Bệnh gỉ sắt đậu tương:
- Bệnh do nấm Phakopsora sojae Saw gây ra. Bệnh gây hại nặng nhất trên lá, có
thể hại trên thân cành và quả. Lúc ban đầu ở mặt dưới lá, vết bệnh hình thành
dưới dạng những chấm nhỏ màu vàng trong. Sau đó, vết bệnh nổi lên trên mặt
lá có màu vàng nâu, biểu bì lá nát để lộ bào tử có màu vàng (màu gạch non).
Cây bị bệnh khiến lá sớm bị vàng, lượng diệp lục giảm nhanh chóng, cường độ
quang hợp và sự trao đổi chất trong cây giảm, năng suất và phẩm chất đậu
tương bị giảm sút nghiêm trọng.
- Đặc điểm phát sinh phát triển: Các vụ trồng đều bị bệnh nhưng bệnh phát sinh và
phá hại nặng nhất trong vụ đậu tương xuân. Các vụ đông, hè thu bệnh nhẹ hơn.
Ở vụ xuân khi bệnh nặng chỉ còn thu hoạch từ 0,8-2,5 tạ/ha, trong khi bình
thường năng suất đạt 5-8 tạ/ha. Vụ đông thời tiết lạnh, vụ hè và hè thu nhiệt độ
cao nấm khó hình thành bào từ và khó thực hiện nảy mầm, xâm nhiễm vì vậy
bệnh hại nhẹ hơn. Cao điểm của bệnh tập trung vào tháng 3, tháng 4 khi nhiệt
độ đạt trên 18-20oC và cây có từ khi 5 lá kép đến khi thu hoạch quả. Bệnh có
thể kéo dài tới tháng 5 làm lá cây rụng hàng loạt, ruộng đậu tương vàng rực
màu lá bệnh.
- Trong giai đoạn sinh trưởng từ cây mọc tới chớm hoa ít bị bệnh Từ ra hoa đến
thu hoạch quả là lúc bệnh phát triển nhanh nhất trên lá bánh tẻ và lá già. Các
giống đậu tương trồng ở nước ta đều bị nhiễm bệnh nhưng mức độ khác nhau.
Các giống ít bị nhiễm hoặc nhiễm muộn hơn hiện nay là: M103, DT93, DT84,
AK03, AK05, VX93,. Giống bị nhiễm nặng nhất là V74.
- Biện pháp phòng trừ: Chọn giống chống chịu bệnh và sản xuất giống sạch bệnh;
luân canh với các cây thuộc họ hòa thảo; xử lý giống bằng Bayphidan 10-15 g.
a.i/tạ hạt giống hoặc 200 g/tạ hạt. Có thể phun thuốc hạn chế bệnh bằng các
loại thuốc trừ gỉ sắt, đặc biệt như Baycor 25WP 0,1% (0,15-0,25 kg a.i/ha),
Bayleton 25EC (25WP) 120-250 g/ha, .
15 trang |
Chia sẻ: nhung.12 | Lượt xem: 1119 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Nông nghiệp - Cây đậu tương, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ởng tốt, đất
chua cần phải bón vôi để cải tạo.
7/18/15
8
Với một số loại đất ở Việt Nam:
- Vùng đất bạc màu: Việt Yên, Hiệp Hòa, Sóc Sơn,.... đất nhẹ, tỷ lệ cát
mịn nhiều hơn cát thô, đất chua, nghèo dinh dưỡng, năng suất không
cao nếu không bón đầy đủ phân hữu cơ, lân và vôi.
- Vùng đất cát ven biển: Hải Hậu, Diễn Châu,.... đất nhẹ, tỷ lệ cát thô
nhiều hơn cát mịn, màu sáng, không chua, dinh dưỡng cao hơn nên
có thể trồng đậu tương với năng suất khá
- Vùng đất phù sa ven sông: dinh dưỡng khá, không chua, thành phần
cơ giới nhẹ, trồng đậu tương đạt năng suất rất cao.
- Vùng đất đồi thấp: Vĩnh Phúc, Phú Thọ, Thái Nguyên. Đất do bị rửa
trôi, khô hạn, nếu trồng phải bón thêm vôi hoặc lân giúp làm giảm độ
chua. Nếu cải tạo tốt, có thể trồng đậu tương với năng suất khá.
- Vùng đất bazan như ở các tỉnh thuộc khu vực Tây Nguyên là loại đất
rất phù hợp cho cây đậu tương sinh trưởng, phát triển. Trồng đậu
tương trên đất này năng suất sẽ rất cao, tuy nhiên thường những
vùng đất này đã được quy hoạch trồng các loại cây công nghiệp thế
mạnh xuất khẩu khác như: cao su, cà phê,.... nên phần lớn các diện
tích trồng đậu tương chủ yếu là để tận dụng đất.
Chương 3. Kỹ thuật trồng trọt
1. Chế độ trồng trọt
a) Chế độ luân canh
- Vì sao phải luân canh tăng vụ trong sản xuất đậu tương?
- Yêu cầu của luân canh:
+ Thời vụ thích hợp cho sinh trưởng, phát triển
+ Hạn chế sự phát triển của dịch hại, cỏ dại;
+ Cây trồng có đặc điểm sinh trưởng và nhu cầu dinh dưỡng khác nhau
- Các công thức luân canh:
+ Các tỉnh thuộc miền núi phía Bắc:
Ngô xuân - Đậu tương hè - Bỏ hóa (cày ải qua đông)
Đậu tương gieo đầu mùa mưa, thu hoạch tháng 10. Sử dụng giống dài
ngày: Xanh lục khu, Vàng Lạng Sơn, Vàng Cao Bằng...
Đậu tương xuân - Lúa mùa - Bỏ hóa (cày ải qua đông)
Sử dụng giống chịu lạnh, khai thác diện tích bỏ hóa vụ xuân: AK06,
DN42, D140...
Một số công thức luân canh khác cũng được áp dụng ở vùng này:
Lúa xuân – Lúa mùa – Đậu tương đông
Lạc xuân – Đậu tương hè – Cây vụ đông
+ Vùng Trung du Bắc bộ:
Đậu tương xuân - Lúa mùa sớm - Cây vụ đông
Áp dụng trên đất vàn cao, cấy lúa không chủ động được nước. Chọn
các giống đậu tương chịu được rét như DN42, D140...
Lúa xuân - Đậu tương hè sớm – Lúa mùa muộn
Chọn giống ngắn ngày, chịu nóng như: Xanh lơ Hà Bắc, ĐT93, ĐT12...
Lạc xuân - Đậu tương hè trung - Ngô đông
Áp dụng trên đất chuyên trồng màu, sử dụng các giống trung ngày năng
suất cao M103, DT84, DT96,...
+ Vùng Đồng bằng Bắc bộ và khu 4 cũ:
Lúa xuân - Lúa mùa sớm - Đậu tương đông
Trên thực tế, ở nhiều địa phương như : Hà Tây (cũ), Bắc Ninh,... chọn
các giống có khả năng chịu rét như : DN42, DT2000, D140, AK06...
Đậu tương xuân - Lúa mùa sớm - Cây vụ đông
Áp dụng trên chân đất cao, diện tích áp dụng thường không lớn.
Đậu tương xuân - Ngập nước - Cây vụ đông
Áp dụng trên đất bãi ven sông thường bị ngập nước trong mùa mưa.
b) Trồng xen, trồng gối
-Tác dụng của trồng xen?
- Cây trồng xen
Tại Indonesia: dừa, ngô, mía; Philippin: ngô, mía; Thái Lan: bông. Ở
Trung Quốc: mía, ngô, bông,.... Còn ở Việt Nam, tùy theo cơ cấu của
mỗi vùng mà hình thức trồng xen có khác nhau:
+ Cây nghiệp ngắn ngày như mía: do mía là cây hàng rộng và có thời
kỳ đầu cây chưa khép tán, trồng xen 1 hàng đậu tương giữa hai
hàng mía cách nhau 40-45cm.
+ Ngô đông, trồng hai hàng ngô xen với 4-6 hàng đậu tương.
+ Đậu tương hè với dâu tằm giai đoạn đốn hè.
+ Với cây công nghiệp lâu năm: chè, cà phê, cao su hoặc cây ăn quả:
cam, quýt, mận,... thời kỳ kiến thiết cơ bản, khi cây chưa khép tán.
- Tác dụng của trồng gối?
- Một số công thức trồng gối có đậu tương:
Lúa xuân - Đậu tương hè - Ngô đông (gối thời kỳ đậu tương CSL)
Ngô xuân – Đậu tương hè (gối thời kỳ ngô thâm râu)
Lạc xuân – Đậu tương hè – Ngô đông (gối thời kỳ đậu tương CSL)
2. Giống đậu tương
* Các giống thích hợp cho vụ Xuân:
+ VX92: TGST 90 - 100 ngày. cây cao trung bình, ít phân cành, năng
suất trung bình 13 - 16 tạ/ha, thâm canh có thể đạt 20 tạ/ha. Giống
có khả năng chịu rét ở giai đoạn đầu, thích ứng rộng ở vùng đồng
bằng, trung du Bắc Bộ, miền núi phía Bắc có thể gieo vào vụ Xuân
muộn.
+ TL57: TGST 100 - 110 ngày, cao cây trung bình, cứng cây, có khả
năng chống đổ, năng suất từ 15 - 20 tạ/ha. Thích hợp nhất với vụ
xuân vùng đồng bằng, trung du Bắc Bộ, giống cũng có khả năng
trồng trong vụ đông.
