Kiến thức bản địa giữ vai trò quan trọng trong
việc hình thành các giá trị văn hóa của người dân
vùng lũ ở tỉnh An Giang. Kết quả nghiên cứu cho
thấy người dân địa phương đã tích lũy nhiều kiến
thức bản địa có giá trị trong việc dự báo và thích
nghi với lũ, nhờ đó giúp cho người dân giảm phần
nào thiệt hại do lũ gây ra. Tuy nhiên, trong những
năm gần đây một số dấu hiệu trong dự báo lũ đã bị
thay đổi và không còn chính xác như trước nữa,
thêm vào đó khả năng dự báo lũ của người dân
cũng giảm, chỉ có một số lượng nhỏ người dân có
thể dự đoán được lũ. Khi cuộc sống thay đổi, các
kiến thức bản địa không còn thích hợp nữa, người
dân không thể ứng dụng các kiến thức này trong
việc kiếm sống hàng ngày đã làm mất đi giá trị văn
hóa của các loại kiến thức này. Do đó, chỉ có một
số kiến thức bản địa được cho là quan trọng nhất
trong việc truyền đạt lại cho thế hệ sau, cụ thể dạy
bơi lội để giúp trẻ em và người lớn bảo vệ tính
mạng trong mùa lũ và kiến thức về dự báo lũ. Bên
cạnh đó, kết quả cũng cho thấy chỉ số tổn thương
sinh kế (LVI) của 3 xã địa bàn nghiên cứu đầu
nguồn, giữa nguồn, cuối nguồn lần lượt là 0,390;
0,287; 0,331 cho thấy tính dễ bị tổn thương tương
đối cao và giá trị các yếu tố chính dao động trong
khoảng từ 0 (mức độ tổn thương thấp) đến 0,5
(mức độ tổn thương lớn nhất) với dao động là 0,1.
Chỉ số LVI-IPCC của 3 xã trên địa bàn nghiên cứu
đầu nguồn, giữa nguồn, cuối nguồn lần lượt là -
0,010; -0,008; -0,047 cho thấy khả năng tổn thương
trước thay đổi của lũ bất thường ở mức trung bình
13 trang |
Chia sẻ: huongnt365 | Lượt xem: 567 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Nông dân sử dụng kiến thức bản địa để thích nghi với lũ ở tỉnh An Giang, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tap̣ chı́ Khoa hoc̣ Trường Đaị hoc̣ Cần Thơ Tập 50, Phần B (2017): 13-25
13
DOI:10.22144/jvn.2017.032
NÔNG DÂN SỬ DỤNG KIẾN THỨC BẢN ĐỊA ĐỂ THÍCH NGHI VỚI LŨ Ở
TỈNH AN GIANG
Phạm Xuân Phú1 và Nguyễn Ngọc Đệ2
1Khoa Nông nghiệp - Tài nguyên Thiên nhiên, Trường Đại học An Giang
2Khoa Phát triển Nông thôn, Trường Đại học Cần Thơ
Thông tin chung:
Ngày nhận bài: 26/09/2016
Ngày nhận bài sửa: 04/05/2017
Ngày duyệt đăng: 26/06/2017
Title:
Local knowledge in adapting
to floods of farmers in An
Giang province
Từ khóa:
Biến đổi khí hậu, dự báo lũ,
kiến thức bản địa, lũ, thích
nghi
Keywords:
Adaptation, climate change,
flood, flood forecast, local
knowledge
ABSTRACT
This research was carried out to systematize and assess the appropriateness of
farmer’s indigenous knowledge and their adaptive capacity to floods in An
Giang province, results of the research will provide a scientific foundation for
proposing solutions to conserve and enhance the use of indigenous knowledge
in reducing the vulnerability of people living in flooded areas. The results
showed that local people used several effective indigenous knowledges for
coping with floods. However, the valuable indigenous knowledge has not been
recorded yet, nor documented in written materials for sharing to young
generations and communities; some indigenous practices are not suitable with
the current requirement for flood adapation strategies. The livelihood
vulnerability index (LVI) in diffirent zone (upper zone, middle zone, and lower
zone) was decreasingly based on major components as social networks,
knowledge and skills, natural resources, finance and incomes, livelihood
strategies, natural disater and climate variability. The research also suggests
some solutions to conserve the valuable indigenous knowledge in adapting to
climate change of local people.
TÓM TẮT
Nghiên cứu này được thực hiện nhằm hệ thống hóa và đánh giá tính phù hợp
của kiến thức bản địa trong thı́ch nghi với lũ của nông dân ở tỉnh An Giang.
Kết quả nghiên cứu sẽ làm cơ sở khoa học cho việc đề xuất các giải pháp bảo
tồn và phát huy hiệu quả sử duṇg kiến thức bản địa trong việc giảm tính dễ bị
tổn thương của nông dân vùng lũ. Kết quả nghiên cứu cho thấy người dân ở
địa bàn nghiên cứu có nhiều kiến thức bản địa có giá trị trong thích ứng với
lũ. Tuy nhiên, những kiến thức này chưa được ghi chép cụ thể và lưu trữ phù
hợp để truyền lại cho các thế hệ sau và chia sẻ rộng rãi trong cộng đồng. Bên
cạnh đó, cũng có một số kiến thức bản địa của người dân không còn phù hợp
và đã sai lệch so với hiện nay nên cần xem xét trong điều kiện hiện tại. Kết
quả nghiên cứu cho thấy chỉ số tổn thương sinh kế (Livelihood Vulnerability
Index-LVI) của khu vực nghiên cứu giảm dần theo các yếu tố chính là mạng
lưới xã hội, kiến thức - kỹ năng, nguồn tài nguyên thiên nhiên, thu nhập và tài
chính, chiến lược sinh kế, thảm họa thiên nhiên và khác nhau ở vùng đầu, giữa
và cuối nguồn. Vì thế, nghiên cứu đã đưa ra một số giải pháp bảo tồn kiến
thức bản địa có giá trị, ứng dụng kết hợp kiến thức bản địa với các biện pháp
thích nghi hiện tại để nâng cao khả năng chủ động thích nghi với lũ trong điều
kiện khí hậu biến đổi.
Trích dẫn: Phạm Xuân Phú và Nguyễn Ngọc Đệ, 2017. Nông dân sử dụng kiến thức bản địa để thích nghi
với lũ ở tỉnh An Giang. Tạp chí Khoa học Trường Đại học Cần Thơ. 50b: 13-25.
