu 2008:
Nền kinh tế thế giới bắt đầu có những dấu hiệu tiêu cực từ tháng 8-2007, khi thị trường tín dụng bất động sản của Mỹ rơi vào tình trạng khủng hoảng. Đồng USD đã chịu sức ép trong 4 năm qua do tình trạng thâm hụt tài khoản vãng lai của Mỹ và quyết định giảm lãi suất của Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (FED) trong năm 2007. Đồng USD đã liên tục xuống dốc không phanh trong những tháng cuối năm 2007, nhìn chung mất giá khoảng 16%.
Cuối năm 2007 và đầu 2008, kinh tế Việt Nam đã bộc lộ những dấu hiệu tăng trưởng quá nóng. Tỷ lệ lạm phát tăng mạnh từ mức 6,6% năm 2006 lên tới 15,7% tính đến tháng 2/2008. Cán cân vãng lai thâm hụt ở mức đang ngại, khoảng 9,3% - 9,7% GDP, giá tài sản tăng cao, đặc biệt là giá cổ phiếu đầu 2007 và giá bất động sản cuối 2007. Tính chung 6 tháng cuối năm 2007, tỷ giá VND/USD đã giảm 0,12%.
1.2. Điều hành chính sách tiền tệ nói chung:
Nửa đầu năm 2008, NHNN chủ trương thực hiện chính sách tiền tệ thắt chặt trước các nguy cơ tác động của cuộc khủng hoảng, nhằm mục tiêu kiềm chế lạm phát (tháng 2,3: tăng tỷ lệ dự trữ bắt buộc ở tất cả các kì hạn, quy định trần lãi suấ huy động tiền gửi, phát hành tín phiếu bắt buộc; tháng 5: ban hành cơ chế điều hành lãi suất mới, quy định lãi suất cho vay của các NHTM không vượt quá 150% lãi suất cơ bản).
Nửa cuối 2008, nới lỏng chính sách tiền tệ, ưu tiên phục hồi tăng trưởng. (nâng lãi suất tín phiếu bắt buộc, trả lãi tiền gửi dự trữ bắt buộc bằng VND; từ tháng 10, các lãi suất chỉ đạo liên tục hạ xuống, lãi suất cơ bản sau 4 lần hạ đã từ 14% xuống 8,5%; )
1.3. CHÍNH SÁCH TỶ GIÁ NĂM 2008:
Giai đoạn 1 (từ 01/01 – 11/06/2008):
Diễn biến chính sách tỷ giá:
Phục vụ mục tiêu chung kiềm chế lạm phát của chính sách tiền tệ, NHNN không thực hiện mua ngoại tệ USD nhằm hạn chế việc bơm tiền ra lưu thông, tăng biên độ tỷ giá USD/VND từ 0,75%/ năm lên 1%/ năm trong ngày 10/03/2008.
Các nhân tố ảnh hưởng khác:
- Dưới tác động của chính sách tiền tệ nói chung, chỉ trong 3 tuần đầu của tháng 2/2008, các ngân hàng thương mại đã phải thực hiện đồng thời 4 quyết định về thắt chặt tiền tệ của NHNN, đã gây ra các tác động sốc và phản ứng tiêu cực tức thì của thị trường tiền tệ và hoạt động của NHTM à kéo theo những tác động đến cung- cầu ngoại tệ. Có thể nói đây là 1 cú phanh gấp trong quá trình tụt dốc của nền kinh tế VN, ngăn chặn sự leo thang mất giá đồng tiền và lạm phát.
Tác động tiêu cực đến lãi suất thị trường:
+ Các ngân hàng đua nhau tăng lãi suất huy động vốn nội tệ. Lãi suất ngân hàng đã ở mức cực kỳ nguy hiểm.
+ Lãi suất liên ngân hàng tăng cao chóng mặt: ngày 15/2/2008 lên tới 30,1%/năm; ngày 18/2/2008 lập một kỷ lục mới khi lên tới 33%/năm, ngày 19/2/2008 kỷ lục cao hơn nữa lên tới 43%/năm...
à Lãi suất tăng vọt kéo theo tác động đến cung – cầu ngoại tệ:
Các NHTM lúc này cũng đẩy mạnh bán USD để huy động nội tệ
Người dân không còn giữ USD như trước mà chuyển sang mua vàng hoặc giữ tiền đồng để gửi tiết kiệm hưởng lãi suất cao
Những nhà đầu tư nước ngoài bán USD lấy VND rồi đem gửi tiết kiệm sẽ thu lại được lợi nhuận hơn là gửi tiết kiệm ở trong nước khi lãi suất ở VN đang tăng chóng mặt còn tỉ giá VND/USD thì giảm mạnh. Tập trung vào các đối tượng là nhà đầu tư nước ngoài đầu tư vào Trái phiếu Chính phủ Việt Nam (1,4 tỷ USD)
Kiều bào nước ngoài cũng gửi tiền về cho người thân ở Việt Nam để hưởng lãi suất.
- Bên cạnh đó:
Trên thị trường thế giới USD vẫn tiếp tục suy giảm, Cục dự trữ liên bang Mỹ (Fed) tiếp tục cắt giảm lãi suất cơ bản.
Lượng kiều hối dồn về khá lớn từ thời điểm cuối năm 2007 đến tháng 2/2008 (giai đoạn Tết âm lịch).
Kết quả:
Trong giai đoạn 3 tháng đầu năm, tỷ giá USD/VND trên thị trường liên ngân hàng liên tục sụt giảm (từ mức 16.112 đồng xuống 15.960 đồng. mức thấp nhất là 15.560 đồng/USD). Trên thị trường tự do, USD dao động từ mức 15.700 – 16.000 đồng/USD.
Tuy nhiên, từ cuối tháng 3, tỷ giá đảo chiều và tăng với tốc độ chóng mặt tạo cơn sốt USD trên cả thị trường liên ngân hàng lẫn thị trường tự do. từ mức khoảng 16.000 đồng/USD tỷ giá tăng dần đều và đột ngột tăng mạnh từ giữa tháng 6, đỉnh điểm lên đến 19.400 đồng/USD vào ngày 18/06, cách hơn 2.600 đồng so với mức trần, còn trên TTTD cao hơn khoảng 100-150 đồng, Nguyên nhân đến từ các nhân tố khác:
Do mặt bằng lãi suất nội tệ quá cao, trong khi tỷ giá USD lại ở mức thấp và lãi suất vay USD lại không biến động nhiều nên doanh nghiệp xuất khẩu vay USD chuyển đổi ra VND để phục vụ SXKD, DN nhập khẩu vay ngoại tệ thanh toán các hợp đồng nhập khẩu
Nhu cầu mua ngoại tệ trả các khoản nợ của cả DN xuất và nhập khẩu đến hạn cao.
Tăng nhập khẩu vàng do chênh lệch lớn giữa giá vàng trong nước và quốc tế. nhu cầu ngoại tệ đối với nhập khẩu tăng khá mạnh làm cho nguồn cung USD bị sức ép lớn
Nhà ĐTNN bắt đầu rút vốn khỏi Việt nam bằng việc bán TPCP khi lo ngại về tình hình kinh tế và do tình hình thanh khoản thấp trên thị trường thế giới đẩy nhu cầu mua USD chuyển vốn về nước lên cao (bán ròng 0,86 tỷ USD).
