Những vấn đề về kinh tế thế giới và kinh tế Việt Nam

Nền kinh tế thế giới là tổng thể các nền kinh tế của các quốc gia và các vùng lãnh thổ trên trái đất có mối liên hệ hữu cơ và tác động qua lại lẫn nhau thông qua sự phân công lao động quốc tế cùng với các quan hệ kinh tế quốc tế của chúng. Sự phát triển của nền kinh tế thế giới phụ thuộc trước hết vào trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, của sự phân công lao động quốc tế và của việc phát triển quan hệ kinh tế quốc tế.

doc17 trang | Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 2039 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Những vấn đề về kinh tế thế giới và kinh tế Việt Nam, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
kết quả tất yếu của sự tác động qua lại giữa các chủ thể  kinh tế quốc tế đã nói ở trên. Quan hệ kinh tế quốc tế ra đời trên cơ sở phát triển các hoạt động thương mại quốc tế, đầu tư quốc tế, xuất nhập khẩu sức lao động, các hoạt động dịch vụ quốc tế, chuyển giao công nghệ, tài chính và tín dụng quốc tế…. Nội dung của các quan hệ kinh tế quốc tế ngày càng phong phú và đa dạng, liên quan đến mọi giai đoạn của quá trình tái sản xuất, diễn ra ở mọi doanh nghiệp, mọi địa phương, mọi ngành kinh tế quốc dân. Phân loại các quan hệ kinh tế quốc tế: Căn cứ vào đối tượng vận động, các quan hệ kinh tế quốc tế được chia thành: - Các quan hệ về di chuyển quốc tế hàng hóa và dịch vụ: Đó là việc mua bán hàng hóa và dịch vụ giữa các quốc gia. Việc mua bán hàng hóa hiểu theo nghĩa hẹp là các hàng hóa vật chất ( hàng hóa hữu hình), còn hiểu theo nghĩa rộng thì nó gồm cả các hàng hóa phi vật chất ( hàng hóa vô hình ). Trong thực tế, các quan hệ di chuyển quốc tế về hàng hóa và dịch vụ được gọi là hoạt động thương mại quốc tế. - Các quan hệ về di chuyển quốc tế vốn tư bản: Đây là việc đưa các nguồn vốn từ nước này sang nước khác để thực hiện các hoạt động đầu tư, bao gồm đầu tư trực tiếp và đầu tư gián tiếp. Các quan hệ về di chuyển vốn tư bản trong thực tế được gọi là hoạt động đầu tư quốc tế. - Các quan hệ về di chuyển sức lao động quốc tế: Đó là việc di cư một cách tạm thời một bộ phận dân cư trong độ tuổi lao động giữa các quốc gia với nhau để điều chỉnh quan hệ cung cầu về sức lao động theo trình độ chuyên môn khác nhau giữa các quốc gia. Đó chính là hoạt động xuất nhập khẩu sức lao động. Thực chất của hoạt động xuất nhập khẩu sức lao động cũng là một loại hình xuất nhập khẩu dịch vụ quốc tế nhưng do đặc điểm riêng của đối tượng trao đổi nên nó trở thành một lĩnh vực riêng. - Các quan hệ về di chuyển quốc tế các phương tiện tiền tệ: Đó là việc di chuyển các loại tiền mặt, các loại kim khí quý, các loại giấy tờ có giá trị ( trái phiếu, cổ phiếu, chứng khoán, hối phiếu…) giữa các quốc gia nhằm phục vụ cho hoạt động lưu thông tiền tệ, hoạt động tín dụng, hoạt động thanh toán cũng như hoạt động đầu tư… Như vậy, giữa việc di chuyển quốc tế các phương tiện tiền tệ và việc di chuyển quốc tế vốn tư bản có một bộ phận trùng khớp nhau, nhưng giữa chúng có sự khác nhau quan trọng. Không phải mọi sự di chuyển quốc tế về vốn đều là sự di chuyển các phương tiện tiền tệ và ngược lại, không phải mọi sự di chuyển quốc tế các phương tiện tiền tệ đều có liên quan đến sự di chuyển quốc tế về vốn. Nội dung các quan hệ kinh tế quốc tế rất phong phú và phức tạp. Theo đà phát triển của khoa học và công nghệ, với nhu cầu của con người ngày càng đa dạng, nội dung của các quan hệ kinh tế quốc tế nói trên tiếp tục phát triển về chiều sâu và chiều rộng. Trên thực tế, nội dung của kinh tế quốc tế còn bao gồm hợp tác và trao đổi quốc tế về khoa học công nghệ và nhiều hoạt động quốc tế khác. Chính sự