Tap̣ chı́ Khoa hoc̣ Trường Đaị hoc̣ Cần Thơ Tập 50, Phần B (2017): 13-25
14
1 GIỚI THIỆU
An Giang là một trong những tỉnh đầu nguồn
của Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) nên chịu
ảnh hưởng của lũ hàng năm. Khi lũ về, bên cạnh
việc mang một lượng lớn phù sa để bồi đắp, cải
thiện độ phì của đất; vệ sinh đồng ruộng, rửa phèn
(Đào Công Tiến, 2001) lũ còn tạo việc làm và thu
nhập cho người dân qua việc đánh bắt cá tự nhiên,
hái rau thủy sinh, các dịch vụ du lịch Tuy nhiên,
lũ cũng mang đến một số bất lợi cho người dân, cụ
thể từ năm 2000 cho đến nay diễn biến bất thường
của lũ đã làm ảnh hưởng đến các hoạt động sinh kế
của người dân. Để có thể thích ứng với những thay
đổi của lũ, với những thay đổi của xã hội và môi
trường con người phải luôn biết cách sử dụng kiến
thức bản địa để khai thác tài nguyên thiên nhiên
một cách thích hợp và quản lý một cách linh hoạt
hơn (CRES, 2010). Kiến thức bản địa trong thích
nghi với lũ ở An Giang được hiểu là kinh nghiệm
được tích lũy của cộng đồng địa phương qua nhiều
thế hệ và được thừa kế một cách rộng rãi, nó được
phản ảnh qua việc người dân địa phương sống và
ứng phó hài hòa với lũ hàng năm để khai thác hiệu
quả các nguồn tài nguyên do lũ mang lại, nhưng
tránh được các tổn thương do lũ gây ra (Van et al.,
2011). Công tác ứng phó với lũ dựa trên kiến thức
sẵn có của cộng đồng địa phương cần được tìm
hiểu và phổ biến hiệu quả để góp phần vào phát
triển bền vững của địa phương trước hoàn cảnh của
biến đổi khí hậu đang ảnh hưởng đến thay đổi bất
thường của lũ. Đã có nhiều tác giả nghiên cứu về
kiến thức bản địa như thích ứng với biến đổi khí
hậu, bảo tồn về cây dược liệu, bảo tồn gen, giống
địa phương, sống chung với lũ ở ĐBSCL, thay đổi
thời tiết của các tác giả Warren (1995), Luise
(1998), Lê Trọng Cúc (1998), Hoàng Xuân Tý
(2000), Hoàng Thị Hoàng Ngân (2010), Van
(2011), Bùi Quang Vinh (2013), Nguyên Kim
Uyên (2013), Hanh (2014). Tuy nhiên, thực tế cho
thấy chưa có nhiều nghiên cứu về hệ thống hóa và
đánh giá tính phù hợp của kiến thức bản địa trong
khả năng thích nghi với những thay đổi của lũ
trong sản xuất nông nghiệp ở địa bàn nghiên cứu
trước bối cảnh biến đổi khí hậu. Do đó, đề tài “
Nông dân sử dụng kiến thức bản địa để thích nghi
với lũ ở tỉnh An Giang” được tiến hành nhằm tìm
hiểu hệ thống hóa và đánh giá sư ̣phù hơp̣ của kiến
thức bản địa góp phần cung cấp cơ sở khoa học và
thực tiễn cho khả năng thı́ch ứng của nông dân đối
với lũ trong các điều kiêṇ khác nhau, từ đó đề xuất
các giải pháp bảo tồn và phát huy giá tri ̣ sử duṇg
kiến thức bản địa của nông dân tı̉nh An Giang
giảm nhẹ tính dễ bị tổn thương của nông dân trong
sản xuất nông nghiệp trước bối cảnh của biến đổi
khí hậu.
2 PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1 Địa bàn nghiên cứu
Tỉnh An Giang được chọn là địa bàn nghiên
cứu vì đây là một trong những tỉnh đầu nguồn của
ĐBSCL và cũng là tỉnh thuộc một phần của hạ lưu
sông Mê Công. Trong khu vực ĐBSCL, An Giang
là tỉnh thường bị ảnh hưởng nặng nề và dễ bị tổn
thương khi lũ về. Trong địa bàn tỉnh An Giang,
nghiên cứu chọn một xã ở khu vực đầu nguồn, một
xã ở giữa nguồn và một xã ở cuối nguồn có các đặc
điểm khác nhau về vùng địa lý, sinh thái, thời gian
ngập lũ, điều kiện phát triển kinh tế - xã hội, cơ sở
hạ tầng được chọn làm điểm nghiên cứu (Hình 1).
Đặc điểm khác nhau của các xã được chọn như
sau:
Đầu nguồn: Xã Phú Hữu là một trong những xã
đầu nguồn của huyện An Phú, tỉnh An Giang, chịu
ảnh hưởng nặng nền bởi lũ và lũ xuất hiện sớm và
có cơ sở hạ tầng phát triển chưa tốt, điều kiện kinh
tế - xã hội tương đối phát triển.
Giữa nguồn: Xã Vĩnh An, huyện Châu Thành là
một trong những xã có lũ về chậm, thiệt hại do lũ ít
hơn vùng đầu nguồn, điều kiện kinh tế - xã hội
phát triển tốt và cơ sở hạ tầng phát triển hoàn
chỉnh.
Cuối nguồn: Xã Vĩnh Phước là một trong
những xã cuối nguồn của huyện Tri Tôn, tỉnh An
Giang, lũ xuất hiện chậm và thiệt hại do lũ ít hơn,
cơ sở hạ tầng và kinh tế - xã hội kém phát triển.
Tap̣ chı́ Khoa hoc̣ Trường Đaị hoc̣ Cần Thơ Tập 50, Phần B (2017): 13-25
15
Hình 1: Bản đồ ngập lũ tỉnh An Giang: (a) Lũ lớn năm 2000; (b) Lũ bình thường năm 2005
Nguồn: Chi cục Thủy lợi tỉnh An Giang, 2016
2.2 Phương pháp nghiên cứu
Để thỏa mãn mục tiêu nghiên cứu, nghiên cứu
tiếp cận sinh kế bền vững (DFID, 2009) sử duṇg
phương pháp khảo sát và đánh giá dưạ trên KAP
(kiến thức-thái đô-̣hành vi) của WHO (2008). Các
thông tin được thu thập bằng cách kết hợp các
phương pháp nghiên cứu định lượng và định tính.
Trong đó, phương pháp nghiên cứu định tính bao
gồm thực hiện đánh giá nông thôn có sự tham gia
của người dân và sử dụng các công cụ sau: lược sử;
lịch thời vụ; giản đồ Venn; ma trận xếp hạng khó
khăn; và phỏng vấn sâu các cấp lãnh đạo ở địa
phương như Sở Tài nguyên Môi trường, Ban
Phòng tránh lụt bão, Phòng Tài nguyên Môi
trường, Phòng Nông nghiệp và Phát triển nông
thôn, Phó Chủ tịch xã phụ trách về nông nghiệp.
Phương pháp nghiên cứu định lượng qua việc
phỏng vấn 180 hộ có hơn 50 năm sinh sống tại 3 xã
Phú Hữu (đầu nguồn), Vĩnh An (giữa nguồn), Vĩnh
Phước (cuối nguồn). Do đó, các hộ này có đủ thời
gian trải nghiệm và tích lũy kinh nghiệm sống tại
địa phương, đồng thời có được các kiến thức bản
địa đã được áp dụng thành kinh nghiệm sống.
Nghiên cứu nhằm tính toán tính dễ bị tổn thương
sinh kế trước thay đổi của lũ ở 3 xã khác nhau như
xã thượng nguồn (Phú Hữu), giữa nguồn (Vĩnh An)
và cuối nguồn (Vĩnh Phước) bằng cách áp dụng chỉ
LVI phát triển bởi Hahn et al. (2009). Các thành
phần đó là các chỉ số dễ bị tổn thương của cộng
đồng để lũ tác động được thể hiện trong Bảng 1.
Các thành phần này được phân loại theo 5 tài sản
sinh kế khác nhau trong khung sinh kế bền vững:
con người, vật chất, xã hội, tự nhiên, tài chính.
Tiểu thành phần đã được phát triển như chỉ số theo
một thành phần duy nhất được thể hiện trong Bảng 2.
Cách tính toán chỉ số LVI: Theo Hahn và ctv.