Cung ngoại tệ thấp do NHNN không cho phép cho vay ngoại tệ đối với DN XK (theo quyết định số 09/2008/QĐ, NHNN không cho phép vay để chiết khấu bộ chứng từ xuất khẩu, vay thực hiện dự án sản xuất xuất khẩu) giảm hiện tượng DNXK vay ngoại tế bán lại trên thị trường.
cả thị trường chỉ có chiều mua ngoại tệ đã tác động mạnh đến tâm lý găm giữ ngoại tệ của người đầu cơ.
1.3.2. Giai đoạn 2 (từ 11/06 – 15/10/2008):
Diễn biến chính sách:
Trước tình trạng sốt USD ở mức báo động , NHNN đã có các can thiệp kịp thời
- Ngày 11-6-2008, điều chỉnh tỷ giá bình quân liên ngân hàng từ 16.139 đồng/USD ngày 10-6-2008 lên 16.461 đồng/USD, tăng 322 đồng/USD hay tiền đồng mất giá 2% so với USD để phản ánh sát hơn cung cầu thị trường
- Ngày 27-6-2008, điều chỉnh tỷ giá liên ngân hàng tăng lên 16.516 đồng/USD, đồng thời mở rộng biên độ dao động tỷ giá giao dịch USD/VND từ mức ±1% lên mức ±2%. Kết quả tiền đồng trượt giá thêm 1,37% so với USD.
- Yêu cầu các tổ chức tín dụng được phép kinh doanh ngoại hối nghiêm túc chấp hành quy định về biên độ tỷ giá giữa VND và USD, thực hiện niêm yết và giao dịch theo đúng quy định;
- Tăng cường bán ngoại tệ cho các NHTM để đáp ứng nhu cầu ngoại tệ của nền kinh tế, đáp ứng tối đa các nhu cầu thiết yếu như nhập khẩu xăng dầu, thuốc chữa bệnh, thuốc bảo vệ thực vật, phân bón, thiết bị y tế, đồng thời hỗ trợ ngoại tệ cho các ngân hàng có phục vụ nhu cầu trả nợ vay hoặc thanh toán L/C đến hạn, các nhu cầu ngoại tệ hợp pháp của cá nhân và hỗ trợ trạng thái cho các NHTM;
- Yêu cầu các tổ chức tín dụng kiểm soát chặt chẽ và chấn chỉnh hoạt động của các đại lý, bàn đổi ngoại tệ (cấm mua bán ngoại tệ trên thị trường tự do không đăng ký với các NHTM) bảo đảm thực hiện nghiêm túc các quy định hiện hành về quản lý ngoại hối.
- Cấm mua, bán USD thông qua ngoại tệ khác để lách biên độ.
- Cấm nhập khẩu vàng và cho phép xuất khẩu vàng.
- Kiểm soát nhập khẩu các mặt hàng không thiết yếu đặc biệt ô tô và hàng xa xỉ.
Các nhân tố ảnh hưởng khác:
- NHNN tăng mạnh lãi suất cơ bản từ 8,75%/năm lên 12%/năm vào tháng 5, rồi sau đó tăng lên 14%/năm vào tháng 6, nhằm tập trung nguồn tiền đồng vào hệ thống ngân hàng, kiềm chế lạm phát và giảm áp lực lên tỷ giá;
- Công bố mức dự trữ ngoại hối Nhà nước 20,7tỷ USD, củng cố lòng tin thị trường;
- Lạm phát tháng 07 đã tăng chậm lại ở mức tăng 1,13% so với tháng trước.
- Lãi suất ổn định.
- Thâm hụt thương mại giảm hơn so với các tháng đầu năm.
Kết quả:
Với các biện pháp đồng bộ của NHNN, thị trường ngoại hối đã ổn định trở lại. Tỷ giá giảm mạnh từ 19.400 đồng/USD xuống 16.400 đồng/USD và giao dịch bình ổn quanh mức 16.600 đồng trong giai đoạn từ tháng 8 – tháng 11.
1.3.3. Giai đoạn 3 (từ 16/10 đến hết năm 2008):
Diễn biến chính sách:
Bán ngoại tệ can thiệp thị trường thông qua các NHTM lớn từ 22/10 – 22/11. Tổng giá trị bán khoảng 1 tỷ USD
Từ ngày 7/11/2008, biên độ tỉ giá giao dịch USD/VND được mở rộng từ mức 2% lên 3% so với tỉ giá bình quân liên ngân hàng do NHNN công bố (Quyết định số 2635/QĐ-NHNN ngày 6/11/2008), trong thời điểm cung ngoại tệ hạn chế.
Các nhân tố ảnh hưởng khác:
- Các công cụ khác trong chính sách tiền tệ: Ngày 20/10/2008, NHNN ban hành 1 loạt những thay đổi lớn trong điều hành chính sách tiền tệ.
Quyết định số 2316/QĐ-NHNN về mức lãi suất cơ bản bằng đồng Việt Nam giảm từ 14%/năm xuống 13%/năm. Theo đó lãi suất cho vay bằng VND của các ngân hàng thương mại trên thị trường từ ngày 21/10/2008 tối đa là 19,5%/năm, thay cho mức 21%/năm trước đó.
Quyết định số 2317/QD- NHNN về quy định cho thanh khoản trước hạn 20.300 tỷ đồng tín phiếu ngân hàng nhà nước bắt buộc theo nhu cầu của các tổ chức tín dụng.
Quyết định số 2318/QĐ-NHNN về:
+ lãi suất tái cấp vốn được giảm từ 15%/năm xuống 14%/năm;
+ lãi suất tái chiết khấu giảm từ 13%/năm xuống 12%/năm;
+ lãi suất cho vay qua đêm trong thanh toán điện tử liên ngân hàng và cho vay bù đắp thiếu hụt trong thanh toán bù trừ của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đối với các ngân hàng giảm từ 15%/năm xuống 14%/năm.
Quyết định số 2321/QĐ-NHNN về lãi suất tiền gửi dự trữ bắt buộc bằng đồng Việt Nam đối với tổ chức tín dụng tăng từ 5%/năm tăng lên 10%/năm.
Ngân hàng Nhà nước giảm lãi suất cơ bản, giảm lãi suất tái chiết khấu và tái cấp vốn, tăng lãi suất tiền gửi dự trữ bắt buộc, thanh toán tín phiếu bắt buộc trước hạn, với mục đích tạo điều kiện để các ngân hàng giảm lãi suất, cung thêm tiền vào lưu thông. Từ đây có tâm lý lo ngại đà tăng lạm phát có thể tái diễn, VND mất giá nên một số người dân có xu hướng mua USD vào để dự trữ.
- Bên cạnh đó:
Thâm hụt thương mại có dấu hiệu tăng trở lại (khoảng 1,17 tỷ USD).
Trong khoảng thời gian từ tháng 10 - tháng 11, nhà đầu tư nước ngoài đẩy mạnh việc bán ra chứng khoán trong đó bán trái phiếu (700 triệu USD), cổ phiếu (100 triệu USD). Nhu cầu mua ngoại tệ của khối nhà đầu tư nước ngoài tăng cao khi muốn đảm bảo thanh khoản của tổ chức tại chính quốc. Nhu cầu mua USD của các ngân hàng nước ngoài cũng tăng mạnh (khoảng 40 triệu USD/ngày).