+ DN42: TGST 90 - 95 ngày, tán gọn, cứng cây, phân cành trung bình,
năng suất từ 14 - 16tạ/ha. Thích hợp trên đất thịt nhẹ, đất đồi thấp,
đất bãi vùng đồng bằng và trung du Bắc Bộ.
+ AK06: TGST 95 - 98 ngày, dạng cây đứng, chiều cao trung bình, phân
cành vừa phải, năng suất từ 17-25 tạ/ha, chống chịu bệnh gỉ sắt khá,
chịu hạn, chịu nóng và lạnh ở mức khá. Giống có thể trồng được cả
ở vụ hè và vụ đông.
+ ĐT2000: TGST 100 - 110 ngày, chiều cao cây trung bình, thân to và
cứng, ít đổ, phân cành nhiều, năng suất từ 20-3- tạ/ha Trong điều
kiện thâm canh có thể đạt 40 tạ/ha, kháng bệnh gỉ sắt và bệnh phấn
trắng ở mức cao, chịu thâm canh, chịu hạn kém. Giống có thể gieo
trồng trên nhiều loại đất, nhưng thích hợp nhất là đất cát pha, thịt
nhẹ, giàu dinh dưỡng, dễ tưới tiêu.
* Các giống thích hợp cho vụ hè:
+ M103: TGST 80-90 ngày, chiều cao trung bình, sinh trưởng khỏe,
năng suất từ 17 - 20 tạ/ha. Trong điều kiện thâm canh có thể đạt 30
tạ/ha. Giống có khả năng chịu nóng khá, thích hợp với vụ hè đồng
bằng Bắc Bộ, cũng có thể gieo trong vụ xuana muộn và thu đông.
+ DT84: TGST 85-90 ngày. Hàm lượng protein, lipid và hàm lượng
đường bột cao, năng suất từ 15 – 30 tạ/ha. Giống có khả năng kháng
tốt với bệnh đốm nâu vi khuẩn, chống chịu khá với bệnh gỉ sắt,
sương mai, virus khảm, chịu nóng tốt, chịu lạnh, hạn, úng khá. Thích
ứng rộng với tất cả các vùng sinh thái trong cả nước.
+ ĐT93: TGST 75-85 ngày, chiều cao cây trung bình, cứng cây. Năng
suất trung bình 12-14 tạ/ha. Giống thích hợp với vùng đồng bằng và
trung du Bắc Bộ trên đất thịt nhẹ, đất cát pha bạc màu.
+ ĐT12: TGST vụ hè 71 - 80 ngày, rất thích hợp trong vụ Hè giữa 2 vụ
lúa, thấp cây, phân cành trung bình, năng suất từ 14 - 20 tạ/ha.
Trong điều kiện thâm canh có thể đạt 23 tạ/ha. Giống có khả năng
chống đổ tốt, nhiễm bệnh ở mức nhẹ, chịu úng khá, đặc biệt tốt nhất
trong vụ hè, có thể trồng xuân muộn và vụ thu đông.
7/18/15
9
* Các giống thích hợp cho vụ (Thu) Đông:
+ VX93: TGST 90-95 ngày, cao cây trung bình, ít phân cành,, năng suất
đạt từ 12 - 15 tạ/ha. Trong điều kiện thâm canh đạt 25 tạ/ha. Đây là
giống có khả năng chịu rét tốt, chịu hạn, úng trung bình, thích hợp ở
đồng bằng và trung du Bắc Bộ
+ AK05: TGST 98-105, cao cây trung bình,, năng suất đạt từ 16 - 15
tạ/ha. Khả năng chống chịu sâu bệnh trung bình, chịu hạn và chịu rét
khá.
+ DT95: TGST 90-98 ngày, cây cao trung bình, có phản ứng với độ dài
chiếu sáng, chống chịu với các bệnh gỉ sắt, đốm vi khuẩn, lở cổ rễ
trung bình, chống đổ trung bình có khả năng chịu lạnh, năng suất
biến động từ 22-27 tạ/ha. Giống yêu cầu thâm canh cao, thích hợp ở
các vùng sinh thái phía Bắc.
+ DT96: TGST 90-95 ngày, cây cao trung bình, kháng tốt với các bệnh
đốm nâu vi khuẩn, gỉ sắt, sương mai, virus, chịu hạn, chịu lạnh và
chịu nóng tốt, năng suất biến động từ 18 - 22 tạ/ha. Giống thích hợp
với tất cả các loại đất, các vùng sinh thái có trồng đậu tương, đặc
biệt các vùng núi cao.
3. Thời vụ gieo trồng đậu tương
a) Cơ sở khoa học
Xác định thời vụ trồng hợp lý cần phải căn cứ vào các cơ sở sau:
-Yêu cầu sinh thái của đậu tương: Đậu tương cần nhiệt độ để sinh
trưởng phát triển thích hợp là 22-28oC, cần đầy đủ ánh sáng và ẩm
độ vào thời kỳ ra hoa làm quả.
- Đặc điểm của giống đậu tương đem gieo trồng. Xem giống đó có khả
năng chịu lạnh hay có khả năng chịu nóng. Giống chịu lạnh để trồng
vào vụ xuân và vụ đông, giống chịu nóng có thể trồng vào vụ hè.
Ngoài ra cần căn cứ vào thời gian sinh trưởng của giống để đưa ra
thời vụ gieo trồng thích hợp ví dụ: giống chín muộn đưa vào vụ hè
vùng núi, giống chín sớm đưa vào vụ đậu tương hè sớm ở vùng
trung du, giống chín trung bình đưa vào vụ xuân hoặc vụ đông.
- Cơ cấu cây trồng trong vùng xem đó là đất hai lúa hay đất chuyên màu
hay trồng trên đất bãi. Đất hai vụ lúa thường trồng đậu tương vụ
đông, đất chuyên màu có thể làm ba vụ đậu tương trong các công
thức cụ thể, đất bãi ven sông trồng đậu tương xuân.
b) Các thời vụ gieo trồng
Vụ xuân
- Chủ yếu trên các vùng đất chuyên màu hay đất bãi ven sông.
- Gieo đầu tháng 2 đến 10/3 dương lịch, có thể sớm hơn từ 15/1 (tuy
nhiên thường hay gặp rét) và thu hoạch vào tháng 5, tháng 6.
- Nhìn chung thời vụ này tương đối thuận lợi, cây sinh trưởng trong
điều kiện nhiệt độ, ẩm độ, ánh sáng tăng dần từ đầu vụ đến cuối vụ,
phù hợp với yêu cầu của cây.
- Cần chú ý lúc gieo hạt có thể có các đợt gió mùa Đông Bắc gây ra
nhiệt độ thấp dưới 15oC, thậm trí xuống dưới 10oC, cùng với thời tiết
khô hanh, thiếu ẩm đã ảnh hưởng đến sự mọc và sinh trưởng của
cây con. Cần chọn giống đậu tương có khả năng chịu lạnh và có biện
pháp tưới bổ sung tránh những ngày rét đậm không gieo. Cần bón
lót đầy đủ phân lân và tưới nước bổ sung.
Vụ xuân cũng là vụ có độ ẩm cao, mây mù nhiều tạo điều kiện
cho sâu bệnh phát sinh gây hại. Nếu không phòng trừ tốt sẽ làm ảnh
hưởng nhiều đến năng suất. Do đó công tác phòng trừ sâu bệnh cần
tiến hành thường xuyên ngay từ đầu vụ. Thêm nữa vào thời kỳ chín,
có thể có những đợt mưa dài gây thối quả hạt hoặc làm cho hạt nảy
mầm ngoài đồng ruộng., cần thu hoạch kịp thời hoặc phòng chống
úng, chống đổ cho đậu tương. Lưu ý vùng khu 4 để tránh gió Lào
cần tranh thủ gieo sớm vào tháng 1 để khi đậu tương ra hoa tránh
được gió khô nóng.
Vụ hè
- Vụ hè chính vụ:
+ Chủ yếu tại miền núi phía Bắc: Cao Bằng, Lạng Sơn, Tuyên Quang....
+ Sử dụng giống có thời gian sinh trưởng tương đối dài và ưa nóng
như: Vàng Lạng Sơn, Xanh Lục Khu, Vàng Cao Bằng,...
+ Gieo vào đầu mùa mưa (tháng 5) thu hoạch cuối mùa mưa (tháng10).
- Vụ hè trung:
+ Áp dụng trên đất luân canh chuyên màu vùng ven trung du, trong
công thức: Lạc xuân – Đậu tương hè trung – Ngô đông.
+ Cây sinh trưởng hoàn toàn trong mùa mưa (T6-T9), nhiệt độ cao, ánh
sáng ngày dài, cây sinh trưởng phát triển tốt, năng suất cao tuy nhiên
không ổn định, có thể mất trắng nếu gặp mưa bão.
→ Chọn đất cao, chủ động tưới tiêu, làm luống cao, hẹp.
Chọn giống đậu tương chịu nhiệt độ cao, ưa ẩm như: DT84, D140,
AK06, DT96,... Phòng trừ đốm lá vi khuẩn, xoăn lá virus ngay từ đầu.
Vụ đông
- Vụ đậu tương tăng vụ vùng đồng bằng và một số tỉnh ở Trung du, nằm
trong công thức: Lúa xuân – Lúa mùa sớm – Đậu tương đông.
+ Ưu điểm: không ảnh hưởng tới diện tích lúa, ít sâu bệnh, vốn đầu từ
cho giống không nhiều có thể cạnh tranh được với ngô và khoai tây.
+ Nhược điểm: nhiệt độ, ẩm độ, cường độ ánh sáng cũng giảm dần.
Cây ra hoa sớm, hoa ít, quả ít và năng suất khá thấp. Thời kỳ chín
thiếu nắng do đó khó khăn trong khâu phơi hạt giống.