phong phú và chiều sâu của các quan hệ kinh tế quốc tế này tạo nên cốt lõi và đánh dấu trình độ phát triển ngày càng cao của nền kinh tế thế giới. Nền kinh tế thế giới là một thực thể thống nhất hữu cơ của hai bộ phận trên, nó vận động theo những quy luật khách quan của quá trình phân công lao động quốc tế và của hoạt động đầu tư và thương mại quốc tế. Ngày nay với xu hướng khu vực hóa và toàn cầu hóa làm tăng dần tính đa dạng của mối quan hệ kinh tế quốc tế và làm tăng tính chỉnh thể của nền kinh tế thế giới. c. Cơ cấu của nền kinh tế thế giới Cơ cấu của nền kinh tế thế giới có thể được xem xét trên nhiều góc độ: - Theo hệ thống kinh tế - xã hội: Người ta chia thế giới ra thành hệ thống kinh tế tư bản chủ nghĩa, hệ thống kinh tế xã hội chủ nghĩa và hệ thống kinh tế của các nước thuộc thế giới thứ ba. Thực ra sự phân chia này chủ yếu có ý nghĩa về mặt nhận thức chính trị và tư tưởng, còn trên thực tế nó mang tính tương đối do sự đan xen giữa các mô hình kinh tế - xã hội khác nhau và đang diễn ra ngày càng mạnh mẽ trong thế giới hiện đại. Ngay trong các quốc gia tư bản chủ nghĩa phát triển cao cũng không chỉ tồn tại duy nhất loại hình kinh tế tư bản chủ nghĩa. Đối với các nước thuộc thế giới thứ ba cũng đang diễn ra sự phối hợp, đan xen giữa nhiều mô hình  kinh tế - xã hội và mô hình phát triển khác nhau. Sự tan rã của mô hình CNXH kiểu Liên Xô (cũ) và Đông Âu chỉ chứng minh sự yếu kém và không phù hợp thực tế của một mô hình cứng nhắc nào đó, còn phương thức sản xuất XHCN, với tư cách là một chế độ xã hội ưu việt vẫn là mục tiêu hướng tới trong tương lai, và trên thực tế người ta vẫn tìm cách biến nó thành hiện thực sao cho phù hợp với đặc điểm và trình độ phát triển ở một số quốc gia. - Theo trình độ phát triển kinh tế, người ta chia nền kinh tế thế giới thành 3 nhóm quốc gia:             + Các nước công nghiệp phát triển cao             + Các nước đang phát triển             + Các nước chậm phát triển Theo cách phân chia này, thế giới ngày nay có khoảng 30 quốc gia được xếp vào nhóm các nước công nghiệp phát triển cao với đặc trưng là họ đã hoàn thành quá trình công nghiệp hóa nền kinh tế quốc dân, đạt được cơ cấu kinh tế hiện đại và có mức GDP bình quân đầu người một năm hàng chục ngàn USD. Một số nước công nghiệp mới (NICs) đã dần dần chuyển  lên nhóm các nước công nghiệp phát triển cao này. Nhóm các nước đang phát triển chiếm đại bộ phận số lượng các quốc gia trong nền kinh tế thế giới. Những quốc gia đang thực hiện nhiều biện pháp khác nhau để tiến hành công nghiệp hóa đất nước họ và bước đầu cũng đạt được những kết quả nhất định trong việc đẩy nhanh tốc độ phát triển kinh tế. Trong số các nước đang phát triển, có một số nước đạt được thành công với sự tăng trưởng kinh tế cao trong 3 - 4 thập kỷ trở lại đây và họ được xếp thành nhóm các nước công nghiệp mới (NICs). Trên thế giới ngày nay, còn có một số quốc gia do điều kiện kinh tế, chính trị, xã hội và tự nhiên của họ không thuận lợi, mặc dù đã giành được độc lập dân tộc nhưng vẫn ở tình trạng nghèo đói và tốc độ phát triển kinh tế rất thấp, nền kinh tế của các quốc gia này được xếp vào nhóm các nền kinh tế chậm phát triển. Ngoài hai cách phân chia trên, người ta còn có thể xem xét kết cấu của nền kinh tế thế giới theo nhiều tiêu thức khác như theo khu vực địa lý, theo trình độ công nghệ, theo đặc điểm dân tộc - văn hóa - lịch sử… cơ cấu của nền kinh tế thế giới biến đổi gắn liền với các cuộc cách mạng công nghiệp trên toàn thế giới. d. Các giai đoạn phát triển của nền kinh tế thế giới Theo tiến trình lịch sử của sự vận động các quan hệ kinh tế quốc tế, nền kinh tế thế giới hình thành sau sự ra đời của thị