Cầu USD trên thị trường tự do tăng cao bởi khi NHNN không cho phép nhập vàng thì hiện tượng nhập lậu vàng gia tăng, làm tăng cầu USD để nhập khẩu (do USD là đồng tiền thanh toán chính).
Một số nhà nhập khẩu thực hiện việc thu gom USD đón đầu để chuẩn bị thanh toán vào thời điểm cuối năm.
Kết quả:
Tỷ giá USD/VND tăng đột ngột trở lại từ mức 16.600 lên mức cao nhất là 16.998 sau đó giảm nhẹ. Giao dịch nằm trong biên độ tỷ giá. Tuy nhiên cung hạn chế, cầu ngoại tệ vẫn lớn. Sau khi NHNN tăng biên độ tỷ giá từ 2% lên 3% trong ngày 7/11/2008, tăng tới mức 17.440 đồng/USD.
Diễn biến tỷ giá USD/VND năm 2008 - Nguồn: BIDV
2. NĂM 2009:
2.1. Bối cảnh kinh tế thế giới và Việt Nam:
Nền kinh tế nói chung và ngành tài chính nói riêng phải đối mặt với thách thức cả từ bên trong và bên ngoài. Cuộc khủng hoảng tài chính dẫn đến suy thoái kinh tế ở những thị trường xuất khẩu và nhập khẩu chủ lực của VN, sự giảm sút các dòng vốn đầu tư từ bên ngoài vào VN. Tỷ lệ lạm phát năm 2008 ở mức cao (19,98%). Cán cân thương mại thâm hụt mạnh (12.783 tỷ USD), tâm lí lo lắng của nền kinh tế.
2.2. Điều hành chính sách tiền tệ nói chung:
Nối tiếp chính sách tiền tệ nửa cuối năm 2008, năm 2009 chính sách tiền tệ của Việt Nam tập trung vào chống suy giảm kinh tế, kích thích kinh tế phục hồi. Vào thời gian cuối năm khi kinh tế đã có dấu hiệu phục hồi, tuy nhiên lại xuất hiện vấn đề lạm phát, CSTT lại một lần nữa được điều chỉnh theo hướng thận trọng hơn, tập trung vào hiệu quả của việc sử dụng vốn, hỗ trợ thanh khoản, hay nói cách khác vào thời gian cuối năm, CSTT có dấu hiệu thắt chặt.
2.3. CHÍNH SÁCH TỶ GIÁ NĂM 2009:
2.3.1. Giai đoạn 1 (từ 01/01 - 24/11/2009):
Diễn biến chính sách:
- Ngày 18/1/2009, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đã điều chỉnh dự trữ bắt buộc bằng ngoại tệ đối với các tổ chức tín dụng (TCTD) theo chiều hướng giảm.
- Ngày 24/2, Thống đốc Ngân hàng Nhà nước ký ban hành Quyết định về điều chỉnh tỷ lệ dự trữ bắt buộc của các tổ chức tín dụng và quyết định giữ nguyên lãi suất cơ bản bằng đồng Việt Nam như hiện hành là 7%/năm.
- Ngày 23/3, Thống đốc Ngân hàng Nhà nước đã ký quyết định số 622/QĐ-NHNN ngày về điều chỉnh biên độ tỷ giá VND/USD lên mức +/-5% thay cho mức +/-3% hiện hành. Điều chỉnh sẽ giúp cho tỷ giá biến động hai chiều linh hoạt hơn, bám sát cung cầu ngoại tệ trên thị trường. Đồng thời tạo điều kiện cho các ngân hàng và doanh nghiệp chủ động lập phương án sản xuất kinh doanh trong năm 2009.
Các yếu tố ảnh hưởng khác:
Tâm lý bất ổn muốn găm giữ USD của người dân khi thấy tỷ giá tăng nhanh. Các doanh nghiệp xuất khẩu hay các doanh nghiệp có nguồn thu bằng ngoại tệ thì găm giữ trên tài khoản hoặc chỉ bán nhỏ giọt cho thị trường. Các doanh nghiệp nhập khẩu vội vã mua ngoại tệ. Một bộ phận người dân cũng chuyển từ tiền gửi nội tệ sang tiền gửi ngoại tệ. Điều này lại càng làm trầm trọng hơn tình trạng mất cân đối cung-cầu ngoại tệ trên thị trường ngoại hối.
Do tác động của chính sách hỗ trợ lãi suất cho các DN bằng tiền đồng, do lãi suất vay tiền đồng thấp, phạm vi và thời gian vay được mở rộng theo chủ trương của chính phủ nên một số DN có ngoại tệ có xu hướng không muốn bán ngoại tệ và chỉ muốn vay tiền đồng. Đây là 1 tác động thiếu tích cực không mong muốn khi triển khai gói kích cầu.
Nguồn vốn FDI giảm cả về số lượng đăng kí và giải ngân. Nguồn kiều hối, một trong những nguồn vốn đóng góp quan trọng vào đầu tư trong nước cũng suy giảm nghiêm trọng. Sự suy giảm nguồn cung cấp USD gây áp lực lên tỷ giá.
Ngoài ra, còn 1 số nguyên nhân khác như: thâm hụt cán cân thương mại lớn các tháng cuối năm 2008, thâm hụt ngân sách kéo dài, yếu tố tin đồn,…
Kết quả:
Tỷ giá liên tục tăng trên cả thị trường liên ngân hàng và thị trường tự do.
+ Từ tháng 1 đến tháng 3: tỷ giá liên NH dao động trong khoảng 17.450- 17.700 đồng/USD, cách giá trần khoảng từ 0-200 đồng, còn TTTD cao hơn tỷ giá liên NH khoảng 100 đồng.
+ Từ tháng 4 đến tháng 9: tỷ giá trên 2 thị trường dao động trong khoảng 18.180-18.500 đồng/USD.
+ Từ tháng 10 đến 25/11/2009: Biến động tỷ giá rất dữ dội từ 18.545- 19.300 đồng/USD, có lúc đạt đỉnh 19.750 đồng/USD trên thị trường liên NH và 20.000 đồng/USD trên TTTD.
2.3.2. Giai đoạn 2 (từ 25/11 đến hết năm 2009):
Diễn biến chính sách:
NHNN vừa điều chỉnh tỷ giá vừa can thiệp mạnh vào thị trường ngoại hối mục đích để bình ổn thị trường ngoại hối đang chịu nhiều áp lực vừa đảm bảo cung cấp đủ ngoại tệ cho hoạt động thanh toán.
Biên độ tỷ giá mới cho giao dịch mua bán giao ngay giữa USD và VND được điều chỉnh giảm từ +/-5% còn +/-3% từ ngày 26.11.2009.