- Thời vụ: 20/9 đến 15/10, tuyệt đối không gieo muộn hơn.
- Trong vụ đông, để tranh thủ thời vụ người dân nên áp dụng phương
thức làm đất tối thiểu, không làm đất hoặc tiến hành làm bầu đậu
tương. Sau khi gieo có thể tiến hành che phủ để giữ ẩm cho đất (trên
những chân ruộng dễ mất ẩm) và hạn chế cỏ dại. Tùy từng địa
phương, tùy từng điều kiện cụ thể có thể sử dụng các loại vật liệu
che phủ như: nilong, thân xác cây ngô và cây phân xanh, che phủ
bằng rơm rạ.
- Giống đậu tương sử dụng cho vụ này là những giống có khả năng
chịu rét tốt như: DN42, VX93, D140,... Cần chú ý phòng trừ giòi đục
thân sớm khi cây mới mọc.
4. Chọn đất và làm đất
- Đất có thành phần cơ giới nhẹ (đất cát pha, thịt nhẹ), pH thích hợp từ
5,5-6,5, đất chủ động tưới tiêu. Đất có pH <5,5 cần bón thêm vôi để
cải tạo độ chua, đất mới trồng có thể bón bổ sung phân vi khuẩn.
- Đất được cày bừa kỹ, tơi nhỏ đảm bảo độ ẩm, độ tơi xốp, sạch cỏ dại.
- Cầy đất lúc đất có độ ẩm vừa phải, tránh cày lúc đất còn quá ướt, đất
quá khô cần chờ đến khi đất đủ ẩm thiết mới tiến hành cày đất.
- Lên luống cao 15-20cm, rộng 1,0-1,2m, trồng 3 hàng, rãnh:30-40cm
S rộng: luống rộng 1,5m - trồng 4 hàng dọc.
S hẹp: luống rộng 0,75 m
Đất bãi có thể trồng thành từng băng rộng 2,5-3m thậm chí nếu đất
bằng phẳng, thoát nước tốt có thể chỉ cần rạch hàng mà không cần
lên luống.
- Đất chuyên màu, thâm canh cao nhất thiết phải tiến hành làm đất.
- Đối với những vùng luân canh với cây trồng có thể áp dụng phương
thức làm đất tối thiểu hoặc không làm đất.
7/18/15
10
Làm đất tối thiểu
- Trước khi gặt lúa 4-5 ngày cần tháo kiệt nước ruộng. Gặt lúa xong đất
còn đang ẩm (độ ẩm 75-80%) tiến hành lên luống và gieo ngay.
- Đất quá khô cần tát thêm nước vào ruộng, ngâm qua đêm cho đất ẩm
để hôm sau làm đất gieo ngay.
- Chú ý: cần thu hoạch lúa sát đất, tránh để gốc rạ cao quá sẽ che lấp
ánh sáng khi cây còn non.
- Tiến hành chia luống rộng từ 1,2-1,5m (khoảng 5-7 hàng lúa). Sau đó
tạo rãnh thoát nước giữa các luống và xung quanh ruộng. Vét hết đất
ở rãnh lên trên mặt luống tạo rãnh tưới, tiêu, dùng tay nhấn úp gốc rạ
và san phẳng mặt luống.
- Dùng thước gỗ hoặc mép đòn gánh thẳng ấn rạch hàng ngang trên
mặt luống cách nhau 30-35cm, sâu 2-3cm để gieo hạt (lượng hạt
giống khoảng 2,5-3,0 kg/sào Bắc Bộ).
- Trường hợp đất đã cứng dùng cuốc rạch hàng để gieo hạt, khoảng
cách hạt cách hạt 4-5cm (gieo 1 hạt trên hốc), khoảng cách 10-12cm
(gieo 2 hạt trên hốc).
- Sau khi gieo xong dùng đất bột trộn với phân chuồng hoai, tro bếp,
trấu để rắc phủ lên hạt.
Không làm đất
- Đây là biện pháp đã được ứng dụng đối với những vùng ruộng vẫn
còn nước và ruộng đã khô nhưng không đủ thời gian làm đất.
- Đậu tương có thể được gieo thẳng xuống ruộng lúc đất còn ẩm (độ
ẩm khoảng 70-80% độ ẩm đồng ruộng)
- Tiến hành che phủ hạt bằng cách dùng liềm, dao có cán dài đi cắt,
phạt gốc rạ để lấp kín hạt, cũng có thể dùng máy Bông Sen lắp bánh
lồng và bàn trượt chống lún chạy một lượt để đè gốc rạ lấp kín hạt
đậu.
- Những vùng đất thoát nước độ ẩm đất dưới 70% có thể tiến hành
phương pháp chọc lỗ bỏ hạt hoặc thả trực tiếp hạt vào gốc rạ tuy
nhiên cần tiến hành tạo rãnh thoát nước sao cho khoảng cách luống
từ 1,2-1,5m sau đó mới tiến hành gieo hạt trực tiếp vào gốc rạ, mỗi
gốc rạ gieo khoảng 2-3 hạt và dùng đất bột trộn với phân chuồng
hoai mục hoặc tro bếp để phủ lấp hạt.
- Mật độ khoảng cách bỏ hạt cần tùy theo giống, thời vụ và trình độ
thâm canh.
Kỹ thuật làm mạ đậu tương
- Làm mạ đậu tương vào thời kỳ lúa xuân đỏ đuôi chuẩn bị thu hoạch.
- Tiến hành làm mạ trên nền cứng như trên sân xi măng hay bờ ruộng
sau khi đã dọn sạch cỏ dại, gần nguồn nước, để tiện vận chuyển.
- Vét bùn rồi trải trên nền đã chuẩn bị sẵn, độ dày lớp bùn khoảng 1-
2cm, có thể trộn bùn với phân chuồng hoai mục theo tỷ lệ 3/1 sau đó
đợi bùn se lại rồi kẻ ô vuông có cạnh 4-5cm, trong một ô gieo từ 3-5
hạt đậu tương.
- Đợi khi gặt lúa xuân xong bứng các bầu này mang gieo trồng.
Cách làm này có thể tranh thủ thời gian sinh trưởng cho đậu tương
khoảng 7-9 ngày, không được để lâu hơn nữa do bộ rễ phát triển
mạnh, dễ bị đứt khi bứng trồng.
5. Mật độ, khoảng cách
a) Cơ sở xác định mật độ, khoảng cách trồng
Xác định mật độ, khoảng cách trồng hợp lý tạo mối tương quan tốt
giữa các cá thể và cho quần thể năng suất cao nhất.
- Đặc điểm của giống đậu tương: Những giống có thời gian sinh trưởng
dài, phân cành nhiều, góc độ phân cành rộng thì trồng thưa. Ngược
lại giống có thời gian sinh trưởng ngắn, ít cành, góc độ cành và lá
hẹp nên trồng dầy.
- Thời vụ trồng: Vụ nào có điều kiện khí hậu nhiệt độ, ẩm độ, ánh sáng
thích hợp với yêu cầu sinh thái của cây đậu tương thì trồng thưa và
ngược lại. Vụ xuân và vụ hè cây sinh trưởng mạnh, chiều cao lớn,
phân cành nhiều, hoa quả cũng nhiều hơn vụ đông nên trồng thưa
hơn vụ đông. Nếu gieo dày năng suất sẽ giảm do chỉ số diện tích lá
cao, có sự che khuất giữa các tầng lá, hiệu suất quang hợp giảm,
hạn chế tích lũy vật chất, thân vống lốp, hoa quả ít. Vụ đông nhiệt độ,
ẩm độ, ánh sáng giảm dần, cây sinh trưởng yếu nên gieo dày hơn.
- Đặc điểm đất đai: Đất giàu dinh dưỡng trồng thưa hơn đất nghèo dinh
dưỡng, đất chủ động độ ẩm trồng thưa hơn đất khô hạn; đất thịt nhẹ
phù sa ven sông trồng thưa hơn đất bạc màu.
- Trình độ thâm canh: Nơi có điều kiện thâm canh: đủ phân bón, tưới
tiêu chủ động, phòng trừ sâu bệnh tốt thì trồng thưa; canh tác thủ
công trồng dày hơn canh tác bằng cơ giới.
b) Mật độ, khoảng cách cụ thể
- Vụ xuân:
+ Giống chín sớm: 50 -55 cây/m2, khoảng cách 30-35 cm x 5-6 cm (1
cây/hốc); 30-35 cm x 10-12 cm (2 cây/hốc).
+ Giống chín trung bình: 40-45 cây/m2, khoảng cách 35-40 cm x 6-7 cm
(1 cây/hốc); 35-40 cm x12-15 cm (2 cây/hốc)
- Vụ hè:
+ Giống chín muộn: 25 cây/m2, khoảng cách 40 cm x 10 cm (1 cây/hốc)
hoặc 40 cm x 20 cm (2 cây/hốc).
+ Giống chín sớm: 40-45 cây/m2, với khoảng cách 30-35 cm x 5-6 cm
(1 cây/hốc) hoặc 30-35 cm x 10-12 cm (2 cây/hốc).
+ Giống chín trung bình: 35-40 cây/m2, khoảng cách 35-40 cm x 8-10
cm (1 cây/hốc) hoặc 35-40 cm x 16-20 cm (2 cây/hốc).