trường thế giới. Bởi vì, chỉ khi phân công lao động quốc tế và các quan hệ kinh tế quốc tế phát triển đến một giai đoạn nhất định mới đạt tới điều kiện của sự hình thành nền kinh tế thế giới. ở hình thái ban đầu, nền kinh tế thế giới chỉ thể hiện qua những mối quan hệ buôn bán diễn ra có tính chất tự nhiên giữa các quốc gia trên thế giới. Khi đó, phân công lao động quốc tế diễn ra có tính chất tự phát, chủ yếu dựa trên sự khác biện về điều kiện tự nhiên giữa các quốc gia trên thế giới. Đến cuối thế kỷ XV và đầu thế kỷ XVI, nhờ những phát kiến đia lý vĩ đại của Christophe Colombo nền sản xuất hàng hóa tư bản đã vượt ra khỏi biên giới quốc gia, hình thành các trung tâm thương mại quốc tế lớn trên thế giới. Vào giai đoạn này, phân công lao động quốc tế đã dần dần chuyển sang tự giác trên cơ sở lợi thế so sánh của từng nước. Cơ cấu sản xuất và trao đổi quốc tế được biến đổi về chất theo các cuộc cách mạng công nghiệp. - Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ nhất (1820 - 1870) làm cho giao thông vận tải phát triển nhanh chóng, công nghiệp được mở rộng và bước đầu hình thành một thị trường thế giới rộng lớn. - Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ hai (1870 - 1913) gây ra những biến đổi lớn trong các ngành điện lực, hóa chất, luyện kim… Những thay đổi cơ bản trong buôn bán quốc tế tăng cường quá trình đầu tư quốc tế, hình thành những quan hệ kinh tế quốc tế ngày càng bền vững. Đây là thời kỳ đánh dấu sự xuất hiện nền kinh tế thế giới - một thực thể thống nhất hữu cơ bao gồm cả hoạt động sản xuất, buôn bán, đầu tư, tài chinh - tín dụng diễn ra giữa các quốc gia chủ đạo và các khu vực kinh tế chủ yếu trên thế giới. - Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ ba (1913 - 1950) làm xuất hiện và phát triển nhanh chóng các ngành năng lượng hạt nhân, hóa dầu, công nghệ vũ trụ và khai thác đáy đại dương, tin học, công nghệ sinh học… làm gia tăng dòng đầu tư và buôn bán quốc tế, thúc đẩy sự phát triển của nền kinh tế thế giới về cơ sở vật chất - kỷ thuật lên tầm cao mới. - Hiện nay, nền kinh tế thế giới đang đi vào cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư với các hướng phát triển chủ yếu như phát triển ngành vi điện tử, tin học, thông tin viễn thông và tự động hóa, năng lượng mới, vật liệu mới, công nghệ sinh học… Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư đưa tới sự biến đổi sâu sắc về cơ cấu kinh tế của các quốc gia và đưa xã hội loài người sang một nền văn minh mới - nền văn minh thứ ba - hậu công nghiệp. Phân công lao động quốc tế diễn ra cả về chiều rộng và chiều sâu với những mức độ và phạm vi khác nhau. 1.1.2. Sự hình thành và các nội dung và các tính chất của quan hệ kinh tế quốc tế a. Khái niệm và nội dung Quan hệ kinh tế quốc tế là tổng thể các quan hệ về vật chất và tài chính, các quan hệ diễn ra không những trong lĩnh vực kinh tế mà cả trong lĩnh vực khoa học - công nghệ có liên quan đến tất cả các giai đoạn của quá trình tái sản xuất, chúng diễn ra giữa các quốc gia với nhau cũng như giữa các quốc gia và các tổ chức quốc tế. Chủ thể của các quan hệ kinh tế quốc tế là các quốc gia cùng với các tổ chức kinh tế có tư cách pháp nhân trong các quốc gia đó, cũng như các tổ chức kinh tế quốc tế. Các công ty đa quốc gia và công ty xuyên quốc gia là những chủ thể có vị trí quan trọng trong việc hình thành và phát triển các quan hệ kinh tế quốc tế. Phạm vi vận động của các quan hệ kinh tế quốc tế thường vượt ra ngoài biên giới một quốc gia. Các quan hệ kinh tế quốc tế của một quốc gia với các quốc gia khác và các tổ chức kinh tế quốc tế tạo thành lĩnh vực kinh tế đối ngoại của quốc gia đó. Nội dung của các quan hệ kinh