Đề nghị thủ tướng yêu cầu các tập đoàn kinh tế lớn của nhà nước đang nắm giữ một lượng lớn ngoại tệ trên tài khoản bán ngoại tệ cho NHNN để tăng cung ngoại tệ trên thị trường, giảm áp lực về nhu cầu ngoại tệ. Đến ngày 30/12/2009, Ngân hàng Nhà nước tiếp tục đã ban hành Thông tư quy định chi tiết 7 tập đoàn, Tổng công ty nhà nước và các doanh nghiệp thành viên có 50% vốn nhà nước có nghĩa vụ bán lại ngoại tệ cho các ngân hàng thương mại và được quyền mua lại ngoại tệ trong phạm vi đã bán với mục đích giúp giải nhiệt thị trường ngoại tệ.
Ngày 15/12/2009, Ngân hàng Nhà nước ban hành Thông tư số 25/2009/TT-NHNN mở rộng đối tượng được vay vốn bằng ngoại tệ, đặc biệt là các đối tượng xuất khẩu.
Các tổ chức tín dụng có trạng thái ngoại tệ từ âm 5% trở xuống lại được NHNN bán ngoại tệ hỗ trợ nhằm đảm bảo hệ thống ngân hàng cam kết cung cấp đủ ngoại tệ cho các doanh nghiệp xuất nhập khẩu, đặc biệt ưu tiên những mặt hàng nhập khẩu phục vụ sản xuất.
Yêu cầu các TCTD thực hiện nghiêm biên độ tỷ giá.
Các nhân tố ảnh hưởng khác:
- Sự phối hợp với các bộ, ngành kiểm tra, xử lý vi phạm đối với các hành vi quảng cáo, niêm yết giá hàng hóa bằng ngoại tệ, mua, bán ngoại tệ trái phép; tăng cường kiểm tra hoạt động mua bán ngoại tệ của các ngân hàng thương mại và hoạt động của các đại lý đổi ngoại tệ, xử lý nghiêm các vi phạm.
- Hiệp hội Ngân hàng yêu cầu các NHTM cổ phần đồng thuận giảm lãi suất huy động và cho vay bằng ngoại tệ như các NHTM nhà nước kể từ ngày 8/6/2009.
- Chính phủ giao Bộ Tài chính bán nguồn ngoại tệ thu được từ phát hành trái phiếu Chính phủ cho NHNN; đề nghị một số doanh nghiệp nhập khẩu lớn chuyển từ mua ngoại tệ sang vay bằng ngoại tệ; phối hợp chặt chẽ với Bộ Công thương trong việc kiểm soát nhập siêu và đáp ứng các nhu cầu ngoại tệ thiết yếu của nền kinh tế.
Kết quả:
+ Sau 1 giai đoạn đầy biến động, tỷ giá bắt đầu giảm và được giữ ổn định suốt những tháng cuối năm. Giá mua vào - bán ra tại các ngân hàng thương mại không được vượt quá 18.479 đồng/USD. Hầu hết các ngân hàng đều niêm yết kịch trần khung giá này trong suốt thời gian qua (giá mua vào thấp hơn bán ra khoảng 10 đồng).
+ Tuy nhiên chênh lệch với thị trường chợ đen vẫn là 1000VND/USD - một số lớn.
+ Cung cầu tiền tệ bình ổn, đảm bảo đủ ngoại tệ để nhập khẩu các hàng hóa thiết yếu, phục vụ sản xuất.
Diễn biến tỷ giá VND/USD năm 2008-2009
3. NĂM 2010: (3 quý đầu năm)
3.1. Bối cảnh kinh tế thế giới và Việt Nam cuối 2009 đầu 2010:
Kinh tế thế giới đã phục hồi nhưng vẫn còn bất định với hàm nghĩa rủi ro. Đầu năm 2010, IMF công bố tăng trưởng thế giới khoảng 4,1%, nhưng hồi phục có vẻ chưa chắc chắn: một loạt sự đổ vỡ ở Dubai vào cuối năm ngoái; 200 ngân hàng sụp đổ; hệ thống tài chính vẫn được nhận định còn tiềm ẩn rủi ro. Trên toàn thế giới, tỷ lệ thất nghiệp cao và ngày càng tăng lên, rất khó có thể giảm xuống.
Trước tình hình nền kinh tế vẫn chưa thực sự hồi phục và để làm giảm tình trạng thất nghiệp, NHTW Mỹ tiếp tục chính sách tiền tệ lỏng, giữ mức lãi suất cơ bản ở mức 0,25%, làm giá trị đồng USD tiếp tục yếu đi trên thị trường thế giới.
Ở trong nước, với tốc độ tăng trưởng tín dụng năm 2009 là 31,2% , tỷ lệ lạm phát ở mức 7,62%, và tốc độ tăng trưởng kinh tế 2009 là 5,2% thì đầu năm 2010 Việt Nam đứng trước nỗi lo lạm phát. Hai mục tiêu tăng trưởng và kiểm chế lạm phát thực sự đã đặt ra một bài toán cho điều hành chính sách kinh tế vĩ mô.
3.2. Điều hành chính sách tiền tệ nói chung:
Trước áp lực lạm phát và mục tiêu tăng trưởng, Chính phủ Việt Nam đã chọn kiểm chế lạm phát làm mục tiêu cho điều hành nền kinh tế. NHNN thực hiện chính sách tiền tệ thắt chặt, thu hẹp tín dụng, giữ mức lãi suất cơ bản ở mức 8%. Đồng thời cũng dừng việc triển khai gói kích cầu thứ 2.
3.3. CHÍNH SÁCH TỶ GIÁ 3 QUÝ ĐẦU 2010:
3.3.1. Giai đoạn 1: (từ 01/01- 10/02/2010)
Diễn biến chính sách:
- Ngày 30/12/2009, với chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ, Ngân hàng Nhà nước chính thức ban hành thông tư hướng dẫn việc các tập đoàn, tổng công ty lớn của Nhà nước bán lại ngoại tệ cho các ngân hàng. Việc bán lại được thực hiện khá nhanh sau đó và tạo một nguồn cung đáng kể, hỗ trợ các ngân hàng cải thiện trạng thái ngoại tệ vốn căng thẳng trước đó.
- Ngày 18/1/2010, Ngân hàng Nhà nước có Quyết định số 74/QĐ-NHNN giảm mạnh tỷ lệ dự trữ bắt buộc bằng ngoại tệ đối với các tổ chức tín dụng. Việc giảm tỷ lệ dự trữ bắt buộc bằng ngoại tệ từ 7% xuống 4% đối với kỳ hạn dưới 12 tháng, từ 3% xuống 2% đối với kỳ hạn trên 12 tháng đã làm tăng nguồn vốn khoảng 500 triệu USD (9.000 tỷ đồng) cho các ngân hàng thương mại để cho vay trên thị trường
- Ngay sau đó, Ngân hàng Nhà nước tiếp tục ban hành Thông tư số 03/2010/TT-NHNN, quy định mức lãi suất tiền gửi tối đa bằng USD của tổ chức kinh tế tại tổ chức tín dụng là 1%/năm. Đây được xem là một “cú hích” mạnh khi ảnh hưởng trực tiếp đến lợi ích của các tổ chức kinh tế có tiền gửi bằng USD, khi lãi suất trước đó được hưởng có từ 4% - 4,5%/năm. Quy định này được bình luận là đặt các tổ chức đó vào thế “tự xử”, phải tính toán lợi ích và xem xét bán lại ngoại tệ, chuyển sang VND để có lãi suất tiền gửi cao hơn. Khớp với chính sách này, các ngân hàng thương mại đồng loạt tăng giá USD mua vào để thu hút nguồn ngoại tệ tiềm năng này
- Ngày 11/2/2010, NHNN công bố nâng tỷ giá thêm hơn 3%, tương ứng 603VND, lên mức 18.544 VND và cố định từ đó cho đến ngày 17/8.