- Vụ đông:
+ Giống chín sớm: 55-60 cây/m2
+ Giống chín trung bình: 45-50 cây/m2
Nhìn chung:
+ Giống chín muộn: - 5 cây, chín sớm: +5 cây
+ Vụ đông: + 5 cây, vụ hè: - 5 cây
+ Giống phân cành khỏe: - 5 cây, phân cành thưa: +5 cây
6. Chuẩn bị hạt giống và gieo hạt đậu tương
a) Lượng hạt giống:
- Trung bình cần 1,8 – 2,2 kg/sào BB (≈ 50-60 kg/ha), có thể tăng thêm
5-6 kg /ha với giống hạt lớn, với giống hạt nhỏ có thể ít hơn.
- Tính lượng hạt cần tính đến: tỷ lệ nảy mầm, tình hình sâu bệnh hại
nhằm tính toán lượng hạt dự trữ để dặm kịp thời.
- Sử dụng giống có tỷ lệ nảy mầm cao, đồng đều không có mầm bệnh.
Hạt giống đảm bảo chất lượng cần có tỷ lệ nảy mầm lớn hơn 85%
- Không nên sử dụng hạt có thời gian bảo quản quá lâu, tối đa 3 tháng.
- Hạt giống sau khi thu hoạch có thể gieo ngay, tỷ lệ nảy mầm rất cao.
Hạt giống có thời gian bảo quản quá lâu cần tiến hành ngâm ủ sau
- Trong trường hợp hạt giống bị nhiễm nấm bệnh có thể tiến hành một
trong các biện pháp sau đây để khử mầm bệnh trên hạt giống:
+ Ngâm nước ấm (3 sôi + 2 lạnh, nhiệt độ: 50-52oC) trong 15 phút
+ Ngâm hạt trong nước muối 5% trong vòng 15 phút.
+ Sử dụng các loại thuốc trừ nấm như Zineb hoặc Mancozeb với liều
lượng 100g/10kg hạt, trộn đều với hạt giống trước khi gieo
7/18/15
11
b) Gieo hạt giống:
- Sau khi làm đất, lên luống xong đất còn ẩm cần tiến hành gieo ngay.
- Rạch hàng, độ sâu 3-5cm, bón lót đầy đủ, lấp đất che kín phân rồi tiến
hành gieo hạt.
- Gieo 1-2 hạt/hốc, gieo xong lấp một lớp đất mỏng trên bề mặt cho kín
hạt. Độ sâu lấp hạt có thể thay đổi tùy theo thời vụ:
- Với phương thức làm đất tối thiểu có thể tiến hành gieo vãi hoặc gieo
hạt trực tiếp vào gốc rạ như đã giới thiệu ở trên.
- Gieo lúc trời ấm áp, nhiệt độ 18-30oC. Nếu trời rét cần gieo sâu và
lấp đất kỹ
- Không gieo khi nhiệt độ dưới 10oC, có sương muối hoặc khi trời
nóng, độ ẩm không khí thấp.
- Hạt giống đã ngâm ủ khi gieo đủ ẩm, độ ẩm cao quá gây thối mầm,
độ ẩm quá thấp đất sẽ hút nước từ hạt giống sẽ bị thui mầm.
- Bón lót đầy đủ đặc biệt phân chuồng và phân lân nếu thời tiết lạnh,
7. Kỹ thuật bón phân
Để đạt được 1 tấn hạt đậu tương cùng với thân lá, cây lấy từ đất:
81kg N, 17kg P2O5, 35kg K2O, 8kg MgO, 24kg CaO, 3kg S, 366g Fe,
90g Mn, 6g Zn, 25g Cu, 39g B, 7g Mo,
a) Dinh dưỡng đạm:
- Cây hút đạm tăng dần và nhiều nhất TK hoa rộ - quả mẩy
- Thiếu đạm lá xanh vàng, dễ rụng, phiến lá nhỏ, cây còi cọc.
- Thời kỳ ra hoa tạo quả, thiếu đạm tỷ lệ đậu hoa, đậu quả giảm nhiều,
hạt lép, năng suất hạt giảm thấp.
- Cây có khả năng tự tổng hợp đạm:
Bình quân 40-50 kg N/ha, đóng góp 50-75% nhu cầu. Đất trồng đậu
tương lâu năm 90-95%, đất mới trồng đậu tương:15-20%
Các nguồn dinh dưỡng đạm của đậu tương:
+ Đạm sinh học từ nốt sần: NH4+
+ Từ đất dưới dạng NO3-,
→ Nguồn đạm từ phân bón: bón vào đất hoặc phân bón lá
- Hiệu suất sử dụng đạm: 4-6 kg đậu tương/1 kg N
* Phân vi khuẩn cố định đạm (Nitragin):
- Có hiệu quả với đất bạc màu, đất chua, đất chưa trồng đậu tương bao
giờ, đất cấy lúa ngập nước nay trồng đậu tương để cải tạo. Xử lý
phân vi khuẩn trên đất tốt, giàu đạm, đất trồng đậu tương nhiều vụ
hiệu quả kém hoặc không mang lại hiệu quả.
- Một lượng vi khuẩn nốt sần Rhizobium Japonicum sẽ được nhiễm vào
hạt giống trước khi đem gieo bằng cách trộn chế phẩm vi sinh với hạt
giống trước khi gieo hoặc tưới phủ sớm khi cây mọc.
- Hoặc trộn đều chế phẩm với đất nhỏ tơi, sau đó đem rắc đều vào
luống trước khi gieo hạt.
- Có thể đem chế phẩm ủ hoặc trộn với phân chuồng hoai, sau đó bón
đều vào luống rồi gieo hạt
- Cũng có thể hòa chế phẩm vào nước sạch rồi tưới trực tiếp vào cây
hay vào đất (thường gọi là phương pháp tưới phủ sớm).
- Ngoài Nitragin chế phẩm vi sinh vật cố định đạm còn có nhiều tên gọi
khác: Ridafo, Rhizobin, Rizolu, Azotobacterin, Flavobacterin,
- Xử lý phân vi khuẩn khi đất đủ ẩm, tơi nhỏ, pH gần trung tính, đủ lân.
Điều kiện trời nóng cần tăng liều lượng phân bón lên gấp 2 đến 3 lần
so với bình thường (2 kg/ha). Khi xử lý phân vi khuẩn cũng cần chú ý
lấp kín đất tránh để chế phẩm tiếp xúc với ánh sáng mặt trời làm
giảm hiệu lực.
b) Dinh dưỡng lân:
- Có tác dụng xúc tiến phát triển bộ rễ và hình thành nốt sần, cũng như
các cơ quan sinh sản (hoa, quả, hạt,... ).
- Cây hút lân trong suốt quá trình sinh trưởng, nhưng chủ yếu vào thời
kỳ đầu. Giai đoạn sau lân chuyển từ thân lá về quả và hạt.
- Thiếu lân cây còi cọc, sinh trưởng chậm, lá hẹp, đầu lá nhọn và cong
lên, lá màu xanh tối, mặt lá có những chấm nâu. Thiếu lân nghiêm
trọng thân có màu vàng, rễ có màu nâu, thưa hoa ít quả.
- Hiệu suất bón lân là khá cao từ 7-10 kg đậu tương/1 kg P2O5.
c) Dinh dưỡng Kali:
- Kali có vai trò quan trọng trong trao đổi đạm, chuyển hóa gluxit, điều
hòa cân bằng nước, tổng hợp protein, tăng khả năng hình thành các
mô cơ giới, tăng tính chống chịu bệnh, chịu lạnh và chống đổ.
- Cây hút Kali trong suốt quá trình sinh trưởng, nhiều nhất TK ra hoa.
Thời kỳ cuối Kali chuyển từ thân lá về hạt.
- Thiếu Kali mép lá bị cháy trong khi gân lá vẫn xanh, hình thành quả
không hạt, thời gian thu hoạch kéo dài.
- Thiếu Kali nốt sần khó hình thành và phát triển, cây không cố định
được đạm, nấm bệnh dễ xâm nhập làm cho cây yếu.
- Hiệu suất sử dụng Kali là từ 7-9 kg đậu tương/ 1kg K2O
d) Dinh dưỡng Canxi và các nguyên tố vi lượng khác:
- Canxi có tác dụng điều chỉnh pH đất, cung cấp Canxi cho cây. Ở miền
Bắc các loại đất lúa, đất đồi nương phần nhiều là đất chua và ở miền
Nam các loại đất Bazan, đất xám, đất phèn,... muốn trồng được đậu
tương đều phải bón vôi. Thiếu Canxi, trước khi ra hoa mép lá đơn có
màu đen về sau mép lá có những vết xanh tối hoặc xanh vàng. Khi ra
hoa tạo quả, thiếu Canxi lá xanh vàng hoặc tím nhạt, lá rụng nhiều.
- Molipden (Mo): Mo cần cho sự tổng hợp và hoạt động của men khử
Nitrat. Loại men này khử Nitrat thành Amonium trong cây. Mo có vai
trò quan trọng trong việc tổng hợp đạm do cộng sinh với vi khuẩn nốt
sần. Mo cũng cần thiết cho việc chuyển hóa lân. Khi thiếu Molipden
quá trình trao đổi đạm bị gián đoạn, lá dễ bị trắng. Mo trở nên hữu
dụng khi pH tăng, do đó hiện tượng thiếu Mo thường xảy ra ở đất
chua, đất nhẹ thường dễ bị thiếu hơn đất nặng.
- Kẽm (Zn): Kẽm là một trong số nguyên tố hạn chế năng suất cây
trồng, thiếu kẽm năng suất sẽ giảm. Kẽm hỗ trợ cho sự tổng hợp các
chất sinh trưởng và các hệ thống men và cần thiết cho sự tăng
cường một số phản ứng trao đổi chất trong cây. Nó cần thiết cho sự
sản xuất diệp lục và các hydratcabon. Thiếu Zn lá có màu đồng, lá
nhỏ, gây đình trệ sinh trưởng.