(2009), LVI được áp dụng nhằm đánh giá sự tác
động của lũ đến tổn thương sinh kế người dân vùng
lũ. Chỉ số LVI có hai cách tiếp cận: (1) LVI được
thể hiện như một chỉ số hỗn hợp bao gồm bảy yếu
tố chính (đặc điểm hộ, chiến lược sinh kế, mạng xã
hội, sức khỏe, lương thực, nguồn nước, các thảm
họa thiên nhiên và sự thay đổi khí hậu), mỗi yếu tố
chính bao gồm một vài chỉ báo hoặc yếu tố phụ; (2)
tập hợp bảy yếu tố chính này vào trong ba tác nhân
“đóng góp” gồm sự hứng chịu, sự nhạy cảm/tính dễ
bị tổn thương và khả năng thích ứng (theo định
nghĩa khả năng bị tổn thương của Ủy ban Liên
Chính phủ về biến đổi khí hậu IPCC -
Intergovernment Panel on Climate Change). Mỗi
yếu tố phụ được đo lường theo mỗi hệ thống khác
nhau nên cần được chuẩn hóa để trở thành một chỉ
số theo phương trình sau:
Sd là giá trị gốc yếu tố phụ đối với địa phương d,
Smin và Smax lần lượt là giá trị tối thiểu và tối đa.
minmax
min
SS
SSindex dsd
Tap̣ chı́ Khoa hoc̣ Trường Đaị hoc̣ Cần Thơ Tập 50, Phần B (2017): 13-25
16
Bảng 1: Các tiêu chí để đánh giá chỉ số tổn thương của lũ đến sinh kế
Nguồn vốn Các yếu tố chính Các yếu tố phụ
Con người
Sức khỏe Tỷ lệ hộ với thành viên có sức khỏe xấu Tỷ lệ hộ với thành viên có sức khỏe xấu trong mùa lũ
Kiến thức và kỹ năng Tỷ lệ chủ hộ không biết chữ Tỷ lệ chủ hộ không tiếp cận được tập huấn ứng phó với lũ.
Chiến lược sinh kế
Đa dạng hóa sinh kế nông nghiệp
Tỷ lệ hộ có nguồn thu nhập chính từ nông nghiệp
Tỷ lệ hộ làm hoạt động phi nông nghiệp
Tỷ lệ hộ khai thác nguồn tài nguyên thiên nhiên
Tỷ lệ hộ đánh bắt cá trong mùa lũ
Tỷ lệ hộ không có việc làm trong mùa lũ
Tự nhiên
Đất đai Tỷ lệ hộ không có đất (0-1 ha) Tỷ lệ hộ có đất nhỏ (1-3 ha)
Tài nguyên thiên nhiên
Tỷ lệ hộ không sản xuất lúa vụ 3 (trong mùa lũ)
Tỷ lệ hộ khai thác nguồn tài nguyên thiên nhiên
Tỷ lệ hộ bắt cá trong mùa lũ
Thảm họa tự nhiên và BĐKH
Số người chết do lũ trong năm 2015
Tỷ lệ hộ không nhận được cảnh báo về lũ lụt
Độ lệch chuẩn trung bình của mực nước tại Tân Châu
Độ lệch chuẩn trung bình lượng mưa
Số người chết do lũ trong năm 2015
Xã hội
Đặc điểm nông hộ
Tỷ lệ lao động phụ thuộc (3-4 người)
Tỷ lệ chủ hộ với thành viên nữ
Số thành viên trung bình mỗi hộ
Tỷ lệ hộ nghèo
Mạng lưới xã hội
Tỷ lệ hộ nhận được giúp đỡ khi gặp khó khăn
Tỷ lệ hộ không cần giúp đỡ
Tỷ lệ hộ không tham gia các tổ chức xã hội
Vật chất Nhà ở và điều kiện sống
Tỷ lệ hộ có nhà tạm thời
Tỷ lệ hộ có nhà ở bị ảnh hưởng do lũ
Tỷ lệ hộ không đủ đáp ứng nhu cầu vệ sinh
Tài chính
Tỷ lệ hộ có vay tiền
Tỷ lệ hộ có thu nhập dưới hai mươi triệu đồng
Tỷ lệ hộ không có nguồn thu nhập trong mùa lũ
Bảng 2: Nguyên nhân gây ra tổn thương sinh kế ở địa bàn nghiên cứu
Tổn
thương Các nguyên nhân yếu tố đóng góp tổn thương sinh kế
Tổn thương
= sự phơi -
sự nhạy
cảm * khả
năng thích
nghi
(e) (a) (s)
Tỷ lệ hộ có nguồn thu nhập
chính từ nông nghiệp Tỷ lệ chủ hộ không biết chữ
Tỷ lệ hộ không nhận được
cảnh báo về lũ lụt
Tỷ lệ hộ làm hoạt động phi
nông nghiệp
Tỷ lệ chủ hộ không tiếp cận
được tập huấn ứng phó với lũ
Thảm họa tự nhiên và
biến đổi khí hậu
Tỷ lệ hộ đánh bắt cá trong mùa
lũ
Tỷ lệ hộ không có việc làm
trong mùa lũ
Số người chết do lũ trong
năm 2015
Tỷ lệ hộ không có việc làm
trong mùa lũ
Tỷ lệ hộ không nhận được cảnh
báo về lũ lụt
Tỷ lệ hộ không có đất (0-1 ha) Tỷ lệ lao động phụ thuộc (3-4 người)
Tỷ lệ hộ có đất nhỏ (1-3 ha) Tỷ lệ hộ không đủ đáp ứng nhu cầu vệ sinh
Tỷ lệ hộ không sản xuất lúa vụ
3 (trong mùa lũ)
Tỷ lệ hộ không có nguồn thu
nhập trong mùa lũ
Tỷ lệ hộ có vay tiền
Ghi chú: (e): phơi bày, (a) khả năng thích ứng, (s): sự nhạy cảm
Tap̣ chı́ Khoa hoc̣ Trường Đaị hoc̣ Cần Thơ Tập 50, Phần B (2017): 13-25
17
Sau khi được chuẩn hóa, các yếu tố phụ được
lấy trung bình để tính giá trị của mỗi yếu tố chính
bằng cách áp dụng phương trình sau:
Md: một trong các yếu tố chính đối với địa
phương d,
indexsdi các yếu tố phụ được ghi chỉ số theo i,
n là số lượng yếu tố phụ trong mỗi yếu tố
chính.
Khi giá trị của các yếu tố chính được xác định,
chỉ số tổn thương sinh kế cấp địa phương (xã) được
tính toán theo phương trình:
LVId là chỉ số tổn thương sinh kế địa phương
(xã) d,
WMi được xác định bằng số lượng các yếu tố
phụ tạo nên các yếu tố chính.
Giá trị chỉ số LVI nằm trong khoảng [0,1], LVI
càng gần 1 thì mức độ tổn thương càng cao.
LVI-IPCC: chỉ số LVI của xã p bằng cách sử
dụng khung tổn thương IPCC
LVI - IPCCp = (ep – ap) * Sp (có giá trị dao
động từ -1 đến 1)
Trong đó: -1 là mức tổn thương thấp nhất, 1 là
mức tổn thương cao nhất.
Chỉ số IPCC: CFP - được định nghĩa gồm
những hợp phần chính của mức độ ảnh hưởng
(exposure), tính nhạy cảm (sensitivity), và năng lực
thích ứng (adaptive capacity) cho mỗi xã p.
/1 1C F W M iM W M ip pii i
Mpi: hợp phần chính xã p, xác lập chỉ số theo i
WMi: trọng số của mỗi hợp phần
Hợp phần chính của mức độ ảnh hưởng (e) là
biến đổi khí hậu; của năng lực thích ứng (a) là đặc
điểm hộ, chiến lược sinh kế và mạng lưới xã hội;
mức độ nhạy cảm (s) gồm các hợp phần chính kỹ
năng kiến thức và sức khỏe, tài nguyên thiên nhiên
và đất, tài chính.