Các nhân tố ảnh hưởng khác:
NHNN tăng cường đàm phán, giải ngân hàng loạt các khoản vay song phương và đa phương như các khoản vay với Chính phủ Nhật Bản, các khoản vay của WB, ADB cũng như tăng cường công tác tuyên truyền, cung cấp thông tin như thông tin về dự trữ ngoại hối.
Các nguồn cung cấp USD khác cũng tăng: vốn đầu tư trực tiếp (thực hiện tháng 1 tăng 33,3%); vốn đầu tư gián tiếp khi các nhà đầu tư nước ngoài liên tục mua ròng trên thị trường chứng khoán; nguồn kiều hối từ Việt kiều và từ lao động làm việc ở nước ngoài gia tăng; nguồn thu từ khách quốc tế đến Việt Nam gia tăng trở lại (tháng 1 tăng 20,4%);
Kim ngạch xuất khẩu chuyển từ tăng trưởng âm sang tăng trưởng dương…
Lãi suất vay VND tăng cao đầu năm 2010, lên từ 15% - 17%, thậm chí 18%/năm, trong khi lãi suất vay USD chỉ khoảng 6% - 9%/năm. Chênh lệch này khiến một bộ phận doanh nghiệp chọn “đường vòng” vay USD rồi bán lại lấy vốn VND, tăng cung ngoại tệ cho thị trường. Ngoài chênh lệch lãi suất lớn, lựa chọn này được hỗ trợ bởi kỳ vọng tỷ giá USD/VND sẽ ổn định, hoặc rủi ro biến động không quá lớn trong kỳ vay vốn.
Kết quả:
+ Từ đầu năm đến 10/02/2010, mức tỷ giá được tiếp tục duy trì bằng tỷ giá cuối năm 2009. Tỷ giá liên ngân hàng được ổn định ở mức 18.479 đồng/USD. Trên thị trường chợ đen, tỷ giá cũng xấp xỉ ở mức 18530 VND/USD.
+ Ngày 11/2/2010, theo công bố NHNN, tỷ giá tăng thêm hơn 3%, tương ứng 603VND, lên mức 18.544 VND và cố định từ đó cho đến ngày 17/8.
+ Thị trường ngoại hối đã chuyển dịch từ trạng thái thiếu hụt sang dư cung nhẹ, tỉ giá USD/VND trên thị trường tự do đã được bình ổn từ mức xấp xỉ 20.000 xuống còn gần 19.000, thấp hơn mức giao dịch của các NHTM. Từ quí II/2010, NHNN đã bắt đầu mua được ngoại tệ từ các NHTM bổ sung dự trữ ngoại hối nhà nước, trạng thái ngoại tệ của các NHTM được duy trì ở trạng thái dương.
3.3.2. Giai đoạn 2 (Từ 17/8 - hết quý 3/2010):
Diễn biến chính sách:
- Ngày 17/8, NHNN tiếp tục công bố nâng mức tỷ giá lên mức 18932, làm đồng VND giảm 5,34% và giữ nguyên biên độ tỷ giá +/-3%. Các NHTM niêm yết tỷ giá xung quanh mức 19450 VND/USD.
* Giải thích cho động thái này: Sau đợt phá giá tiền đồng vào tháng 2, thị trường ngoại hối có vẻ như khá yên ả, tỷ giá liên ngân hàng được giữ nguyên, chênh lệch tỷ giá thị trường tự do và tỷ giá NHTM thu hẹp, trạng thái ngoại tệ của các NH luôn ở mức thặng dư. Nhưng dưới sự bình lặng đó, là cơn sóng âm ỉ manh nha từ đầu quý 3, xuất phát từ tăng trưởng dư nợ ngoại tệ tăng đột biến kể từ đầu năm, các doanh nghiệp chấp nhận rủi ro về tỷ giá, vì không thể chịu nổi lãi suất tiền đồng quá cao. Trong 7 tháng đầu năm, tăng trưởng tín dụng ngoại tệ lên tới 34,4%, so với 8.4% dư nợ tiền đồng. Nhưng bản thân doanh nghiệp cũng tự đề phòng bằng cách vay với kỳ hạn ngắn (3-6 tháng), theo đó, từ tháng 7, nhu cầu trả nợ vay USD khi đến thời điểm đáo hạn tăng cao, gây sức ép lớn đến cầu ngoại tệ. NHNN bắt đầu lo lắng, và từ giữa tháng 6 đã phải kiểm soát chặt tín dụng ngoại tệ. Các doanh nghiệp chưa hoặc không có nguồn thu ngoại tệ đôn đáo thu gom USD đề phòng khan hiếm ngoại tệ, các doanh nghiệp có nguồn thu ngoại tệ thì không muốn bán ngoại tệ cho NH do e ngại không thể mua lại nếu có nhu cầu vào cuối năm. Chính vì vậy, tỷ giá thị trường tự do đã bắt đầu tăng trở lại từ cuối tháng 7, nới rộng khoảng cách với tỷ giá chính thức. Đến ngày 17/8 khi sự chênh lệch này đã ở mức rất lớn, để tránh tình trạng chảy USD ra ngoài hệ thống, đảm bảo cung USD vào cuối năm, NHNN đã buộc phải tăng tỷ giá.
Các nhân tố ảnh hưởng khác:
Tâm lý găm giữ USD của những doanh nghiệp có nguồn thu và người dân. Bởi toàn hệ thống tháng 10 vẫn đang dương 250-300 triệu USD. Trên thực tế, khi từ khi Ngân hàng Nhà nước thực hiện chủ trương kết nối một phần với một số tập đoàn, tổng công ty nhà nước (buộc các doanh nghiệp bán ngoại tệ cho ngân hàng), tình trạng găm giữ trên tài khoản vẫn còn phổ biến với những doanh nghiệp không thuộc diện bắt buộc phải bán. Chính điều này một phần gây ảnh hưởng đáng kể đến tỷ giá từ đầu tháng 10 đến nay.
Việc để mức lãi suất cho vay bằng USD những tháng đầu năm ở mức thấp khiến tăng trưởng tín dụng bằng USD tăng cao cũng làm cho áp lực cầu USD thêm gay gắt khi đến cuối năm những khoản nợ đến kì thanh toán.
Những tháng cuối năm là đợt cao điểm nhập khẩu nên làm gia tăng cầu USD.
Có các thông tin kém tích cực về lạm phát và nhập siêu 9 tháng đầu năm.
Kết quả:
+ Từ 18/8, tỷ giá bình quân liên NH áp dụng mức 18.932 VND/USD, thay cho mức 18.544 VND/USD.
+ Cuối tháng 9, tình hình thị trường ngoại hối căng thẳng, tỷ giá chợ đen tăng từng ngày, cuối tháng 9 ở mức 19.670 đồng.