N P K
Mg Fe Zn
7/18/15
12
Bón phân cân đối và hợp lý cho đậu tương
- Tuỳ từng vùng mà lượng lân và kali có thể khác nhau, song đây là
những nguyên tố không thể thiếu trong cân đối dinh dưỡng cho đậu
tương. Về tổng thể, đậu tương cần bón ít đạm hơn lân và kali.
- Đạm và kali có tác dụng tương hỗ khá rõ trong dinh dưỡng đậu tương.
Nếu bón riêng rẽ, đạm chỉ cho bội thu 1,4 tạ/ha, trong khi đó cũng
bón lượng đạm như vậy lại cho bội thu 2,3 tạ/ha trên nền bón cả lân
và kali. Một quy luật tương tự cũng thấy với kali. Bón riêng rẽ, kali
cho bội thu 1,4 tạ/ha trên nền đạm cho bội thu 4,3 tạ/ha. Tương hỗ
đạm lân thấp hơn so với đạm kali.
- Tuy đạm và kali có hiệu lực cao với đậu tương song việc bón phân
liều lượng cao đều làm giảm hiệu quả phân bón.
- Nhìn chung mức bón tối đa cho đậu tương là 40 kg N (tương đương
87 kg urê/ha hay 3 kg/sào Bắc Bộ) và 60 kg K2O (100 kg kali
clorua/ha hay 3-4 kg/sào).
- Công thức bón phân cân đối cho đậu tương thay đổi theo vùng,
+ Phổ biến: 30 N: 90 P2O5: 90 K2O.
+ Đất bazan: 30 N: 60 P2O5: 60 K2O
+ Đất bạc màu: 20 N: 60 P2O5: 60 K2O
+ Đất xám: 30 N: 90 P2O5: 60 K2O
+ Đất nhẹ: 30 N: 90 P2O5: 60 K2O
Quy trình chung bón phân cho đậu tương
- Lượng bón cho 1ha trồng đậu tương:
5-8 tấn phân chuồng
30-40 kg N (tương đương: 65-90 kg urê)
60-90 kg P2O5 (tương đương: 300-450 kg supelân)
60-90 kg K2O (tương đương: 100-150 kg KCl)
Đất chua có thể bón thêm 300-500 kg vôi bột/ha
- Thời điểm và kỹ thuật bón:
+ Bón lót: 100% PC + 100% lân + 1/2 N + 1/2 K2O+ (Phân vi sinh,vôi).
Toàn bộ lượng phân hóa học được trộn đều và bón vào hàng đã rạch
sẵn, sau đó bón phân chuồng, lấp một lớp đất nhẹ phủ kín phân rồi
mới gieo hạt để tránh hạt tiếp xúc với phân làm giảm sức nảy mầm
+ Bón thúc: 1/2 N + 1/2 K2O
Trộn đều bón vào hàng đã rạch sẵn sau đó lấp đất chặt để tránh phân
đạm bốc hơi và rửa trôi khi gặp mưa, có thể hòa phân tưới cho cây.
Đối với đất chua bón thêm vôi bột với lượng 300-500 kg vôi bột/ha. Có
thể bón thêm phân vi lượng: Mo, Bo, Cu, ZnPhun từ 1-2 lần vào
thời kỳ đậu tương ra hoa. Ngoài ra bón phân vi khuẩn đối với vùng
đất chưa trồng đậu tương bao giờ, nghèo vi khuẩn.
Tại các vùng sản xuất đậu tương trên đất hai vụ lúa tại các tỉnh như: Hà
Tây (cũ), Bắc Ninh, các tỉnh vùng Đông Nam Bộ,.....thường áp dụng
các biện pháp làm đất: làm đất tối thiểu hoặc không làm đất, do đất
ướt không bón lót được nên phải bón thúc kịp thời.
Bón bằng cách hoà vào nước rồi tưới cho cây làm 3 lần:
+ Lần 1, khi cây có 2 lá đơn, bón 1/3 phân đạm và 1/2 phân lân.
+ Lần 2, khi cây có 2 - 3 lá kép, bón 1/3 phân đạm, 1/2 phân lân và 1/2
phân Kali.
+ Lần 3, sau khi gieo 28 - 30 ngày, bón 1/3 phân đạm, 1/2 phân kali.
8. Chăm sóc và phòng trừ sâu bệnh
a) Tỉa dặm
- Ít được làm do tỷ lệ mọc mầm của hạt giống khá cao, cây có khả
năng phân cành bù sản lượng
- Việc tỉa dặm chỉ áp dụng khi tỷ lệ mọc mầm kém, do chất lượng hạt
giống hoặc điều kiện bất thuận (mưa, nắng nóng, khô hạn).
- Trong trường hợp này, khi gieo có thể dự trù và gieo với lượng hạt
giống nhiều hơn so với yêu cầu khoảng 10%, hoặc có thể để dặm
sau khi hạt mọc mầm.
- Nếu mật độ quá dày cần tỉa bớt cây để đảm bảo mật độ khoảng cách
tránh hiện tượng tranh chấp dinh dưỡng.
b) Xới vun
- Nên xới xáo ít nhất 2-3 lần trong vụ từ khi cây có 2-3 lá thật cho đến
khi đậu tương ra hoa. Sau khi ra hoa không nên xới vun nữa làm ảnh
hưởng đến bộ rễ, khi xới tránh làm tổn thương vùng cổ rễ
- Xới vun lần 1: thời kỳ 2-3 lá, làm tơi xốp đất, kết hợp bón thúc lần 1,
trừ cỏ dại và vun nhẹ chống đổ cho cây.
- Xới vun lần 2: Trước khi đậu tương ra hoa, sau lần 1 khoảng 15-20
ngày. Xới nặng tay, sâu 5-7cm, kết hợp vun cao chống đổ, trừ cỏ dại.
Tùy theo tình hình như mưa nhiều, đất đóng váng mà có thể xới lần 3.
c) Tưới và tiêu nước
- Tưới nước cũng cần căn cứ vào từng thời vụ: vụ xuân thường khô
hạn vào thời kỳ đầu, vụ đông cuối vụ vào thời kỳ ra hoa đến làm quả
cũng gặp hạn, vụ hè nằm trong mùa mưa, tưới nước ít đặt ra mục
tiêu lớn mà tiêu nước là chủ yếu.
- Tưới khi độ ẩm đất giảm xuống đến 55-60% độ ẩm tối đa đồng ruộng.
- Tưới trước khi gieo:
+ Vùng có điều kiện có thể ngâm ruộng,
+ Vùng khô hạn nhờ nước trời, đất khô tưới theo các hàng trước khi
gieo, nhờ đó tăng được phần nào độ ẩm đất, nhưng nói chung chỉ
gieo hạt độ ẩm đất đảm bảo cho hạt mọc mầm được
- TK sau khi gieo, TK ra hoa - kết quả, tưới rãnh hoặc tưới ngập 1/3 –
2/3 rãnh tưới, rồi rút nước khi đất đủ ẩm và sau đó phải phá váng.
- Nếu có mưa:
+ < 10mm phải tưới đầy đủ mức tưới.
+ >10-15mm phải tưới thêm 1/2 mức tưới.
+ >15mm coi như một lần tưới.
- Vùng khó khăn tưới đẫm: TK mọc và TK hình thành quả - hạt.
- Sau khi mưa to, phải tiêu nước ngay (không để quá 24 giờ). Nếu
không thối rễ, hạn sinh lý, rụng hoa, rụng quả.
d) Phòng trừ sâu bệnh
* Bệnh sương mai đậu tương:
Bệnh do nấm Peronospora manshurica gây ra, ở nước ta và các nước
thuộc Đông Nam Á bệnh gây hại mạnh, Bệnh làm ảnh hưởng đến quang hợp
và gây giảm năng suất.
Triệu chứng bệnh: Bệnh xuất hiện ở thời kỳ cây trưởng thành, gây hai trên
lá, thân, quả và hạt. Trên lá vết bệnh là các vết đốm màu xanh vàng không định
hình nằm rải rác ở mặt trên của lá. Vết bệnh có thể nằm dọc các gân lá, có màu
nâu vàng gây cháy khô lá. Cây bị bệnh nặng, vết bệnh lan sang quả và xâm
nhiễm vào hạt. Ở mặt dưới lá bệnh và bên trong quả bị nhiễm bệnh có lớp mốc
trắng xám, hạt bị nhiễm bệnh thường bị lép và có một lớp bột màu trắng ở trên
bề mặt hạt. Hàm lượng dinh dưỡng trong hạt cũng bị giảm sút.
Đặc điểm phát sinh phát triển: Bệnh thường phát triển mạnh trong điều
kiện nhiệt độ khoảng 20oC. Bệnh gây hại nặng từ tháng 3 đến tháng 5 ở vụ đậu
tương xuân vào giai đoạn cây có 4-5 lá kép. Năng suất có thể giảm 10% nếu
không phòng trừ kịp thời.
Biện pháp phòng trừ: Cần chọn giống sạch bệnh, nguồn giống cần được
kiểm nghiệm trước khi gieo trồng. Xử lý hạt giống, tiêu hủy và dọn sạch tàn dư
cây bệnh sau khi thu hoạch. Khi bệnh xuất hiện cần phun thuốc phòng trừ bằng
Boocdo 1%, Oxyclorua đồng 1%, Aliette 80WP 0,25%, Rhidomyl MZ 72BHN
(2,5-3 kg/ha), Rhidomyl 5g (10-14 kg/ha).