3 KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN
3.1 Diễn biến lũ giai đoạn 1926-2015 và ảnh
hưởng của lũ đến người dân
3.1.1 Diễn biến lũ qua các năm ở tỉnh An
Giang giai đoạn 1926 - 2015
Theo các số liệu ghi nhận của Đài khí tượng
thủy văn tỉnh An Giang, từ năm 1926 đến năm
2015 địa bàn tỉnh đã xuất hiện 22 trận lũ lớn, 34
trận lũ trung bình, 31 trận lũ nhỏ. Trong đó, năm
2015 là năm lũ nhỏ nhất trong tất cả các năm qua
(Hình 2). Mùa lũ hàng năm ở khu vực đầu nguồn
của tỉnh An Giang kéo dài khoảng 6 tháng, mức độ
ngập biến động từ 0,3 đến 3 m tùy địa hình từng
nơi. Theo Dương Văn Nhã (2006) lũ lớn còn xảy ra
khi đồng thời có lượng nước lớn đổ về từ các khu
vực đầu nguồn của tỉnh, mưa lớn và kéo dài, tác
động của triều cường; mức tăng và giảm mực nước
lũ hàng ngày khoảng 10-20 cm đối với lũ lớn và 5-
7 cm trong lũ thường
Hình 2: Đỉnh lũ của Tân Châu từ năm 1926 đến năm 2015
n
index
M
n
i is
d
d 1
Tap̣ chı́ Khoa hoc̣ Trường Đaị hoc̣ Cần Thơ Tập 50, Phần B (2017): 13-25
18
Nguồn: Đài khí tượng Thủy văn tỉnh An Giang, 2016
3.1.2 Ảnh hưởng của lũ đến cuộc sống và sản
xuất của người dân
Bên cạnh việc mang về lượng lớn phù sa để bồi
đắp cho đồng ruộng, cải thiện độ phì của đất; vệ
sinh đồng ruộng, rửa phèn (Đào Công Tiến, 2001)
lũ còn tạo việc làm và thu nhập cho người dân qua
việc đánh bắt cá tự nhiên, hái rau thủy sinh, các
dịch vụ du lịch dù lũ lớn hay lũ nhỏ cũng gây
nhiều thiệt hại về tính mạng, tài sản và ảnh hưởng
đến sản xuất của người dân.
Theo kết quả thống kê của Ban Chỉ huy PCLB
& TKCN huyện An Phú (đầu nguồn), huyện Châu
Thành (giữa nguồn), cuối nguồn (Tri Tôn) của tỉnh
An Giang năm 2000, 2011 và 2016 thì thiệt hại do
lũ gây ra trong sản xuất nông nghiệp, cơ sở hạ tầng
và nhà cửa ở các vùng đầu, giữa và cuối nguồn là
khác nhau. Trong ba năm 2000, 2011 và 2016 thì
mức thiệt hại do lũ gây ra thấp nhất vào năm 2016,
tuy nhiên mỗi năm mức thiệt hại ở các lĩnh vực
khác nhau cũng khác nhau (Hình 3). Cụ thể, đối
với năm 2000, ở vùng đầu nguồn thiệt hại chủ yếu
là sản xuất nông nghiệp nhưng đến năm 2011 thiệt
hại nhiều ở sản xuất nông nghiệp và cả về nhà cửa,
trái lại đến năm 2016 thì thiệt hại cao nhất là nhà
cửa, kế đến là sản xuất nông nghiệp. Ở vùng giữa
nguồn thì năm 2000 thiệt hại chủ yếu là trong sản
xuất nông nghiệp và cơ sở hạ tầng nhưng đến năm
2011 thì mức thiệt hại nhà cửa chiếm cao nhất,
điều này cũng xảy ra tương tự đối với vùng cuối
nguồn. Nếu tính chung tổng thiệt hại cho cả ba lĩnh
vực thì năm 2011 là năm có tổng thiệt hại cao nhất
ở cả ba vùng. Mặc dù, đỉnh lũ của năm 2000 cao
hơn đỉnh lũ năm 2011 nhưng thiệt hại năm 2011 lại
rất lớn. Điều này có thể là do trước năm 2000, chu
kỳ của lũ thường diễn ra theo quy luật vài năm lũ
nhỏ thì có một năm lũ lớn do đó người dân có thể
dự đoán và phòng bị. Bên cạnh đó, hệ thống đê bao
chưa phát triển nhiều nên người dân nhất là ở vùng
đầu nguồn luôn trong tư thế sẵn sàng đón lũ. Trong
khoảng thời gian từ năm 2001- 2010, do hệ thống
đê đã phát triển nhiều lại không xảy ra đợt lũ lớn
nào nên người dân không còn chủ động tránh lũ
như trước, việc gia cố đê chưa đồng bộ. Trong khi
đó, lũ năm 2011 lại có cường suất mạnh và diễn
biến phức tạp, lũ đã phá vỡ nhiều tuyến đê, đồng
thời nước lũ cao và duy trì ngập lụt trong thời gian
dài đã gây thiệt hại nặng nề cho sản xuất. Ngoài ra,
khi chưa có hệ thống đê bao thì lũ về tràn vào cả
đồng, nhưng kể từ khi đê bao được xây dựng lũ
không vào được đồng nên dòng chảy của lũ tập
trung chủ yếu vào các hệ thống sông ngòi, chạy
dọc theo các tuyến đê bao - đây lại là khu vực tập
trung nhiều tuyến dân cư - nên khi gần một thập
niên không có lũ lớn, hệ thống đê bao không được
gia cố, lũ mạnh về đê bao dễ bị phá vỡ và ảnh
hưởng nặng đến những hộ dân sống theo cụm đê
bao này.
Hình 3: Thiệt hại do lũ gây ra trong các năm 2000, 2011 và 2016
Tap̣ chı́ Khoa hoc̣ Trường Đaị hoc̣ Cần Thơ Tập 50, Phần B (2017): 13-25
19
Bên cạnh thiệt hại về tài sản thì các trận lũ này
cũng gây ra thiệt hại về tính mạng của người dân,
trong đó năm 2000 có thiệt hại về người là cao nhất
đối với cả ba vùng, vùng đầu nguồn là nơi có
số lượng người chết cao hơn hai vùng còn lại
(Hình 4).
Hình 4: Tác động của lũ đến tính mạng con người ở ba vùng nghiên cứu
3.1.3 Ðánh giá tính dễ bị tổn thương do lũ đến
sinh kế của nông dân tỉnh An Giang
Qua kết quả phân tích ở các nguồn vốn và các
chỉ số tổn thương sinh kế (LVI) từ 10 hợp phần
chính, 30 tiểu hợp phần và 5 nguồn vốn (Hình 5)
cho thấy vùng đầu nguồn là khu vực dễ bị tổn
thương nhất, cụ thể chỉ số tổn thương theo trung
bình trọng số của H, N, S, P, F (trong đó H - vốn
con người; N - vốn tự nhiên; S - vốn xã hội; P -
vốn vật chất và F - vốn tài chính) ở xã Phú Hữu là
cao nhất: 0,390, kế đến là xã Vĩnh Phước: 0,331;
và thấp nhất là xã Vĩnh An: 0,287. Giá trị các hợp
phần của LVI dao động trong khoảng từ 0 (mức độ
tổn thương thấp) ở trung tâm của hình đến 0,5
(mức độ tổn thương lớn nhất) ở vùng ngoài và
khoảng dao động là 0,1. Trong năm nguồn vốn trên
thì nguồn vốn tự nhiên, nhân lực, tài chính và xã
hội là những nguồn vốn mà cả ba vùng đều có chỉ
số tổn thương cao, trái lại nguồn vốn vật chất có
chỉ số tổn thương thấp nhất.