tế quốc tế rất rộng và đa dạng, trước hết phải kể đến các hoạt động sau đây: * Thương mại quốc tế Thương mại quốc tế là việc trao đổi hàng hóa và dịch vụ giữa các chủ thể kinh tế có quốc tịch khác nhau (trong đó đối tượng trao đổi thường là vượt ra khỏi phạm vi địa lý của một quốc gia) thông qua hoạt động mua bán, lấy tiền tệ làm môi giới. Hoạt động thương mại ra đời sớm nhất trong các quan hệ kinh tế quốc tế và ngày nay nó vẫn giữ vị trí trung tâm trong các quan hệ kinh tế quốc tế. Sở dĩ thương mại quốc tế có vai trò quan trọng như vậy bởi vì kết quả của các quan hệ kinh tế quốc tế khác cuối cùng được thể hiện tập trung trong thương mại quốc tế và quan hệ hàng hóa - tiền tệ vẫn là quan hệ phổ biến nhất trong các quan hệ kinh tế quốc tế. Thương mại quốc tế bao gồm nhiều hoạt động khác nhau. Trên giác độ một quốc gia đó chính là hoạt động ngoại thương. Nội dung của thương mại quốc tế bao gồm: - Xuất và nhập khẩu hàng hóa hữu hình. Đây là bộ phận chủ yếu và giữ vai trò quan trọng trong sự phát triển kinh tế của mỗi quốc gia. - Xuất và nhập khẩu hàng hóa vô hình. Đây là bộ phận có tỷ trọng ngày càng gia tăng phù hợp với sự bùng nổ của cách mạng khoa học - công nghệ và việc phát triển các ngành dịch vụ trong nền kinh tế quốc dân. - Gia công thuê cho nước ngoài và thuê nước ngoài gia công. Gia công quốc tế là một hình thức cần thiết trong điều kiện phát triển của phân công lao động quốc tế và do sự khác biệt  về điều kiện tái sản xuất giữa các quốc gia. Nó được phân chia thành hai loại hình chủ yếu tùy theo vai trò của bên đặt hàng và bên nhận gia công. Khi trình độ phát triển của một quốc gia còn thấp, thiếu vốn, thiếu công nghệ, thiếu thị trường thì các doanh nghiệp thường ở vào vị trí nhận gia công thuê cho nước ngoài. Nhưng khi trình độ phát triển ngày càng cao thì  nên chuyển qua hình thức thuê nước ngoài gia công cho mình. Hoạt động gia công mang tính chất công nghiệp, nhưng chu kỳ gia công thường rất ngắn, đầu vào và đầu ra của nó gắn liền với thị trường nước ngoài nên nó được coi là bộ phận của hoạt động ngoại thương. - Tái xuất khẩu và chuyển khẩu. Trong hoạt động tái xuất khẩu và chuyển khẩu người ta tiến hành nhập khẩu tạm thời hàng hóa từ bên ngoài vào, sau đó lại tiến hành xuất khẩu sang một nước thứ ba. Như vậy ở đây có  cả hành vi mua và hành vi bán nên mức rủi ro có thể lớn và lợi nhuận có thể cao. Còn trong hoạt động chuyển khẩu không có hành vi mua bán mà ở đây chỉ thực hiện các dịch vụ như vận tải quá cảnh, lưu kho lưu bãi, quá cảnh… - Xuất khẩu tại chổ. Trong trường hợp xuất khẩu tại chổ hàng hóa và dịch vụ có thể chưa vượt ra khỏi biên giới quốc gia nhưng ý nghĩa kinh tế của nó tương tự như hoạt động xuất khẩu. Đó là việc cung cấp hàng hóa và dịch vụ cho các đoàn ngoại giao, du khách quốc tế… Hoạt động xuất khẩu tại chổ có thể đạt được hiệu quả cao do giảm bớt chi phí bao bì đóng gói, chi phí bảo quản, chi phí vận tải, thời gian thu hồi vốn nhanh, trong khi vẫn thu được ngoại tệ. * Đầu tư quốc tế Đầu tư quốc tế là một quá trình kinh doanh trong đó vốn đầu tư được di chuyển từ quốc gia này sang quốc gia khác với mục đích sinh lời. Trong đầu tư quốc tế thường có hai hay nhiều bên có quốc tịch khác nhau cùng phối hợp với nhau để triển khai một dự án đầu tư nhằm đem lại lợi ích cho tất cả các bên. Khác với hoạt động thương mại quốc tế có thể chỉ diễn ra theo từng vụ việc, đầu tư quốc tế là một quá trình được kéo dài, có trường hợp đến 30 năm, 50 năm hoặc lâu hơn nữa. Vốn đầu tư quốc tế có thể được biểu hiện dưới nhiều hình thức khác nhau, như bằng các loại tiền mặt hoặc giấy tờ có giá trị, máy móc thiết bị, nguyên vật liệu, quyền sử dụng đất đai, các phát