7/18/15
13
* Bệnh gỉ sắt đậu tương:
- Bệnh do nấm Phakopsora sojae Saw gây ra. Bệnh gây hại nặng nhất trên lá, có
thể hại trên thân cành và quả. Lúc ban đầu ở mặt dưới lá, vết bệnh hình thành
dưới dạng những chấm nhỏ màu vàng trong. Sau đó, vết bệnh nổi lên trên mặt
lá có màu vàng nâu, biểu bì lá nát để lộ bào tử có màu vàng (màu gạch non).
Cây bị bệnh khiến lá sớm bị vàng, lượng diệp lục giảm nhanh chóng, cường độ
quang hợp và sự trao đổi chất trong cây giảm, năng suất và phẩm chất đậu
tương bị giảm sút nghiêm trọng.
- Đặc điểm phát sinh phát triển: Các vụ trồng đều bị bệnh nhưng bệnh phát sinh và
phá hại nặng nhất trong vụ đậu tương xuân. Các vụ đông, hè thu bệnh nhẹ hơn.
Ở vụ xuân khi bệnh nặng chỉ còn thu hoạch từ 0,8-2,5 tạ/ha, trong khi bình
thường năng suất đạt 5-8 tạ/ha. Vụ đông thời tiết lạnh, vụ hè và hè thu nhiệt độ
cao nấm khó hình thành bào từ và khó thực hiện nảy mầm, xâm nhiễm vì vậy
bệnh hại nhẹ hơn. Cao điểm của bệnh tập trung vào tháng 3, tháng 4 khi nhiệt
độ đạt trên 18-20oC và cây có từ khi 5 lá kép đến khi thu hoạch quả. Bệnh có
thể kéo dài tới tháng 5 làm lá cây rụng hàng loạt, ruộng đậu tương vàng rực
màu lá bệnh.
- Trong giai đoạn sinh trưởng từ cây mọc tới chớm hoa ít bị bệnh Từ ra hoa đến
thu hoạch quả là lúc bệnh phát triển nhanh nhất trên lá bánh tẻ và lá già. Các
giống đậu tương trồng ở nước ta đều bị nhiễm bệnh nhưng mức độ khác nhau.
Các giống ít bị nhiễm hoặc nhiễm muộn hơn hiện nay là: M103, DT93, DT84,
AK03, AK05, VX93,... Giống bị nhiễm nặng nhất là V74.
- Biện pháp phòng trừ: Chọn giống chống chịu bệnh và sản xuất giống sạch bệnh;
luân canh với các cây thuộc họ hòa thảo; xử lý giống bằng Bayphidan 10-15 g.
a.i/tạ hạt giống hoặc 200 g/tạ hạt. Có thể phun thuốc hạn chế bệnh bằng các
loại thuốc trừ gỉ sắt, đặc biệt như Baycor 25WP 0,1% (0,15-0,25 kg a.i/ha),
Bayleton 25EC (25WP) 120-250 g/ha, ...
* Bệnh thán thư đậu tương:
Bệnh do nấm Colletotrichum trunctum gây ra, gây hại làm giảm chất lượng hạt
(hàm lượng axit amin giảm).
- Triệu chứng bệnh: Giai đoạn cây con vết bệnh là các vết đốm màu nâu ướt, hơi
lõm trên lá mầm và phát triển xuống thân, lá mầm bị bệnh thường rụng sớm.
Bệnh nặng thường gây chết cây con. Vết bệnh trên lá thường biểu hiện các vết
chết hoại có màu nâu đỏ trên gân lá, gây thối gân. Bệnh có thể hại trên phiến lá
là các vết bệnh có hình bầu dục, màu nâu, hơi lõm, xung quanh có viền nâu đỏ,
trên bề mặt vết bệnh có các chấm đen nhỏ. Lá bị bệnh thường quăn lại và dễ
rụng. Trên thân cành, cuống lá và vỏ quả vết bệnh có màu nâu, vết bệnh
thường bị bao phủ bởi các đĩa cành có màu nâu. Hạt bị nhiễm bệnh thưởng
nhỏ, nhăn nheo, trên bề mặt hạt có các vết xám, sau chuyển sang màu nâu
hoặc nâu đen. Cây bệnh phát triển kém, nếu nhiễm ở giai đoạn sớm cây không
có khả năng phát triển quả. Một số cây bệnh trên thân và hạt có thể không
mang triệu chứng nhưng nấm nhiễm hệ thống ở bên trong.
- Đặc điểm phát sinh phát triển: Bệnh phát triển mạnh trong điều kiện ẩm độ cao,
nhiệt độ khoảng 28oC. Miền Bắc, bệnh phát triển từ tháng 4 - 6, gây hại mạnh ở
giai đoạn phát triển quả tới khi thu hoạch. Bệnh phát triển mạnh trên những
ruộng trồng với mật độ dày, trồng liên tiếp nhiều vụ. Bệnh phát triển mạnh ở
vùng có mưa nhiều, bón phân không hợp lý.
Các giống đậu tương nhiễm bệnh cao là các giống: AK03, DT84. Các
giống nhiễm ở mức thấp hơn ĐT22, DT90, ĐT93.
Biện pháp phòng trừ: Cần xử lý hạt giống bằng một số thuốc hóa học như
Thiram, Captan, Benomyl; vệ sinh đồng ruộng, tiêu hủy tàn dư cây bệnh; bón
canxi và kali cũng hạn chế được bệnh; khi bệnh phát triển sớm cần phun thuốc
hóa học Benomyl, Cacbenzym, Mancozeb vào giai đoạn hình thành quả. Có thể
sử dụng biện pháp sinh học, dùng các chế phẩm từ loài nấm đối kháng như
Glicoladium roseum, Trichoderma viridae, Penicillium thomi để xử lý hạt giống
cũng làm giảm tỷ lệ bệnh.
* Bệnh đốm lá vi khuẩn hại đậu tương:
Bệnh đốm gỉ do vi khuẩn Xanthomonas phaseoli pv. sojense và bệnh đốm góc vi
khuẩn Pseudomonas glycinea gây ra.
- Triệu chứng bệnh:
+ Bệnh đốm gỉ: Bệnh hại trên lá, triệu chứng bệnh xuất hiện ở dạng đốm nhỏ nổi
trên mặt lá như các mụn loét nên trông rất dễ nhầm lẫn với bệnh gỉ sắt đậu
tương.
+ Bệnh đốm góc: Triệu chứng bệnh thể hiện ở trên lá là những vết đốm nhỏ lúc
đầu ngậm nước trong giọt dầu, vàng nhạt, về sau chuyển sang màu nâu đen,
vết bệnh có góc cạnh, không đều đặn. Nhiều vết bẹnh liền nhau, chi chít trên
phiến lá.
- Đặc điểm phát sinh phát triển: Bệnh đốm lá vi khuẩn phát sinh phát triển thuận lợi
trong điều kiện thời tiết nóng ẩm. Nhiệt độ thích hợp nhất để bệnh phát triển từ
26-30oC.
Bệnh phát sinh gây hại ở tất cả các thời vụ trồng đậu tương, mức độ nhiễm ở mỗi
thời vụ có khác nhau. Vụ đậu tương xuân và hè thu, bệnh thường phát sinh gây
hại nặng. Còn ở vụ đậu tương đông thì bệnh thường phát sinh gây hại nhẹ hơn.
Hầu hết các giống đậu tương đang gieo trồng đều có thể nhiễm bệnh, bệnh có xu
hướng phát sinh gây hại nặng trên những giống đậu tương nhập nội, lai tạo có
năng suất cao. Tuy nhiên nguồn bệnh của hai loài vi khuẩn gây bệnh thường
chủ yếu tồn tại trên hạt giống và tàn dư cây bệnh, vi khuẩn không truyền qua
đất vì nó rất nhanh bị chết trong đất khi tàn dư đã hoai mục.
- Biện pháp phòng trừ: vệ sinh đồng ruộng bằng cách thu dọn sạch tàn dư các bộ
phận bị bệnh trên đồng ruộng. Chọn lọc, sử dụng những hạt giống khỏe, không
lấy hạt ở những cây bị bệnh để làm giống. Cần phải chọn lọc và sử dụng những
giống đậu tương có khả năng chống chịu với bệnh đốm lá vi khuẩn để gieo
trồng cho phù hợp với mỗi thời vụ và các vùng sinh thái trồng trọt.
* Bệnh khảm lá đậu tương:
Bệnh do loài virus Soybean mosaic virus – SMV gây ra. Thiệt hại về năng suất
có thể lên đến 50% thậm chí 90%. Bệnh có thể truyền qua hạt giống làm giảm
chất lượng hạt giống.
- Triệu chứng bệnh: Bệnh thay đổi phụ thuộc vào giống, giai đoạn sinh trưởng của
cây và điều kiện ngoại cảnh. Trên lá sò vết bệnh có dạng khảm, trên lá thật triệu
chứng bệnh thể hiện rõ các vết bệnh xanh đậm và xanh nhạt xen kẽ nhau, lá
cây bị bệnh thường nhăn nheo, mép lá cong xuống, lá bị biến dạng. Đôi khi trên
lá bệnh xuất hiện vết xanh đậm, hoặc các vết chết hoại chạy dọc theo gân
chính. Cây bị bệnh thường lùn hơn cây khỏe và thường bị chín sớm. Số lượng
nốt sần trên cây bệnh thường giảm nên vai trò cố định đạm giảm, rễ cây thường
bị thối đen. Ở những giống mẫn cảm cây có thể bị chết. Bệnh gây hại trên quả
làm quả đậu bị biến màu nâu, cong queo hạt lép. Hạt đậu tương bị nhiễm bệnh
có các vết màu nâu hoặc tím hình chân chim thể hiện rõ trên vỏ.