Biểu đổ Diễn biến các loại tỷ giá trên thị trường Việt Nam từ 1/2/2010 cho đến 1/8/2010
Bonus: tình hình từ đầu quý IV đến nay:
(Tình hình thị trường ngoại hối tháng 9 căng thẳng.)
Diễn biến chính sách:
Để bình ổn lại nền tài chính quốc gia, ngày 5/11/2010, Chủ tịch ủy ban giám sát tài chính quốc gia thông báo NHNN sẽ không tăng tỷ giá trong thời gian tới. Thay vào đó, biện pháp được đưa ra là NHNN sẽ can thiệp mạnh trên thị trường ngoại hối bằng việc bán USD dự trữ ra tăng cung cho thị trường.
Giải thích cho việc lựa chọn biện pháp đó là bởi vì :
+ Việc tăng tỷ giá chính thức sẽ tiếp tục làm giảm lòng tin của người dân vào VND, gây tâm lý bất an, người dân sẽ tiếp tục găm giữ USD hay vàng để lưu giữ giá tiền. Như vậy tình hình tỷ giá sẽ càng căng thẳng hơn. Ngoài ra, trong khi cơ cấu nhập khẩu của nước ta thì chủ yếu là nguyên vật liệu, máy móc, phân đạm, xăng dầu là các hàng hóa thiết yếu cho nền kinh tế cũng như để sản xuất hàng xuất khẩu. Như vậy, tăng tỷ giá cũng đồng thời đi kèm với nỗi lo lạm phát tăng cao, đặc biệt trong bối cảnh, chỉ số CPI những tháng 9 là 1,31% so với tháng 8, và tháng 10 là 1,09% so với tháng 9. Dự báo việc giữ tỷ lệ lạm phát ở mức chỉ tiêu 8%/năm là rất khó có thể đạt được.
+ Chính vì vậy, biện pháp NHNN can thiệp bán trên thị trường ngoại hối đã được sử dụng. Hiện tại, Tình hình vĩ mô hiện tại đủ mạnh để thực hiện can thiệp vào thị trường ngoại hối. Xuất khẩu 10 tháng tăng rất mạnh và dự báo cả năm có thể tăng 23% (kế hoạch chỉ 18%), nhập khẩu kiềm chế tốt. Nhập siêu dự kiến trước đây khoảng 13,5 tỷ USD - 14 tỷ USD thì được kiềm chế cả năm xuống khoảng 12,5 tỷ USD, thậm chí nếu thực hiện tốt chỉ khoảng 12 tỷ USD. Cán cân thanh toán năm 2009 thâm hụt xấp xỉ 9 tỷ USD nhưng năm 2010 đến thời điểm này dự báo chỉ khoảng 4 tỷ USD, giảm rất mạnh. Tăng trưởng GDP năm nay có khả năng vượt kế hoạch.
+ Đi kèm với chính sách tỷ giá, để tăng niềm tin của người dân vào VND, cũng vào ngày 5/11, NHNN đã công bố mức lãi suất cơ bản được nâng lên ở mức 9%/năm; lãi suất tái cấp vốn của Ngân hàng Nhà nước đối với các tổ chức tín dụng là 9% một năm (tăng 1%); lãi suất tái chiết khấu mới là 7% một năm (tăng 1%) và cam kết không tăng lãi suất cho vay và huy động USD. Nhưng đồng thời cũng cam kết sẽ điều tiết lãi suất theo hướng định hướng thị trường. Điều này sẽ giúp đưa VND về gần với giá trị thị trường của nó, hạn chế việc người dân tiếp tục lựa chọn USD làm công cụ lưu giữ giá trị. Thực tế, trên thế giới USD đang mất giá thậm chí cả với đồng Kip của Lào. Người dân Việt Nam tất yếu cũng sẽ giảm dần nhu cầu này. Việc đồng thời sử dụng cả biện pháp trên thị trường ngoại hối và trên thị trường tiền tệ có thể làm giảm tác động qua lại của tỷ giá và lãi suất, từ đó làm tăng tính độc lập của VND so với USD.
CHƯƠNG III - ĐÁNH GIÁ VÀ ĐỀ XUẤT GIẢI PHÁP
HOÀN THIỆN CHÍNH SÁCH TỶ GIÁ.
1. Đánh giá:
1.1. Đánh giá về hành động của NHTW trong quá trình thực thi chính sách:
+ Ưu điểm:
Trong bối cảnh cung cầu ngoại tệ và tỷ giá trên thị trường biến động phức tạp, có những thời điểm biến động đột biến như thời gian qua, NHNN đã kịp thời bám sát diễn biến thị trường, thường xuyên giám sát, cập nhật thông tin và đánh giá các dòng vốn vào ra để có chính sách điều hành tỷ giá thích hợp. Thời điểm thị trường dư cầu, NHNN đã kịp thời điều chỉnh tăng nguồn cung ngoại tệ, hạ nhiệt thị trường. Ngược lại, thời điểm thị trường dư cung, NHNN mua ngoại tệ vào ở mức hợp lý, bảo đảm tỷ giá không giảm sâu, nhằm thực hiện mục tiêu kiềm chế nhập siêu.
Đạt được sự đồng bộ trong phối hợp chính sách tỷ giá với các thành phần khác của chính sách tiền tệ trong sự nghiêm ngặt thực hiện mục tiêu chung của cả nền kinh tế. Đồng thời, có được sự phối hợp tốt giữa NHNN và các NHTM.
+ Nhược điểm:
Cách điều hành còn bảo thủ, cứng nhắc:
Công cụ duy nhất để điều hòa thị trường ngoại tệ là tung ngoại hối ra và nới lỏng biên độ hoặc sử dụng các biện pháp kỹ thuật về tiền tệ. Vẫn còn sử dụng nhiều các biện pháp hành chính để can thiệp: có giai đoạn Ngân hàng còn đề ra mức khống chế lượng bán ra trong ngày đối với từng chi nhánh tùy theo quy mô của chi nhánh đó hoặc ra văn bản yêu cầu 7 tập đoàn, tổng công ty Nhà nước bán ngoại tệ dưới dạng tiền gửi và các nguồn thu vãng lai cho các tổ chức tín dụng được phép hoạt động ngoại hối.
Bên cạnh đó, còn thiếu công cụ phòng ngừa rủi ro dẫn đến quản lý thị trường ngoại hối cũng có những hạn chế nhất định trong việc chuyển đổi tiền tệ, kiểm soát chênh lệch kỳ hạn.
Thiếu minh bạch thông tin:
Nguyên nhân đầu tiên khiến việc điều hành tỷ giá “méo mó” như thời gian qua là do sự cam kết của NHNN. Ngân hàng càng cam kết thì thị trường càng không tin, đầu tiên là hệ thống NHTM. NHNN cam kết nhưng lại thiếu minh bạch thông tin (về dự trữ, cán cân thanh toán quốc tế…) người dân, doanh nghiệp cần những thông tin này nhưng mỗi người nói một câu, người thì đưa ra thông tin lượng kiều hối giảm, người thì đưa ra FDI giảm… mà không có thông tin tổng thể.