Hình 5: Tính dễ bị tổn thương về 5 nguồn vốn sinh kế ở địa bàn nghiên cứu
3.1.4 Chỉ số tổn thương LVI-IPCC tại khu vực
nghiên cứu
Kết quả tính toán các yếu tố ảnh hưởng theo
LVI-IPCC (mức độ ảnh hưởng, khả năng thích ứng
và tính nhạy cảm) dựa trên các tiểu hợp phần về
đặc điểm hộ, chiến lược sinh kế và mạng lưới xã
hội tại ba xã Phú Hữu, Vĩnh An, Vĩnh Phước
(Bảng 3) cho thấy khả năng tổn thương trước biến
đổi khí hậu của người dân ở ba xã nằm trong
khoảng thấp và trung bình. Trong đó, xã Vĩnh
Phước (cuối nguồn) có chỉ số tổn thương theo LVI-
IPCC là thấp nhất, kế đến là xã Phú Hữu (đầu
nguồn), cao nhất là xã Vĩnh An (giữa nguồn) với
các chỉ số lần lượt là -0,047; -0,010 và -0,008. Khả
0
10
20
30
2000 2011 2016
Người
NămĐầu nguồn Giữa nguồn
Tap̣ chı́ Khoa hoc̣ Trường Đaị hoc̣ Cần Thơ Tập 50, Phần B (2017): 13-25
20
năng tổn thương trước biến đổi khí hậu của xã
Vĩnh Phước thấp hơn hai xã còn lại vì đây là xã
cuối nguồn, do đó mức độ ảnh hưởng của lũ hàng
năm thấp hơn hai xã còn lại. Bên cạnh đó, sự nhạy
cảm và khả năng thích ứng cao hơn so với mức độ
ảnh hưởng, điều này giúp cho xã giảm được tổn
thương do lũ gây ra. Đối với xã Phú Hữu, do là xã
đầu nguồn nên hàng năm phải đối mặt với lũ do đó
mức độ ảnh hưởng của lũ gây ra cho người dân
trong xã thường cao hơn hai xã còn lại; tuy nhiên,
sự nhạy cảm và khả năng thích ứng với lũ cũng khá
cao nhờ đó đã làm giảm tính tổn thương do lũ đem
lại. Trái lại, Vĩnh An là xã giữa nguồn, mức độ ảnh
hưởng do lũ thấp hơn so với xã đầu nguồn nhưng
cao hơn so với xã cuối nguồn, tuy nhiên sự nhạy
cảm và khả năng thích ứng của các nhóm hộ này
lại thấp, điều này không giúp người dân giảm tính
tổn thương do lũ gây ra.
Bảng 3: Tính toán về những yếu tố ảnh hưởng theo LVI-IPCC tại ba địa điểm nghiên cứu của tỉnh An
Giang
Yếu tố ảnh
hưởng Hợp phần chính
Xã
Phú Hữu Vĩnh An Vĩnh Phước
Xã hội nhân khẩu 0.238 0.140 0.221
Chiến lược sinh kế 0.399 0.277 0.321
Mạng lưới xã hội 0.611 0.556 0.526
Khả năng thích ứng 0399 0.299 0.337
Sức khỏe 0.100 0.017 0.050
Kiến thức kỹ năng 0.584 0.517 0.733
Ðất đai 0.367 0.384 0.350
Tài nguyên thiên nhiên 0.566 0.300 0.389
Tài chính 0.465 0.322 0.434
Sự nhạy cảm 0.433 0.309 0.395
Thảm họa tự nhiên và biến đổi khí hậu 0.270 0.232 0.242
Mức độ ảnh hưởng 0.376 0.272 0.219
LVI-IPCC={( Mức độ ảnh hưởng- khả năng thích ứng)*
tính nhạy cảm} -0.010 -0.008 -0.047
3.2 Kiến thức bản địa của người dân An
Giang trong dự báo và thích nghi với lũ
Thông qua việc sống chung với lũ hàng năm,
người dân địa phương đã tích lũy được nhiều kinh
nghiệm để dự báo và thích nghi với lũ nhằm để bảo
vệ tính mạng, tài sản của người dân trong cuộc
sống và sản xuất nông nghiệp.
3.2.1 Kiến thức bản địa của người dân An
Giang trong dự báo lũ
Các kinh nghiệm đã được người dân sử dụng để
dự đoán lũ gồm quan sát diễn biến lũ trong các
năm trước; quan sát màu nước, hướng gió; quan sát
biểu hiện của một số loài thực vật, động vật
(Hình 6).
Hình 6: Tỷ lệ phần trăm hộ dân sử dụng các dấu hiệu trong dự báo lũ
0
10
20
30
40
50
60
70
80
90
100
Chu kỳ lũ
hoặc thời
gian lũ
Quan sát
màu nước
Quan sát cây
cỏ
Quan sát
hành vi của
động vật
Cân nước
%
Đầu nguồn Giữa nguồn Cuối nguồn
Tap̣ chı́ Khoa hoc̣ Trường Đaị hoc̣ Cần Thơ Tập 50, Phần B (2017): 13-25
21
Tuy nhiên, có sự khác biệt về tỷ lệ người dân sử
dụng các dấu hiệu để làm cơ sở dự báo lũ ở ba
vùng nghiên cứu. Kết quả nghiên cứu cho thấy,
vùng đầu nguồn (xã Phú Hữu) có tỷ lệ người dân
sử dụng các dấu hiệu này để dự đoán lũ cao hơn so
với hai vùng còn lại, tỷ lệ thấp nhất là vùng giữa
nguồn (xã Vĩnh An). Trong các dấu hiệu để quan
sát dự báo lũ thì quan sát màu nước, cây cỏ và
động vật được người dân sử dụng nhiều nhất; ít
được sử dụng nhất là phương pháp cân nước. Các
phương pháp quan sát lũ (chu kỳ hoặc thời gian) và
cân nước để dự báo lũ được sử dụng nhiều ở vùng
đầu nguồn (xã Phú Hữu). Dự đoán lũ dựa vào các
đặc điểm tự nhiên này được người dân thực hiện
như sau:
Đối với chu kỳ lũ hoặc thời gian lũ, người
dân dựa vào các đặc điểm sau (i) mực nước của các
tháng 5 và 6 âm lịch, nếu mực nước trong hai tháng
này tăng lên thì tháng 7 và tháng 8 âm lịch sẽ có lũ;
(ii) cứ 3 năm lũ thấp thì có một năm lũ cao, hoặc
cứ 10 năm thì có một đợt lũ cao; (iii) năm Thìn lũ
sẽ cao.
Dựa vào quan sát màu của nước, nếu trong
nước có nhiều tảo (trứng nước) hoặc trứng nước
xuất hiện sớm (tháng 5, 6 âm lịch) thì sẽ có lũ.
Dự đoán lũ bằng cách cân nước, để biết
được lũ năm sau lớn hay nhỏ hơn năm hiện tại,
người dân lấy nước vào ngày cuối của năm (ngày
30/12 âm lịch) cho vào một chai sau đó đem cân;
đến ngày đầu tiên của năm mới (01/01 âm lịch) lấy
nước tại vị trí cũ cho vào chai khác sau đó đem cân
rồi so sánh khối lượng hai chai nước, nếu chai
nước lấy vào năm nào nặng hơn thì năm đó lũ cao
hơn.
Trông theo gió hướng nam, nếu gió thổi
mạnh kèm theo mưa, nước lên nhanh và chảy mạnh
thì năm đó lũ sẽ cao, ngược lại nếu gió thổi ngược
thì lũ nhỏ.
Quan sát hành vi của động vật như kiến,
mối, chim vòng vọc làm tổ trên cây cao; chuột đào
hang trên cao; nhạn, cò đi theo đàn; mạng nhện
đóng nhiều vào tháng 7 âm lịch thì sắp có mưa lũ
lớn.