minh sáng chế, bí quyết công nghệ, nhãn hiệu hàng hóa… Lợi ích do hoạt động đầu tư mang lại thường là lợi ích kinh tế, đồng thời còn có cả lợi ích chính trị, lợi ích văn hóa - xã hội, môi trường sinh thái… Vốn đầu tư quốc tế có hai dòng chính: đầu tư của tư nhân và Hỗ trợ phát triển chính thức của các chính phủ, các tổ chức quốc tế. - Đầu tư của tư nhân: Đầu tư của tư nhân được thực hiện dưới ba hình thức:             + Đầu tư trực tiếp nước ngoài: chủ đầu tư nước ngoài đầu tư toàn bộ hay phần lớn vốn vào các dự án nhằm giành quyền điều hành hoạt tham gia điều hành các doanh nghiệp sản xuất hoặc kinh doanh dịch vụ, thương mại …             + Đầu tư gián tiếp: Chủ đầu tư nước ngoài mua cổ phần của các công ty ở nước sở tại (ở một mức nhất định) để thu lợi nhuận mà không tham gia điều hành trực tiếp đối tượng mà họ bỏ vốn đầu tư.             + Tín dụng thương mại: cho vay vốn và thu lợi nhuận qua lãi suất tiền vay. - Hỗ trợ phát triển chính thức; Hỗ trợ phát triển chính thức (ODA) là tất cả các khoản viện trợ không hoàn lại ( cho vay dài hạn với một số thời gian ân hạn và lãi suất thấp) của chính phủ, các hệ thống của tổ chức Liên hiệp quốc, các tổ chức phi chính phủ (NGO), các tổ chức tài chính quốc tế dành cho chính phủ và nhân dân nước nhận viện trợ. * Hợp tác quốc tế về kinh tế và khoa học - công nghệ Việc chuyên môn hóa có thể diễn ra theo các ngành, trong nội bộ từng ngành (theo từng sản phẩm ), theo chi tiết sản phẩm và theo quy trình công nghệ. Chuyên môn hóa theo các ngành diễn ra khi có sự khác biệt lớn về điều kiện tự nhiên, sự chênh lệch đáng kể về trình độ công nghệ, trong đó mỗi quốc gia sẽ tập trung vào những ngành mà bản thân họ có điều kiện sản xuất thuận lợi và đạt được hiệu quả cao. Việc chuyên môn hóa theo chi tiết sản phẩm và theo quy trình công nghệ đòi hỏi sự tương đồng về trình độ công nghệ, trong đó mỗi bên chịu trách nhiệm chế tạo một số chi tiết sản phẩm nhất định hoặc từng gia đoạn nhất định trong quá trình tạo nên sản phẩm cuối cùng. Đây là việc chuyên môn hóa có tính chất chiều sâu và nó phát huy được thế mạnh công nghệ của từng quốc gia. Việc chuyên môn hóa thường gắn liền với việc hợp tác hóa vì đây là hai mặt của một vấn đề: việc chuyên môn hóa đòi hỏi việc hợp tác hóa và việc hợp tác hóa phải trên cơ sở chuyên môn hóa. Quá trình chuyên môn hóa và hợp tác hóa trong sản xuất gắn liền với sự phát triển của khoa học - công nghệ và quá trình phát triển của các công ty đa quốc gia và xuyên quốc gia. Những công ty lớn có chi nhánh ở hàng chục quốc gia khác nhau có khả năng thực hiện quá trình chuyên môn hóa và hợp tác hóa một cách ăn khớp trên phạm vi rộng lớn. Đặc biệt sự ra đời của các khối liên kết kinh tế đã tạo điều kiện thuận lợi cho quá trình phát triển của việc chuyên môn hóa và việc hợp tác hóa quốc tế trong lĩnh vực sản xuất. Hợp tác quốc tế về nghiên cứu khoa học - công nghệ: Là một loại hình hoạt động bao gồm các hình thức phối hợp giữa các nước với nhau để cùng tiến hành nghiên cứu, sáng chế, thử nghiệm, trao đổi các kết quả nghiên cứu, thông tin vể khoa học -công nghệ mới vào thực tiễn sản xuất. Sự hợp tác quốc tế về nghiên cứu khoa học - công nghệ là một đòi hỏi khách quan trong thời đại hiện nay, không một quốc gia nào có khả năng tự mình giải quyết mọi vấn đề khoa học - công nghệ mà thực tiễn đặt ra. Khoa học - công nghệ ngày càng trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp và những thành tựu của nó phải trở thành tài sản chung của nhân loại. Điều đó không loại trừ tình hình thực tế là vẫn có việc giữ bí mật những kết quả nghiên cứu và nhiều khi nó còn là phương tiện để khống chế lẫn nhau. Chuyển giao công nghê Hoạt