- Đặc điểm phát sinh phát triển: Virus gây hại có thể tồn tại và lan truyền qua hạt
giống hoặc truyền qua các loài rệp muội theo kiểu không bền vững. Virus có
phạm vi ký chủ rộng, phát triển mạnh trên cây đậu tương trồng vào vụ đông và
vào giai đoạn cây ra hoa và hình thành quả. Bệnh gây hại nặng trên những
ruộng đậu tương chăm sóc kém, bón nhiều đạm hoặc bón phân không cân đối.
- Biện pháp phòng trừ: Sử dụng giống chống bệnh, giống sạch bệnh. Lấy giống từ
vùng không bị bệnh, chọn lọc giống, loại bỏ hạt mang triêu chứng bệnh. Trồng
xen với cây trồng không phải là ký chủ của rệp.Phun thuốc hóa học phòng trừ
rệp, hoặc bẫy rệp bằng các bẫy dính màu vàng. Có thể dùng biện pháp sinh
học, sử dụng các chủng virus nhược độc để lây bệnh cho cây con, tạo khả năng
kháng bệnh đối với chủng virus gây hại có độc tính cao.
* Bệnh lở cổ rễ
Bệnh do nấm Fusarium solani fsp. phaseoly gây ra. Bệnh gây hại ở tất cả các
vùng trồng từ đồng bằng, trung du cho tới miền núi. Bệnh phá hại trong suốt
thời kỳ sinh trưởng nhưng chủ yếu vào thời kỳ cây con.
- Triệu chứng bệnh: Bệnh hại vào thời kỳ cây con mới mọc gây héo và chết cây
con. Vết bệnh lúc đầu chỉ là một chấm nhỏ, màu đen ở phân gốc sau đó lan
nhanh bao bọc xung quanh cổ rễ làm cổ rễ khô tóp lại, cây gục xuống và
chết nhưng thân lá vẫn còn màu xanh. Trên vết bệnh có lớp nấm màu trắng
xám. Vết bệnh thối mục, có màu nâu đen ủng và lan nhanh khi gặp mưa.
- Đặc điểm phát sinh phát triển: Bệnh phát triển thuận lợi trong điều kiện nhiệt
độ 25-28oC, độ ẩm đất cao, nóng lạnh bất thường. Bệnh phá hại mạnh trên
những chân ruộng trũng, ứ đọng nước, đất bị đóng váng sau khi mưa. Nấm
bệnh có phổ ký chủ rộng: đậu đỗ, cà chua, khoai tây, ngô, lúa,... Nấm gây
bệnh có thể sống hoại sinh trong đất trên các tàn dư cây trồng.
- Biện pháp phòng trừ: Luân canh với lúa nước 2-3 năm để hạn chế tích lũy
nguồn bệnh trong đất; cày sâu để chôn vùi hạch nấm, bừa đất kỹ, để ải, bón
vôi để tiêu hủy nguồn bệnh trong đất; chọn hạt giống khỏe, sạch bệnh; gieo
đúng thời vụ, không gieo quá sâu, mật độ vừa phải; phá váng sau khi mưa
và xới xáo kịp thời, vun luống cao, thoát nước tốt. Bón lót phân chuồng hoai
mục kết hợp với bón vôi. Bón thúc sớm lân và kali. Xử lý hạt giống trước khi
gieo và phun thuốc phòng trừ khi bệnh xuất hiện. Có thể dùng các loại
thuốc: Ridomil MZ 72WP 2,5-3,5 kg/ha, Topsin M (50-70WP) 50-100g
thuốc/100 lít nước, Rovral 50WP 0,1-0,2%. Có thể sử dụng chế phẩm sinh
học Trichoderma phòng trừ bệnh.
* Sâu xám (Agrotit. YP silon):
Phá hại nặng vụ xuân, vào thời kỳ cây con, thường cắn ngang thân.
Phòng trừ bằng cách: làm đất kỹ để diệt trừ nhộng và sâu non thường ẩn nấp ở
độ sâu cách mặt đất 4-6cm. Có thể xử lý đất bằng thuốc hóa họcL Basudin,
Padan 1%, Ofatox 0,1%,... diệt trừ sâu tuổi 1-3, với sâu tuổi lớn 4-5 tuổi tổ chức
bắt vào buổi sáng sớm.
* Ruồi đục thân (Melana Gromyza Sofae):
Sâu trưởng thành là loài ruồi nhỏ, màu đen sáng phần bụng màu xanh óng
ánh, mắt kép màu đỏ tối, gân cánh và chuỳ cánh đen. Trứng nở thành giòi phá
hoại ở các bộ phận của cây như lá hoặc thân.
Ở đồng bằng và trung du Bắc bộ, có nhiều loại ruồi đục lá, đục thân, trong
đó loài gây hại nghiêm trọng nhất ở thời kỳ cây con là Melana Gromyza Sofae
chiếm tới 70-80%. Cao điểm phá hại vào tháng 3, tháng 4 và tháng 10, tháng
11. Ruồi đục thân gây tác hại nặng nhất đối với đậu tương đông và thu đông.
Cần phun thuốc sớm khoảng 5-7 ngày sau khi gieo, khi cây mới xuất hiện lá
đơn. Sau lần phun thứ nhất 7-10 ngày phun tiếp lần 2. Các loại thuốc hiệu lực là
Monito phun với nồng độ 0,1%, có thể xử lý đất bằng các loại thuốc như
Basudin (3kg/ha) có thể giảm tỷ lệ bệnh xuống dưới 5%. Xử lý hạt bằng thuốc
Oftanol (40gr/kg hạt) hoặc Gacho 70WS bón vào đất. Phun thuốc phòng trừ ruồi
đục thân: Bitox 40EC 0,8-1l/ha, Regent 800WG 20-30 gr/ha, Selecron 500EC
0,8-1l/ha, Peran 50EC 200-400cc/ha. Không nên trồng liên tiếp các loại cây ký
chủ của ruồi như đậu xanh, đậu đen, đậu cove,... mà cần luân canh với các cây
trồng khác như lúa nước.
7/18/15
14
* Sâu đục quả (Etiela Zinekenella):
Sâu non đẫy sức dài khoảng 14mm, màu sắc cơ thể biến đổi theo độ tuổi,
tuổi nhỏ có màu trắng hoặc xám xanh, tuổi trung bình màu xanh có vệt hơi đỏ,
tuổi lớn có màu tím đỏ, bụng xanh, mảnh da ngực trước cứng và ở giữa có vân
đen hình chữ “Y”, ở hai bên có chấm đen, ở giữa mép sau lại có một đôi chấm
đen.
Sâu phá hại khi cây có quả non (giai đoạn R4), hạt mới hình thành bị sâu
đục không phát triển nữa. Khi hạt mẩy bị sâu đục sản lượng giảm, nhiều trường
hợp khi thu hoạch sâu vẫn tiếp tục phá hoại (trong kho). Sâu phá hại lớn nhất ở
vụ xuân sớm, vụ xuân hè và vụ thu ở Đồng bằng và Trung du Bắc bộ. Để trừ
sâu non cần phun thuốc sớm khi cây có quả non bằng Fastas 5EC, Fortac 5EC,
liều lượng 0,4-0,6 l/ha, Cyperkill 25EC, Prower 5EC 0,6-0,8 l/ha, Sumidin 20EC
0,8-1 l/ha, hoặc có thể dùng thuốc phun diệt bướm và sâu mới nở. Dùng biện
pháp nông học như luân canh với cây trồng khác không phải ký chủ của sâu
đục quả. Chọn thời vụ trồng hợp lý (ở đồng bằng miền Bắc, vụ xuân gieo vào
25/2, tỷ lệ sâu đục quả ít nhất, đồng thời ít bị bệnh gỉ sắt).
* Sâu hại lá:
Bộ lá đậu tương rậm rạp, nếu bị một ít lá hầu như không gây ảnh hưởng
đến năng suất, nhất là giai đoạn trước khi ra hoa. Ở giai đoạn cây ra hoa, làm
quả và hạt, sâu hại lá gây hại lớn đến năng suất do chúng làm thấp bộ lá quang
hợp, cũng như ảnh hưởng đến dòng vận chuyển vật chất từ lá về quả và hạt,
gia tăng tỷ lệ lép của quả và hạt đậu tương, giảm tháp rõ rệt năng suất. Sâu hại
lá phổ biến là sâu xanh (Heliothis Aramigera), sâu khoang (Prodenoa litura), sâu
cuốn lá (Luaprosena indiedra), sâu ban miêu (Epicauta xantusi). Với sâu xanh,
sâu khoang phòng trừ bằng bẫy bả chua ngọt bắt trưởng thành, ngắt ổ trứng.
Dùng thuốc trừ sâu sinh học Abamectin 1,8EC, hoặc chế phẩm sinh học Bt,
NPV phun lên cây vào giai đoạn ra hoa, quả non, khi sâu bắt đầu phát triển.
Dùng thuốc hóa học khi sâu thành dịch: Monitor 50%, Rogor 40EC, Sevin 35%
pha đều với nước tỷ lệ 1:100. Chú ý không luân canh đậu tương với cây trồng
ký chủ của sâu này như bông. lạc, đậu rau,.... Với sâu cuốn lá đậu tương có thể
trừ bằng cách luân canh đậu tương với lúa hoặc cây họ hòa thảo, bông,... có
tác dụng hạn chế sâu hại rõ rệt. Bảo vệ và tăng cường hoạt động của thiên địch
bằng cách trồng xen với cây trồng khác. Thời kỳ sâu gây hại nặng là thời kỳ đậu
tương có 3-4 lá kép đến quả non, khi cần thiết dùng các loại thuốc có hiệu quả
diệt sâu cao như Bulldock 25EC 0,8-1 lít/ha, Forvin 85WP 0,75-1 kg/ha, Karate
25EC 0,3-0,5 lít/ha, Baythroid 50EC 0,6-0,8 lít/ha.