Quan sát thực vật dựa vào (i) ngấn của cây
đọt sậy, nếu đọt sậy có 4-5 ngấn vào tháng 5 âm
lịch thì lũ lớn, nếu chỉ có 2 ngấn thì lũ nhỏ; (ii)
chót lá cây sậy nhiều hơn 2 ngấn thì lũ lớn, nếu có
1 ngấn thì lũ nhỏ; (iii) cây sậy ra lóng dài hơn 50
cm; (iv) cỏ Tây có lá ra gần chóp hay có nhiều
ngấn; (v) măng tre mọc sau cao hơn măng mọc
trước; (vi) rễ cây cà na ra nhiều.
Người dân cũng cho rằng trong những năm trở
lại đây do thời tiết diễn biến bất thường và phức
tạp không còn theo quy luật tự nhiên nên độ chính
xác của dự đoán lũ và thời tiết không còn cao như
trước; cụ thể trong năm 2011 dù măng tre mọc sau
không cao hơn măng tre mọc trước nhưng mực
nước lũ vẫn cao, hay năm 2015 trong nước có
nhiều trứng nước nhưng lại không có lũ (PRA,
2016). Tuy nhiên, khả năng dự báo lũ được người
dân đánh giá khác nhau ở cả ba vùng nghiên cứu.
Hình 7: Đánh giá khả năng dự báo lũ của người dân
Kết quả từ Hình 7 cho thấy phần lớn người dân
ở cả ba xã không thể dự báo lũ, trong đó xã Vĩnh
An chiếm tỷ lệ người dân không thể dự báo lũ là
cao nhất (89,4%), kế đến là xã Vĩnh Phước
0
10
20
30
40
50
60
70
80
90
Không thể dự
báo
Thay đổi ít Dự báo được
%
Đầu nguồn Giữa nguồn Cuối nguồn
Tap̣ chı́ Khoa hoc̣ Trường Đaị hoc̣ Cần Thơ Tập 50, Phần B (2017): 13-25
22
(86,7%) và xã Phú Hữu (76,7%). Số lượng người
dân dự báo được lũ ở cả ba xã là rất thấp, trong đó
Vĩnh An chiếm tỷ lệ thấp nhất (5%) kế đến là Vĩnh
Phước (10%) và Phú Hữu (13,3%). Số còn lại cho
rằng dấu hiệu để dự báo lũ có thay đổi nhưng chưa
nhiều. Cũng theo quan điểm của người dân, nguyên
nhân không thể dự báo được lũ trong những năm
gần đây là do từ khoảng năm 2000 trở lại đây diễn
biến của lũ ngày càng bất thường, một số người
dân cho rằng mực nước có xu hướng giảm, trong
khi đó một số khác thì cho rằng mực nước có xu
hướng tăng lên. Cũng theo ý kiến của người dân,
các dấu hiệu dự báo lũ như quan sát chu kỳ và thời
gian lũ, quan sát màu nước, thực vật và cân nước
không còn cho kết quả chính xác nữa. Do đó, để có
thể dự báo lũ, người dân cần phải kết hợp nhiều
thông tin lại với nhau.
3.2.2 Kiến thức bản địa của người dân trong
thích nghi với lũ
Bằng các kinh nghiệm sống chung với lũ từ các
mùa lũ trước, người dân đã chủ động phòng tránh
và nhằm giảm thiệt hại do lũ gây ra. Trước tiên,
người dân vùng lũ biết dựng nhà theo kiểu nhà sàn
có trụ nâng; khi có biểu hiện nước dâng thì người
dân chủ động nâng sàn nhà lên. Đối với sản xuất
nông nghiệp, người dân chủ động thay đổi lịch thời
vụ, giống canh tác, kỹ thuật bón phân, làm đất và
thu hoạch; người dân cũng biết cách bảo vệ vật
nuôi trong mùa lũ bằng việc đóng bè chuối, dùng
rơm và đất sình trải lên trên, cho gia súc, gia cầm
lên trên bè, sau khi lũ rút các bó rơm này được
dùng để làm phân hữu cơ bón cho cây trồng. Trong
đánh bắt thủy sản người dân trong cả ba vùng
nghiên cứu dựa vào mực nước, quan sát các loại cá
đánh bắt được để dự đoán các loài cá sẽ hiện diện
trong các ngày tiếp theo (Hình 8).
Ngày nay, khi lũ thay đổi bất thường người dân
ở ba vùng nghiên cứu đã biết kết hợp kiến thức bản
địa cùng với theo dõi diễn biến lũ trên các phương
tiện truyền thông để thay đổi trong dự báo lũ với
mức độ tiếp cận rất cao. Tuy nhiên, trong 3 vùng
nghiên cứu cho thấy chỉ có vùng đầu nguồn người
dân có kiến thức bản địa thành lập nhà trẻ di động
(nhà nổi): tập trung trẻ em vào để tránh lũ, giúp
cho cha mẹ trẻ an tâm làm việc, hai vùng còn lại
người dân không có kiến thức này.
Hình 8: Kiến thức bản địa của người dân thích nghi với lũ
Mặc dầu được đánh giá là hiện tượng lũ lụt
nhưng đối với người dân vùng ĐBSCL lũ không
phải là một thiên tai mà trái lại, lũ được xem như là
một tặng phẩm, một phương thức canh tác nông
nghiệp khác. Thay vì trồng lúa, người dân nhất là
người không có đất có thể kiếm sống bằng việc
khai thác lượng thủy sản dồi dào do lũ mang đến.
Chính vì thế, đối với người dân An Giang, lũ là
hiện tượng tự nhiên diễn ra hàng năm nên việc tích
lũy các kinh nghiệm để dự đoán và ứng phó với lũ
đã hình thành nên nét văn hóa đặc trưng của cư dân
vùng lũ. Nét văn hóa này được thể hiện trong cả
đời sống, sản xuất và sinh kế của người dân An
Giang. Do đặc điểm địa hình của An Giang có hệ
thống sông ngòi dày đặc nên từ lâu nguồn nước đã
gắn liền với đời sống của người dân, “nơi nào có
đất có nước là có người cất nhà, khai khẩn đất
0
10
20
30
40
50
60
70
80
90
100
Thay đổi
trong dự
báo lũ
Thành lập
nhà trẻ di
động (nhà
nổi)
Sống trên
nhà sàn
Đánh bắt
thủy sản
dựa vào
con nước
Sản xuất
nông nghiệp
%
Đầu nguồn Giữa nguồn Cuối nguồn
Tap̣ chı́ Khoa hoc̣ Trường Đaị hoc̣ Cần Thơ Tập 50, Phần B (2017): 13-25
23
hoang và canh tác sản xuất” (Dương Văn Ni,
2015). Chính vì thế, nét đặc trưng tiêu biểu của
người An Giang là cư trú ven sông và dựng nhà ở
phù hợp với đặc điểm của vùng. Cụ thể, ở những
nơi khi mùa lũ lên không bị ngập sâu thì cất nhà
trệt, nếu ngập sâu thì cất nhà sàn. Sàn thấp hoặc
cao phụ thuộc vào mực nước lên hàng năm, có nơi
nhà sàn cất cao đến 2 – 3 m, có nơi nhà sàn chỉ
khoảng 1 m. Trong mùa lũ, nhà sàn giúp người dân
tránh được ảnh hưởng tác động của lũ đến cuộc
sống sinh hoạt thường ngày, mùa không lũ khoảng
trống dưới sàn nhà được tận dụng làm nơi để các
dụng cụ, vật tư nông nghiệp, để củi. Có nhà tận
dụng khu vực này để nuôi gà, vịt, heo. Có nhà
khoảng trống này được tận dụng làm nơi nghỉ ngơi
của gia đình, nơi vui đùa của trẻ con trong những
trưa nắng nóng.