Ví dụ như trường hợp ngày 25/11/2009, Thống đốc NHNN Nguyễn Văn Giàu đã ra quyết giảm biên độ dao động tỷ giá từ mức ±5% xuống còn ±3%, trong khi trước đó cam kết biên độ dao động sẽ giữ nguyên ở mức ±5% cho đến hết năm 2009. Qua đó, có thể thấy rõ tình trạng không thống nhất trong điều hành chính sách tỷ giá.
Thiếu sự thống kê các tác động, dẫn đến nguy cơ nhập siêu và lạm phát.
Chưa có sự nghiên cứu thống kê rõ ràng tác động của những điều chỉnh về tỷ giá đối với nền kinh tế. Việc VND bị định giá cao kết hợp với việc nền kinh tế VN phụ thuộc nhiều vào nhập khẩu cả về SX và tiêu dùng dẫn đến tình trạng nhập siêu là không tránh khỏi. Thêm và đó là nguy cơ lạm phát trong tương lại do độ “ trễ” của các chính sách.
1.2. Đánh giá về việc duy trì điều hành chính sách theo chế độ tỷ giá thả nổi có điều tiết:
Vì tỷ giá là một biến số kinh tế, có tác động lớn nhất, rõ ràng và nhanh chóng đến tình hình xuất nhập khẩu; các quốc gia luôn sử dụng tỷ giá trước hết là công cụ để điều chỉnh hoạt động xuất nhập khẩu của mình, nên trước khi đưa ra đánh giá tiếp theo, nhóm xin được có một tổng kết ngắn về tình trạng cán cân thương mại của Việt Nam trong 3 năm 2008-2010.
Diễn biến tỷ giá danh nghĩa, tỷ giá thực, cán cân thương mại của Việt Nam (2001 – 2010)
Năm
Tỷ giá danh nghĩa
E(USD/VND)
Chỉ số tỷ giá danh nghĩa hiệu quả (NEER)
Biến động chỉ số tỷ giá danh nghĩa hiệu quả năm (%)
Chỉ số tỷ giá thực hiệu quả (REER)
Biến động chỉ số tỷ giá thực hiệu quả năm (%)
Cán cân thương mại
(Triệu USD)
Tỉ lệ Xuất/Nhập
2000
1
1
2001
14.786
1,022
+2,2
1,001
+0,1
-1.200
0,944
2002
15.224
0,977
-4,4
0,983
-1,8
-1.054
0,852
2003
15.475
0,885
-9,2
0,906
-7,9
-2.582
0,794
2004
15.704
0,826
-6,7
0,893
-1,3
-2.287
0,825
2005
15.816
0,811
-1,8
0,932
+4,3
-838
0,874
2006
15.965
0,797
-1,7
0,967
+3,8
-2.439
0,887
2007
16.003
0,733
-8,0
1,002
+3,6
-10.360
0,775
2008
17.486
0,738
+0,7
1,191
+18,9
-12.782
0,777
2009
18.479
0,625
-15,3
1,068
-10,3
-8.306
0,825
2010
19.040(1)
-10.596(1)
0,858(1)
Nguồn: IMF Country Report; Tổng cục thống kê; Báo cáo thường niên của ngân hàng nhà nước Việt Nam các năm 2004, 2005, 2006, 2007, 2008
Ghi chú: (1) Số liệu ước tính đến tháng 10/2010
Qua bảng trên, cho thấy tỷ giá giữa USD và VND luôn tăng. Nếu lấy năm 2000 làm gốc thì chỉ số NEER nhìn chung có xu hướng giảm, chỉ số REER biến động nhiều khi không cùng chiều với NEER. Cán cân thương mại luôn thâm hụt.
Năm 2007: đồng USD mất giá so với các đồng tiền chủ chốt khác trên thế giới, nhưng do NHTW chủ động mua USD vào nên tỷ giá danh nghĩa USD/VND 6 tháng đầu năm vẫn tăng. REER tăng 3,6% nhưng tỷ giá NEER giảm 8%. Cuối năm thì VND tăng giá so với USD, cán cân thương mại thâm hụt 10,36 tỷ đô la.
Năm 2008: một năm đầy biến động của tỷ giá. Tỷ giá danh nghĩa tăng mạnh, chỉ số NEER và REER cùng tăng, trong đó REER tăng tới 18,9%. Điều này lẽ ra sẽ làm kích thích xuất khẩu, hạn chế nhập siêu nhưng thực tế lại hoàn toàn ngược lại. Do ảnh hưởng của khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế thế giới 2008 làm một số nước là đối tác thương mại của Việt Nam gặp khó khăn. Việt Nam bị ảnh hưởng của khủng hoảng kinh tế cũng gặp khó khăn trong việc sản xuất, xuất khẩu một số mặt hàng chủ lực mang lợi nhuận lớn cho nước ta ra nước ngoài. Từ đó, chúng ta phải nhập khẩu một số mặt hàng vốn là chủ lực của mình. Thêm vào đó là dòng vốn từ nước ngoài đổ vào nước ta ngày càng ít đi. Hậu quả là nhập siêu lớn hơn xuất siêu, thâm hụt thương mại Việt Nam tăng cao so với các năm trước (12,782 tỷ USD) bất chấp những nỗ lực làm tăng tỷ giá giữa USD và VND của NHTW.
Năm 2009: tỷ giá được điều chỉnh theo hướng giảm nhẹ đồng VND. Chỉ số NEER và REER cùng giảm khá mạnh do NHTW thực hiện chính sách tiền tệ mở rộng và nới lỏng chính sách tài khóa nhằm kích cầu trong nước. Các chính sách kinh tế vĩ mô này của Chính phủ đã giúp đạt được tăng trưởng kinh tế khá trong năm, lạm phát phát sinh ở mức thấp, tuy nhiên, chính sách này đã dẫn đến sự gia tăng nhu cầu nhập khẩu. Tình trạng thâm hụt cán cân thương mại Việt Nam năm 2009 giảm 35% so với năm 2008, chỉ còn 8,306 tỷ USD và chủ yếu do sự thay đổi của cung cầu về các nhóm hàng hoá có liên quan đến xuất - nhập khẩu, các nguyên nhiên liệu, máy móc, thiết bị ... những biến động bất lợi của thị truờng thế giới và khả năng cạnh tranh chưa thật cao của hàng hoá, dịch vụ Việt Nam trong điều kiện khủng hoảng tài chính và suy giảm kinh tế toàn cầu gây ra; chứ không phải do ảnh huởng của tỷ giá hối đoái.
3 quý đầu năm 2010: những tháng đầu năm, khi tỷ giá liên ngân hàng được giữ nguyên, chênh lệch tỷ giá thị trường tự do và tỷ giá NHTM thu hẹp đã làm tăng sức cạnh tranh của hàng hoá Việt Nam so với hàng nhập khẩu, từ đó chuyển dịch cán cân thương mại có lợi cho ổn định kinh tế vĩ mô của Việt Nam. Nhưng từ tháng 7 trở đi, dưới sức ép phải đảm bảo nguồn cung USD vào dịp cuối năm cho các DN nhập khẩu nên NHTW liên tục tăng tỷ giá USD/VND. Tiền VND bị phá giá ở mức 2% hầu như không ảnh hưởng đến khối lượng nhập khẩu, nhưng ngược lại kim ngạch nhập khẩu sẽ gia tăng, thâm hụt cán cân thương mại ước tính là 10,596 tỷ USD.