động chuyển giao công nghệ không chỉ là một hoạt động mua bán đơn thuần vì hàng hóa công nghệ có những đặc điểm riêng. Quá trình chuyển giao công nghệ phải giải quyết các khía cạnh kinh tế, kỹ thuật và pháp lý thì mới bảo đảm cho việc chuyển giao đạt kết quả mong muốn. Việc chuyển giao công nghệ không chỉ là "phần cứng" công nghệ đã được vật chất hóa, có giá cả xác định và được mua bán theo mối quan hệ thương mại thông thường. Công nghệ còn có cả "phần mềm" bao gồm các kiến thức khoa học, các công thức và các bí quyết kỹ thuật… Đó là hàng hóa vô hình và không có giá cả xác định. Các dạng khác nhau của công nghệ và quyền sử dụng chúng vào sản xuất được phản ánh bằng các khái niệm " kiểu dáng công nghiệp", "nhãn hiệu hàng hóa", "sáng chế", "bí quyết kỹ thuật", "bằng bảo hộ sáng chế", "giấy phép sử dụng"… * Các dịch vụ thu ngoại tệ Các dịch vụ thu ngoại tệ bao gồm các hoạt động kinh tế quốc tế dưới dạng các dịch vụ quốc tế như du lịch quốc tế, giao thông vận tải quốc tế, thông tin liên lạc quốc tế, bảo hiểm quốc tế, thanh toán và tín dụng quốc tế, xuất và nhập khẩu sức lao động… Yếu tố quốc tế ở đây thể hiện ở phạm vi hoạt động hoặc chủ thể sản xuất và đối tượng tiêu dùng thuộc các quốc tịch khác nhau. Để thuận tiện, người ta quy ước tính quốc tế của các dịch vụ này đồng nhất với hình thức thanh toán là việc thu ngoại tệ. Các dịch vụ thu ngoại tệ có quy mô ngày càng lớn, nội dung ngày càng phong phú và hình thức ngày càng trở nên đa dạng. Như vậy, quan hệ kinh tế quốc tế có nội dung rộng lớn hơn nhiều so với thương mại quốc tế (theo nghĩa thông thường). Theo nghĩa rộng, người ta có thể dùng khái niệm thương mại quốc tế để chỉ toàn bộ các quan hệ kinh tế quốc tế nói chung, bởi vì hình thức biểu hiện phổ biến hiện nay trong các quan hệ kinh tế quốc tế là thông quan buôn bán hàng hóa và dịch vụ. b. Tính chất của quan hệ kinh tế quốc tế Quan hệ kinh tế quốc tế có một số các tính chất sau; - Một là, quan hệ kinh tế quốc tế là các mối quan hệ thỏa thuận, tự nguyện giữa các quốc gia độc lập, giữa các tổ chức kinh tế có tư cách pháp nhân. Nó chỉ có thể phát triển trên cơ sở giữ vững chủ quyền, thực hiện nguyên tắc bình đẳng và các bên cùng có lợi thông qua các hợp đồng kinh tế với sự chấp nhận của các bên. Có thể phát triển quan hệ kinh tế giữa các quốc gia có chế độ chính trị - xã hội khác nhau nếu biết đáp ứng và khai thác các nhu cầu và lợi ích chính đáng của nhau, đảm bảo sự cân bằng lợi ích và giữ vững chủ quyền của các bên. Tuy vậy, quan hệ kinh tế quốc tế chịu sự chi phối của các quan hệ chính trị quốc tế. Cần phải sử dụng kết hợp để chúng làm tiền đề cho nhau và thúc đẩy nhau phát triển. - Hai là, quan hệ kinh tế quốc tế diễn ra theo yêu cầu của các quy luật kinh tế cho nên cần tôn trọng và vận dụng thành thạo các quy luật này để phát triển quan hệ kinh tế quốc tế. - Ba là, quan hệ kinh tế quốc tế chịu sự tác động của các hệ thống quản lý khác nhau, của các chính sách, luật pháp, thể chế của từng quốc gia khác nhau cũng như của các điều ước quốc tế. Do trình độ phát triển không đều giữa các quốc gia, do lợi ích chính trị và kinh tế khác nhau, do hoàn cảnh lịch sử và truyền thống dân tộc khác nhau. Khi tổ chức các hoạt động kinh tế quốc tế, tất yếu diễn ra sự gặp gỡ, va chạm giữa các hệ thống quản lý cũng như giữa các chính sách, luật pháp, thể chế của từng quốc gia. Vấn đề đặt ra đối với các doanh nghiệp là, một mặt phải thực hiện đúng những yêu cầu của luật pháp và chính sách trong nước, mặt khác cũng phải tôn trọng và vận dụng phù hợp với yêu cầu của luật pháp và chính sách của các nước có liên quan. - Bốn là, quan hệ kinh tế quốc tế được vận hành gắn liền với sự gặp