Ngoài ra, cuộc sống của họ thường gắn liền với
nước nên đã hình thành nét văn hóa trao đổi thông
tin, trao đổi hàng hóa với nhau tại các nơi giáp
nước, từ đó hình thành nên chợ nổi ở các khu vực
này. Đi dọc theo các tuyến đường của An Giang,
hình ảnh quen thuộc và giống nhau ở các khu vực
là dễ dàng bắt gặp chợ - lớn hoặc nhỏ - ngay tại các
chân cầu (Judith Ehlert, 2010). Tuy nhiên, nhiều
địa phương đã bãi bỏ chợ ở các khu vực này và di
dời về khu quy hoạch riêng biệt, đó là các khu tập
trung dân cư thuận tiện cho giao thông đường bộ
trong khi giao thông đường thủy không thể tiếp cận
được. Kết quả là chợ thì lớn nhưng người mua và
người bán rất ít, vì vị trí địa lý của khu chợ không
phù hợp với đặc điểm của vùng sông nước.
Trong sản xuất nông nghiệp, dự báo thời tiết và
dự báo lũ truyền thống của người dân được xem
như là một chiến lược hiệu trong việc được ra các
quyết định sản xuất nông nghiệp. Họ dự báo lũ để
có thể thay đổi lịch thời vụ phù hợp nhằm giảm
không hoặc bị thiệt hai do lũ (Nguyễn Kim Uyên,
2013). Dựa vào kinh nghiệm thực tiễn người dân
có thể biết được lượng phù sa trên ruộng do lũ
mang tới để tính lượng phân bón cần dùng cho vụ
mùa tiếp theo. Bên cạnh sản xuất nông nghiệp, khai
thác nguồn thủy sản do lũ mang tới cũng giúp cho
người dân ổn định sinh kế trong mùa lũ. Từ các
kinh nghiệm đánh bắt, nhiều người có thể dự đoán
sản lượng thủy sản, chẳng hạn đối với cá linh nước
lũ càng cao thì sản lượng cá càng nhiều. Hoặc dựa
vào bụng đầy trứng của một số loài cá, người dân
có thể dự đoán được vẫn còn đợt lũ khác sẽ đến.
Ngày nay, do tác động của con người trong việc
quản lý lũ như đắp đê, xây đập; một số khu vực
dân cư ven sông đã được di dời đến các cụm-tuyến
dân cư; các phương tiện khoa học đã dần thay thế
cho những kinh nghiệm truyền thống trong dự báo
thời tiết, lũ dần làm mất đi các kiến thức bản địa
mà người dân đã tích lũy được. Điều này đã làm
ảnh hưởng đến giá trị văn hóa của kiến thức bản
địa vùng lũ, đồng thời cũng tác động không ít đến
cuộc sống và sinh kế của người dân. Do sự thu hẹp
khu vực ngập lũ và hệ thống sông ngòi, người dân
không có đất sản xuất và ngư dân sẽ bị mất đi
nguồn sinh kế chính từ khai thác thủy sản. Thay vì
sử dụng các kiến thức bản địa trước đây để kiếm
sống, giờ đây họ phải làm quen với việc trở thành
các lực lượng lao động trong các công ty, trở thành
cư dân của khu vực đô thị. Sự thay đổi này đòi hỏi
khả năng thích ứng cao của họ, nhiều người thích
ứng được nhưng cũng có nhiều người không thể
thích ứng khi phải chuyển từ kiến thức bản địa sản
xuất nông thôn sang kiến thức sản xuất hiện đại.
Bên cạnh đó, khi chuyển sang cuộc sống mới các
kiến thức bản địa tích lũy được dần dần bị mai một
vì không còn phù hợp với điều kiện sống mới, đặc
biệt văn hóa chia sẻ thông tin cũng dần thay đổi,
người dân không còn thường xuyên gặp gỡ nhau để
chia sẻ thông tin như trước đây. Việc chọn giống
và mùa vụ canh tác cũng không còn phụ thuộc vào
thời tiết hay mùa lũ mà dựa vào giá cả, thị trường
(Võ Lâm và ctv., 2011). Trước đây, khi có ít sự can
thiệp của con người đến dòng chảy của lũ thì mỗi
khi mùa lũ đến con người tự chia sẻ với nhau các
nguồn lợi do lũ mang đến. Ngày nay, do tác động
của con người đã làm thay đổi lũ, văn hóa chia sẻ
cũng dần dần biến mất. Họ chỉ chú trọng đến lợi
ích của chính bản thân hoặc một cộng đồng nhỏ mà
không quan tâm đến lợi ích chung của mọi người.
Nhóm người nghèo - người không đất canh tác sinh
kế phụ thuộc vào việc khai thác nguồn thủy sản tự
nhiên là nhóm đối tượng bị ảnh hưởng và tổn
thương nhiều nhất (Lê Anh Tuấn, 2015).
Ngoài ra, nghiên cứu cũng khảo sát ý kiến của
người dân trong việc truyền đạt lại cho thế hệ sau
các kiến thức bản địa mà họ đã tích lũy được, kết
quả nghiên cứu cho thấy tùy vào loại kiến thức
khác nhau mà tầm quan trọng của chúng trong việc
truyền lại cho thế hệ sau cũng khác nhau. Cụ thể,
dạy cách bảo vệ bản thân trong mùa lũ được người
dân đánh giá là quan trọng nhất, kế đến là dự báo
lũ và thời tiết. Các kiến thức về lợi và hại của lũ,
gia cố lại nhà chuẩn bị lương thực trước khi lũ về,
cách bảo vệ sức khỏe trước và sau lũ được xếp vào
mức tương đối quan trọng. Trong các kiến thức cần
truyền lại thì ít quan trọng nhất là các kinh nghiệm
và kỹ năng trong đánh bắt thủy sản (Bảng 4).
Tap̣ chı́ Khoa hoc̣ Trường Đaị hoc̣ Cần Thơ Tập 50, Phần B (2017): 13-25
24
Bảng 4: Tầm quan trọng của việc giảng dạy kiến thức bản địa cho thế hệ sau
Kiến thức giảng dạy Trung bình cộng (Mean)
Độ lệch
chuẩn (Std.)