à Ở Việt Nam, nhìn chung, NHTW luôn cố gắng làm giảm giá VND so với USD để khuyến khích xuất khẩu, kiểm soát nhập khẩu. Bằng các công cụ của chính sách tỷ giá, NHTW đã có những tác động nhất định đến cán cân thương mại, đến xuất khẩu ròng của Việt Nam. Tuy nhiên, mức độ ảnh hưởng của các chính sách tỷ giá lên cán cân thương mại là không lớn.
Vậy có nên tiếp tục duy trì chế độ tỷ giá thả nổi có điều tiết hay không, hay chúng ta nên chuyển sang chế độ tỷ giá thả nổi hoàn toàn, ở đó, VND sẽ được xác định phù hợp với cung- cầu thị trường, không còn bị định giá cao hơn thực tế như hiện nay; hay chí ít là, NHNN cần điều hành tỷ giá một cách linh hoạt hơn nữa, giảm giá VND để khuyến khích xuất khẩu, hạn chế nhập khẩu do giá tăng, giảm thâm hụt thương mại (?)
Cũng dựa trên tìm hiểu từ phân tích của các chuyên gia kinh tế, nhóm thảo luận đồng nhất quan điểm là chưa nên có những biện pháp giảm giá mạnh VND, vì rất nhiều lý do như sau:
+ Cơ cấu xuất nhập khẩu của Việt Nam: những mặt hàng nhập khẩu đều là những mặt hàng máy móc thiết bị, nguyên vật liệu đầu vào mà trong nước chưa sản xuất được à khó mà giảm nhu cầu; nên nếu tỷ giá tăng cũng không hạn chế được phần nào khối lượng nhập khẩu mà lại đẩy giá trị nhập khẩu lên cao thêm và gây khó khăn cho doanh nghiệp sử dụng đầu vào là hàng nhập khẩu. Cũng trong khi đó, cơ cấu xuất khẩu của Việt Nam chủ yếu là nguyên liệu sơ chế, nông lâm thủy sản – ít phụ thuộc vào biến động giá; hoặc da giày, dệt may, đồ gỗ... – lại chủ yếu nhập khẩu đến 70-80% nguyên phụ liệu.
+ tỷ giá tăng sẽ khiến gánh nặng các khoản nợ của Chính phủ với nước ngoài càng tăng. Nợ của doanh nghiệp cũng tăng.
+ việc giảm giá quá mức sẽ làm mất niềm tin vào VND, vào khả năng kiểm soát tình hình của các cơ quan chức năng, có thể gây xáo trộn trong nền kinh tế và xã hội.
...
Do vậy, thay vì giảm giá VND, có thể phát triển các ngành hỗ trợ để giảm dần việc nhập khẩu nguyên liệu từ nước ngoài, trên hết là nâng cao năng lực cạnh tranh nền kinh tế bằng nâng cao năng lực cạnh tranh sản phẩm, doanh nghiệp; và thêm vào đó, thực hiện được các giải pháp hoàn thiện chính sách tỷ giá hiện tại, mà nhóm xin đề xuất như sau:
2. Giải pháp:
Để tỷ giá được bình ổn lâu dài thì chắc chắn hai yếu tố căn bản là nhập siêu và lạm phát phải được khống chế. Tuy vậy, đây là những yếu tố có tính cơ cấu, sẽ cần thêm nhiều thời gian và quyết tâm từ những nhà quản lý. Có một số điều cần phải làm ngay để bỉnh ổn tỷ giá.
Thứ nhất, việc quan trọng nhất cần làm để bình ổn tỷ giá trên thị trường là ổn định tâm lý của người dân. Cụ thể, cần phải giảm mức kỳ vọng về sự mất giá của tiền đồng bằng một chính sách minh bạch, nhất quán và khoa học trong điều hành kinh tế. Chính phủ phải thể hiện quyết tâm trong vấn đề giảm thâm hụt ngân sách, tăng hiệu quả đầu tư công và giám sát chặt hiệu quả của doanh nghiệp nhà nước.
Thứ hai, cần phải nhận ra một thực tế là thị trường cần một cơ chế điều hành tỷ giá linh động hơn. Việc giữ tỷ giá cố định kéo dài theo “mệnh lệnh hành chính” không phải là một giải pháp hiệu quả. Thay vào đó, việc điều chỉnh tỷ giá tham chiếu nên được thực hiện một cách linh hoạt theo những tín hiệu của thị trường. Tỷ giá bình quân liên ngân hàng phải thực sự là tỷ giá tham chiếu cho giao dịch trên thị trường.
Đồng thời, việc neo giá trị VND theo USD cũng nên được thay đổi neo trên một rổ tiền tệ nhất định nhằm làm tránh những tác động của tiêu cực của hiện tượng đôla hóa ở Việt Nam và sự phụ thuộc vào một nền kinh tế Mỹ.
Thứ ba, cần phải có những hành động kip thời để bình ổn tỷ giá. Những giải pháp phải thực hiện ngay là mạnh tay can thiệp để bình ổn bằng phương tiện vật chất. Cụ thể, nếu thị trường căng thẳng, ngoại tệ khan hiếm thì Ngân hàng Nhà nước phải can thiệp bán ngoại tệ ra. Số liệu từ Ủy ban Giám sát tài chính Quốc gia cho biết trong tháng 9, Ngân hàng Nhà nước đã mua tăng dự trữ được hơn 300 triệu USD, tháng 10 đã bán can thiệp 200 triệu USD, nhưng vẫn được đánh giá là chưa đủ mạnh để chặn đứng tâm lý khan hiếm ngoại tệ. Vì vậy,việc đáp ứng đủ nhu cầu ngoại tệ cho các hoạt động kinh tế cần thiết như xăng dầu, phân bón, vật tư thiết bị sản xuất kinh doanh, không ưu tiên nhập khẩu hàng hóa xa xỉ, tiêu dùng. Khi có nhu cầu thực sự đó, phải đáp ứng ngay, không gây khó khăn, xem xét lâu để tạo tâm lý thiếu ngoại tệ.
Tài liệu tham khảo :
1. Giáo trình Tài chính quốc tế. PGS. TS. Nguyễn Văn Tiến.
2. Thời báo Ngân hàng – số 151, ngày 20/9/2010.
3. Tạp chí Tài chính số tháng 8, 9, 10/2010.
4. Tạp chí Ngân hàng số tháng 3, 7, 10/2010
5. IMF Country Report.
6. Báo cáo thường niên của ngân hàng Nhà nước Việt Nam các năm 2006, 2007, 2008.
7. vneconomy.vn
8. www.sbv.gov.vn
NHÓM SINH VIÊN THỰC HIỆN:
Hoàng Thu Trà – NHE K11
Vũ Thị Thu Hảo – NHE K11
Lưu Minh Ngọc – NHE K11
Nguyễn Thị Thúy Ngần – NHE K11
Nguyễn Sơn Hải – NHE K11
Nguyễn Duy Hoàng – NHE K11
Hoàng Nghĩa Đức – NHE K11
Hoàng Ngọc Ánh – NHE K11
Nguyễn Thị Phương – TTQTB K11
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- TCQT Phn tch tnh hnh chnh sch t7927 gi v amp.doc