gỡ và chuyển đổi giữa các loại đồng tiền. Sự phát triển của các quan hệ hàng hóa - tiền tệ trong một quốc gia được mở rộng trên phạm vi quốc tế. Các quan hệ tiền tệ quốc tế, một mặt là phương tiện tất yếu để phục vụ cho các quan hệ vật chất và tài chính, cũng như các quan hệ trao đổi quốc tế về khoa học - công nghệ; mặt khác, vì mỗi đồng tiền có đời sống riêng với sự thăng trầm về sức mua và khả năng thanh toán của nó, cho nên các quan hệ tiền tệ quốc tế cũng là một lĩnh vực phong phú với quy luật vận động riêng của nó. Như vậy, sự vận động của quan hệ tiền tệ quốc tế là một bộ phận quan trọng của các quan hệ kinh tế quốc tế. - Năm là, các khoảng cách về không gian - địa lý tác động trực tiếp đến quá trình phát triển các quan hệ kinh tế quốc tế vì nó ảnh hưởng đến thời gian và chi phí vận tải. Trong quan hệ kinh tế quốc tế, hàng hóa và dịch vụ thường vượt ra khỏi biên giới quốc gia và được di chuyển qua hàng ngàn cây số thông qua nhiều phương thức vận tải khác nhau với khoảng thời gian khá dài. Tất cả những điều đó ảnh hưởng đáng kể đến quá trình tổ chức, triển khai các hoạt động kinh tế quốc tế, từ khâu nghiên cứu thử nghiệm đến khâu sản xuất và tiêu thụ. Bởi vậy, vấn đề khoảng cách không gian - địa lý cần phải được chú ý thỏa đáng khi tham gia vào phân công lao động quốc tế, tiến hành chuyên môn hóa và hợp tác hóa, tổ chức hoạt động đầu tư cũng như xâm nhập thị trường. c. Những cơ sở của việc hình thành và phát triển các quan hệ kinh tế quốc tế Các quan hệ kinh tế quốc tế ra đời là một tất yếu khách quan của thực tiễn phát triển kinh tế của mỗi quốc gia trong hệ thống phân công lao động quốc tế: - Ban đầu, do sự khác biệt về điều kiện tự nhiên giữa các quốc gia như đất đai, khí hậu, khoáng sản… đưa đến tình trạng mỗi quốc gia có lợi thế trong việc sản xuất một số loại sản phẩm nào đó và họ trao đổi cho nhau nhằm cân bằng giữa phần dư thừa về loại sản phẩm này với sự thiếu hụt về loại sản phẩm khác. - Tiếp theo, do sự phát triển không đều về kinh tế và khoa học - kỹ thuật giữa các quốc gia đưa đến sự khác nhau về điều kiện tái sản xuất giữa chúng. Điều đó đòi hỏi các quốc gia phải mở rộng phạm vi trao đổi quốc tế sang các yếu tố nói trên: di chuyển vốn, sức lao động, công nghệ.. Khi ấy đối tượng tham gia vào việc trao đổi quốc tế được mở rộng hơn nhiều. - Quá trình phát triển kinh tế tất yếu dẫn đến phân công lao động. Sự phân công lao động này dần dần vượt ra ngoài phạm vi biên giới quốc gia, đưa đến sự chuyên môn hóa và hợp tác hóa lẫn nhau giữa các công ty thuộc các quốc gia khác nhau. Điều đó càng làm mở rộng đối tượng và phạm vi trao đổi quốc tế sang các bán thành phẩm, nguyên liệu, các chi tiết thành phẩm… - Đặc biệt, xuất hiện một yêu cầu khách quan là cân thiết phải chuyên môn hóa giữa các quốc gia nhằm đạt tới quy mô tối ưu cho từng ngành sản xuất. Điều này có nghĩa là, không phải mỗi nước đều tự mình sản xuất mọi thứ hàng hóa để đáp ứng cho nhu cầu của mình kể cả trường hợp họ có đầy đủ các nguồn lực cần thiết cho điều đó. Trái lại, chính dung lượng thị trường thế giới đòi hỏi mỗi quốc gia phải biết tập trung vào một số ngành sản xuất và sản phẩm nhất định mà họ có lợi thế để đạt tới quy mô sản xuất tối ưu. Đây cũng là một căn cứ quan trọng để các quan hệ kinh tế quốc tế ngày càng phát triển về bề sâu. - Sự đa dạng hóa trong nhu cầu tiêu dùng ở mỗi quốc gia là một cơ sở quan trọng của việc phát triển các quan hệ kinh tế quốc tế. Khi đời sống kinh tế ngày càng phong phú thì người tiêu dùng tìm đến các mặt hàng phù hợp với thị hiếu và khả năng thanh toán của họ. Chính điều này giải thích nguồn gốc về quy mô trao đổi thương mại hết sức lớn giữa các nước công