Quan
trọng
Cách nhận biết thời điểm lũ, mực nước lũ, thời tiết 3,1 1,5 Nhiều
Cách bảo vệ bản thân mùa lũ 4,4 0,9 Rất nhiều
Các tác hại cũng như nguồn lợi có được từ lũ 2,7 1,3 Tương đối
Kinh nghiệm, kỹ năng trong đánh bắt thủy sản 2,1 1,2 Ít
Cách chuẩn bị nhà cửa, lương thực, nước sạch 2,3 1,3 Tương đối
Các loại bệnh thông thường, các phương thuốc từ tự nhiên 2,1 1,3 Tương đối
Ghi chú: Thang điểm áp dụng từ 1 cho đến 5 :( 1: ≤ 1: Không quan trọng, 2: 1,1- 2: Ít quan trọng, 3: 2,1 - 3: Tương đối
quan trọng, 4: 3,1 - 4: Quan trọng, 5: 4,1 - 5: Rất quan trọng)
4 KẾT LUẬN VÀ ĐỀ XUẤT
4.1 Kết luận
Kiến thức bản địa giữ vai trò quan trọng trong
việc hình thành các giá trị văn hóa của người dân
vùng lũ ở tỉnh An Giang. Kết quả nghiên cứu cho
thấy người dân địa phương đã tích lũy nhiều kiến
thức bản địa có giá trị trong việc dự báo và thích
nghi với lũ, nhờ đó giúp cho người dân giảm phần
nào thiệt hại do lũ gây ra. Tuy nhiên, trong những
năm gần đây một số dấu hiệu trong dự báo lũ đã bị
thay đổi và không còn chính xác như trước nữa,
thêm vào đó khả năng dự báo lũ của người dân
cũng giảm, chỉ có một số lượng nhỏ người dân có
thể dự đoán được lũ. Khi cuộc sống thay đổi, các
kiến thức bản địa không còn thích hợp nữa, người
dân không thể ứng dụng các kiến thức này trong
việc kiếm sống hàng ngày đã làm mất đi giá trị văn
hóa của các loại kiến thức này. Do đó, chỉ có một
số kiến thức bản địa được cho là quan trọng nhất
trong việc truyền đạt lại cho thế hệ sau, cụ thể dạy
bơi lội để giúp trẻ em và người lớn bảo vệ tính
mạng trong mùa lũ và kiến thức về dự báo lũ. Bên
cạnh đó, kết quả cũng cho thấy chỉ số tổn thương
sinh kế (LVI) của 3 xã địa bàn nghiên cứu đầu
nguồn, giữa nguồn, cuối nguồn lần lượt là 0,390;
0,287; 0,331 cho thấy tính dễ bị tổn thương tương
đối cao và giá trị các yếu tố chính dao động trong
khoảng từ 0 (mức độ tổn thương thấp) đến 0,5
(mức độ tổn thương lớn nhất) với dao động là 0,1.
Chỉ số LVI-IPCC của 3 xã trên địa bàn nghiên cứu
đầu nguồn, giữa nguồn, cuối nguồn lần lượt là -
0,010; -0,008; -0,047 cho thấy khả năng tổn thương
trước thay đổi của lũ bất thường ở mức trung bình.
4.2 Đề xuất
Tạo điều kiện giúp người dân ở các địa phương
khác nhau trao đổi và chia sẻ kinh nghiệm trong dự
báo và thích nghi với lũ.
Khuyến khích người dân kết hợp giữa kiến thức
bản địa và kiến thức khoa học để giảm tối đa các
thiệt hại do lũ gây ra.
Đối với chính quyền địa phương, khi quy hoạch
phát triển không nên thực hiện quy hoạch theo cách
từ trên xuống, bỏ qua vai trò của người dân địa
phương và các kiến thức bản địa của họ. Việc quy
hoạch phải dựa trên các kiến thức bản địa có giá trị,
giúp họ sử dụng các kiến thức bản địa này để tự
giải quyết và đối phó với các thách thức.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Bùi Quang Vinh, 2013. Nghiên cứu tri thức bản địa
trong trồng lúa để ứng phó với thời tiết bất
thường ở vùng ven biển các tỉnh Bạc Liêu, Sóc
Trăng và Trà Vinh. Luận văn cao học, ngành
Khoa học môi trường, Trường Đại học Cần Thơ.
Chi cục Thủy lợi tỉnh An Giang, 2016. Tổng hợp báo
cáo mực nước lũ từ 2000-2015.
CRES, 2010. Người dân bản địa. Truy cập từ:
cu/vn/?mnu=&act=detail&ID=169 ngày
02/01/2013.
Đài khí tượng Thủy văn tỉnh An Giang, 2016. Tổng
hợp báo cáo đỉnh lũ của Tân Châu từ năm 1926
đến năm 2015.
Đào Công Tiến, 2001. Điều kiện tự nhiên, tài nguyên
và đa dạng sinh học của vùng ngập lũ. Trong
Vùng Ngập lũ Đồng bằng sông Cửu Long: Hiện
trạng và giải pháp. NXB Đại học Quốc gia TP,
Hồ Chí Minh, pp58-59,67-68.
DFID, 2009. Sustainable Livelihood Guidance
Sheets. London, Department for International
Development, UK.
Dương Văn Nhã, 2006. Tác động của bao đê đến đời
sống kinh tế - xã hội – môi trường. Chương trình
nghiên cứu Việt Nam - Hà Lan. NXB Nông
nghiệp, Hà Nội.
Dương Văn Ni, 2015. Nước và văn hóa chia sẻ ở
Đồng bằng sông Cửu Long. Trong Tổ chức bảo
tồn thiên nhiên quốc tế (chủ biên). Chuyện nước
và con người ở ĐBSCL. Nhà xuất bản Giao
thông vận tải. Hà Nội, pp 11-18.
Judith Ehlert, 2010. Environmental knowledge and
agrarian change in the Mekong Delta, Vietnam.
Doctor thesis. The University of Bonn. Germany.
Hoàng Thị Hồng Ngân, 2010. Kiến thức bản địa
trong sản xuất nông nghiệp của người Mông ở
Tap̣ chı́ Khoa hoc̣ Trường Đaị hoc̣ Cần Thơ Tập 50, Phần B (2017): 13-25
25
huyện Bắc Mê tỉnh Hà Giang. Luận văn cao học,
ngành lịch sử, Đại học Thái Nguyên.
Hoàng Xuân Tý và Lê Trọng Cúc, 1998. Kiến thức
bản địa của đồng bào vùng cao trong nông
nghiệp và quản lý tài nguyên thiên nhiên. NXB
Nông nghiệp, Hà Nội.
Lê Trọng Cúc, 1998. Mối quan hệ giữa kiến thức bản
địa, văn hóa và môi trường ở vùng núi Việt Nam.
Hoàng Xuân Tý và Lê Trọng Cúc (chủ biên).
Trong Kiến thức bản địa của đồng bào vùng cao
trong nông nghiệp và quản lý tài nguyên thiên
nhiên. NXB Nông nghiệp, Hà Nội, pp211-220.
Lê Anh Tuấn, 2015. Chuyện lúa ba vụ ở Đồng bằng
sông Cửu Long. Trong Tổ chức bảo tồn thiên
nhiên quốc tế (chủ biên). Chuyện nước và con
người ở ĐBSCL. Nhà xuất bản Giao thông vận
tải. Hà Nội, pp 35-45.
Luise, G., 1999. Methods of indigenous knowledge
research. Project “Assessment of indigenous
technical knowledge of ethnic minorities in
agriculture and natural resource management”,
IDRC, RCFEE, Hanoi.
Hanh. N. Q, 2014. Reconstructing knowledge
diffusion for rural development in Vietnam‘s
Mekong Delta.
Nguyễn Kim Uyên, 2013. Nghiên cứu tri thức bản địa
trong trồng lúa để ứng phó với thời tiết bất thường
ở vùng lũ ĐBSCL phần thuộc các tỉnh An Giang
và Đồng Tháp. Luận văn cao học, ngành khoa học
môi trường, Trường Đại học Cần Thơ.
Van. P.H.T, P.X.Phu, T.V.Hieu, N.V.Thai, 2011.
Contribution of indigenous knowledge to adapt
with climate change: A case study in Kien Giang
province, in the Mekong Delta. Asia-Pacific
Journal of Rural Development. 2: 11-22.
Võ Lâm, Phạm Xuân Phú, Ngô Thụy Bảo Trân, Bùi
Phan Thu Hằng, 2013. Tìm hiểu kiến thức bản
địa của người dân địa phương với những thay đổi
của lũ đến sản xuất nông nghiệp ở xã Tân Trung,
huyện Phú Tân, tỉnh An Giang.
Warren D.M., 1995. The cultural dimensions of
development, indigenous development system in
development discussion paper 127. Work Bank.
Washington, D.C.
WHO, 2008. Advocacy, communication, and social
mobilization for TB control: A guide to
developing knowledge, attitude and practice
surveys, World Health Organization press.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 02_nn_pham_xuan_phu_13_25_032_2945_2036916.pdf