* Sâu chích hút:
Bọ xít xanh (Nejaravinedula) chích hút lá ở thời kỳ quả mẩy làm quả lép,
không chín được. Hạt bị bọ xít xanh chích hút khi gieo mọc kém, tỷ lệ mọc mầm bị
giảm 50%. Về hình thái sâu trưởng thành có thể dễ dàng nhận biết: hình lá chắn,
toàn thân màu xanh, phiến tiểu thuần có 3 chấm nhỏ. Bọ xít xanh phá hại cả lúa,
ngô, lạc,... dễ phát triển thành dịch, cần phòng trừ kịp thời bằng cách dùng bẫy
đèn thu bắt sâu bướm trưởng thành, diệt những ổ bọ xít mới nở hoặc vợt bắt
trưởng thành, khi đậu bắt đầu ra hoa – quả non mà mật độ bọ xít 1-3 con/cây
phun thuốc ngay với các loại thuốc như Cyper 25EC 0,6-0,8 l/ha, Perkill 50EC 0,1-
0,3 l/ha,Actara 25WG 50gr/ha, Superkill 50EC 1-2 lít/ha.
* Rệp (Aphismedicaginic):
Rệp non có thể có cánh hoặc không có cánh. Rệp có cánh cơ thể màu
vàng, xanh nhạt hoặc xanh đậm, phần đầu và mảnh lưng trước màu đen, phần
bụng hai bên có 3-4 chấm đen, phiến đuôi màu xanh. Rệp non không cánh: cơ
thể có màu vàng chanh hoặc vàng, sang thu lại có màu xanh thẫm, hoặc màu
đen, màu hồng nhạt, toàn thân phủ bụi xáp. Rệp là môi giới truyền bệnh virus
khảm lá đậu tương, gây hại nặng ở vụ đậu tương hè, cần chú ý phòng trừ bằng
cách: chặt bỏ cây chủ thân gỗ, cây dâm bụt,... tiêu diệt trứng qua đông và vệ
sinh đồng ruộng khi gieo trồng đậu tương. Luân canh đậu tương với lúa nước
và các cây khác ký chủ với rệp đậu tương. Tỉa cây sớm, nhổ bỏ cây bị rệp và
chăm sóc làm cỏ kịp thời tạo điều kiện thông thoáng trong ruộng đậu tương.
* Mọt đậu tương (Acanthoscelideb obtectus Say)
Mọt này phổ biến ở nhiều nước phá hoại hạt đậu tương trong quá trình
bảo quản gây thủng hạt, hỏng hạt, gây mùi khó chịu làm giảm chất lượng sản
phẩm. Mọt trưởng thành có thân hình ovan dài, màu nâu đỏ, bụng có màu vàng
đỏ, toàn thân phủ long nhung màu vàng kim hay vàng lục. Mọt có thể xẩm nhập
ngay trên đồng ruộng khi quả bắt đầu vàng bằng cách đẻ trứng trên các khe nứt
hoặc đường sống của quả. Trong kho mọt đẻ trứng lên vỏ quả hoặc lên bao bì
đựng hạt. Để phòng trừ đối tượng sâu hại này cần kiểm tra chặt chẽ không để
mọt lây lan tới khu vực bảo quản, khi phát hiện thấy mọt xuất hiện cần tiến hành
khử trung kho kịp thời bằng thuốc bảo quản.
Chương 4. Thu hoạch và bảo quản
a) Thu hoạch
- Đúng độ chín: 50% lá khô, vàng rụng khoảng 50%, cây khô vàng
- Đúng lúc: nắng ráo, có thể dùng liềm cắt sát mặt đất, phơi khô cả thân
cành sau đó đập tách và làm sạch hạt.
- Đập tách hạt bằng vồ hoặc sử dụng máy: ĐTG-0,5 hay ĐĐT-0,5.
- Phơi hạt giống:
+ Không phơi trực tiếp trên sân gạch,sân xi măng. Hạt phơi tới khi khô
giòn, cắn không dính răng (khoảng 2-3 nắng), độ ẩm khoảng 12%,
+ Vụ đông, đông xuân thiếu nắng, có mưa nhỏ. Thu hoạch bó thành
từng bó phơi trên dây thép, hoặc để nơi thoáng mát cho khô dần.
+ Có thể áp dụng phương thức sấy hạt, tuy nhiên chi phí hơi cao
Một số máy sấy chuyên dụng: SH1-200. SV500, BD-4, SN-400,...
- Làm sạch: nhằm loại bỏ các tạp chất: vỏ quả, cành cây, bụi đất, sạn
cát sỏi, sâu mọt, phân xác mọt,... cần đảm bảo tỷ lệ tạp chất < 1%.
+ Quy mô nông hộ: sử dụng dụng cụ thủ công: sàng, thúng, sảy hạt, có
thể dùng thêm quạt máy hoặc quạt hòm hỗ trợ.
+ Quy mô công nghiệp: sử dụng máy tách tạp chất, phân loại hạt thành
các loại: hạt sạch, chắc mảy hoàn thiện; hạt non, hạt kẹ, hạt nhọn,
hạt nhăn; hạt vỡ, hạt nứt, cát bụi; rơm rác, thân cành, vỏ,...
b) Bảo quản
Những nguyên nhân dẫn đến tổn thất sau thu hoạch:
- Tính chất cơ lý:
Hầu hết các tính chất vật lý như độ chảy rơi, tính tự phân loại,
tính hút nhả ẩm, nhả khí, tính trao đổi nhiệt, đều phụ thuộc vào độ
ẩm của hạt và có liên quan đến quá trình bảo quản. Hạt ẩm tính dẫn
nhiệt cao, hạt khô tính dẫn nhiệt thấp, do đó khi phơi sấy cần cẩn
thận để tránh hạt bị chín và rạn nứt.
- Các hoạt động sinh lý, sinh hóa của hạt:
+ Hô hấp của hạt: hạt ẩm hô hấp mạnh hơn hạt khô. Hạt kẹ, vỡ, rạn hô
hấp mạnh hơn hạt nguyên, mảy
+ Hạt mọc mầm sinh nhiệt lớn, chất lượng hạt bị ảnh hưởng
- Các loại dịch hại:
Điều kiện khí hậu nóng ẩm ở Việt Nam tạo điều kiện cho các loài
dịch hại gây hại trong quá trình bảo quản làm giảm giá trị sản phẩm.
Hạt đậu tương rất dễ bị nhiễm nấm mốc (đặc biệt là nhiễm loại nấm
độc aflatoxin gây hại cho sức khỏe của người và vật nuôi) và các loài
côn trùng gây hại trong bảo quản. Hầu hết các loài côn trùng hại đều
thuộc loài chân đốt, gây mùi khó chịu cho sản phẩm. Hạn chế mọt
hại bằng cách phơi nắng, sàng sẩy, đốt xác mọt để tránh lây lan.
Ngoài ra những dịch hại khác cũng cần chú ý phòng trừ như: chim,
chuột đặc biệt là sự phá hại của chuột.
Kỹ thuật bảo quản
- Quy trình công nghệ bảo quản hạt giống đậu tương cũng khá đơn
giản, có thể tóm tắt như sau: Thu hoạch quả → Làm khô sơ bộ
(phơi) → Tách vỏ quả → Làm sạch → Phân loại → Làm khô bổ sung
tới độ ẩm an toàn → Bảo quản (trạng thái khô, kín).
- Khái niệm độ ẩm an toàn của hạt để bảo quản: Độ ẩm an toàn của hạt
là độ ẩm dưới mức giới hạn làm hư hỏng hạt. Đậu tương có tỷ lệ dầu
cao, do đó độ ẩm an toàn trong bảo quản cần:
Thời gian bảo quản Độ ẩm an toàn (%)
Dưới 3 tháng 14
3-6 tháng 12
6 tháng – 1 năm 10
Trên 1 năm 10
* Các phương tiện bảo quản:
Ở Việt Nam, tại hầu hết các vùng sản xuất đậu tương, đậu
tương được sản xuất trong quy mô hộ gia đình, nên sản lượng đậu
tương thu hoạch ở các nông hộ không nhiều, trung bình chỉ khoảng
vài trăm cân đến vài tấn/hộ. Do đó có thể bảo quản hạt giống trong
các vật liệu đơn gian như: chum vại lớn, thùng gỗ, cót có lưới thép
quây phủ bạt, thùng kim loại hoặc trong các bao dệt PP,... thời gian
sử dụng, hiệu suất đầu tư cho bảo quản cũng tùy theo chất liệu của
các phương tiện bảo quản.
Lớp Học Phần VNUA ( Khoa Nông Học ) - Học Viện Nông Nghiệp Việt Nam
https://sites.google.com/site/lophocphank57vnua/
7/18/15
15
Các phương tiện bảo quản
Phương tiện
bảo quản
Khối lượng
chứa (tấn)
Giá ước tính
(đồng)
Thời gian
sử dụng (năm)
Hiệu suất đầu tư
(đồng/tấn)
Thùng gỗ 1-2 2.000 10 50.000
Chum lớn 0,5-1 200 10 100.000
Cót,lưới thép
quây phủ bạt
0,5-1 50 1 50.000
Thùng kim
loại
0,5 600-700 10 60.000
Bao dệt PP 0,05 3 1 60.000
Lớp Học Phần VNUA ( Khoa Nông Học ) - Học Viện Nông Nghiệp Việt Nam
https://sites.google.com/site/lophocphank57vnua/
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- cay_dau_tuong_9635.pdf