nghiệp phát triển. Như vậy, cơ sở của sự phát triển các quan hệ kinh tế quốc tế không chỉ là sự khác biệt về điều kiện tự nhiên, về trình độ phát triển, về các nguồn lực sản xuất sẵn có giữa các quốc gia mà còn ở sự đa dạng hóa nhu cầu, ở sự ưu việt về chuyên môn hóa, hợp tác hóa và ưu thế của quy mô tối ưu trong sự phân công lao động quốc tế. 1.1.3. Những đặc điểm cơ bản của nền kinh tế quốc tế a. Tăng trưởng kinh tế thế giới chậm lại Nửa đầu thế kỷ XX, những cuộc chiến tranh thế giới đã buộc nền kinh tế phải vận hành theo guồng máy chiến tranh. Tốc độ tăng trưởng tổng sản phẩm quốc nội (GDP) bình quân là 2%/năm. Từ sau chiến tranh thế giới thứ hai đến nay, sự phát triển của kinh tế thế giới đã trải qua bốn thời kỳ: + Thời kỳ khôi phục: từ sau chiến tranh thế giới thứ hai đến đầu những năm 50 + Thời kỳ tăng trưởng nhanh: từ đầu những năm 50 đến đầu những năm 1970 + Thời kỳ đình trệ: từ đầu những năm 70 đến đầu những năm 80 + Thời kỳ điều chỉnh, cải cách và chuyển đổi từ đầu những năm 80 đến nay. Sự phân chia trên cho thấy rõ tình hình phát triển của kinh tế thế giới trong những thập kỷ cuối cùng của thế kỷ XX. Sau khi nền kinh tế thế giới đạt tốc độ tăng trưởng cao nhất trong lịch sử, GDP tăng bình quân 5,9%/năm trong những năm 50, 60, nền kinh tế thế giới bước vào giai đoạn giảm sút từ đầu những năm 70 đến nay. Năm 50s - 60s 70s 80s 90s Tốc độ tăng trưởng GDP bình quân năm (%) 5,9 3,9 3,4 3,0 Nguyên nhân của tình trạng giảm nhịp độ tăng trưởng của kinh tế thế giới có nhiều, song theo IMF, WB và các cơ quan nghiên cứu kinh tế trên toàn thế giới, nguyên nhân có tính chung nhất là các nhân tố phát triển theo chiều rộng đã cạn dần, trong khi đó các nhân tố phát triển theo chiều sâu lại chưa phát huy tác dụng mạnh mẽ. Sự phát triển kinh tế được thể hiện trong mỗi nước, mỗi khu vực một cách khác nhau, tùy theo đặc điểm cụ thể. - Các nước công nghiệp phát triển, tốc độ tăng trưởng chậm dần. -Nền kinh tế các nước đang phát triển có tốc độ tăng GDP theo hướng tăng lên. Trong đó, các nước đang phát triển Châu Á có tốc độ tăng trưởng cao nhất, từ 5,6%/năm trong những năm 70 lên 7,0%/năm những năm 80 và 7,5%/năm những năm 90. - Các nước đang chuyển đổi, tốc độ tăng trưởng giảm sút mạnh, từ 2,9%/năm những năm 80 xuống -3,2%/năm những năm 90. Nhóm nước 50s - 60s 70s 80s 90s Các nước công nghiệp phát triển 5,0 3,6 2,8 2,2 Các nước đang phát triển - - 4,3 5,7 Châu Á - 5,6 7,0 7,5 Châu Phi - - 2,6 2,9 Đánh giá tổng thể, nền kinh tế thế giới trong những thập kỷ cuối cùng của thế kỷ XX vẫn tiếp tục tăng trưởng, nhưng với chiều hướng chậm lại. Sự giảm sút tăng trưởng của kinh tế thế giới từ sau chiến tranh thế giới thứ hai diễn ra theo chu kỳ N.Condrachep. Theo lý thuyết về chu kỳ dao động dài trong nền kinh tế thế giới của N. Condrachep, kể từ cách mạng công nghiệp (1782) đến nay, nền kinh tế thế giới đã trải qua bốn chu kỳ dài ( 1782 - 1845, 1845 -1892, 1892 - 1948, 1948 - nay) và hiện nay kinh tế thế giới đang ở thời kỳ chuyển tiếp từ giai đoạn đi xuống của chu kỳ dài thứ tư sang giai đoạn bắt đầu của chu kỳ dài thứ năm. Trong bối cảnh kinh tế thế giới suy giảm tốc độ tăng trưởng, các quốc gia, khu vực trên thế giới đều đi tìm con đường điều chỉnh và cải cách thể chế kinh tế. - Các nước công nghiệp phát triển xúc tiến điều chỉnh chính sách kinh tế vĩ mô, giảm bớt sự can thiệp của nhà nước vào kinh tế, tăng cường tác dụng của cơ chế thị trường. - Các nước đang phát triển tiến hành điều chỉnh và cải cách thể chế xí nghiệp, chủ yếu là tăng cường " phi quốc hữu hóa" và áp dụng cơ chế kinh doanh xí nghiệp. - Các nước trong thời kỳ chuyển đổi nhấn mạnh quá trình chuyển biến từ nền kinh tế kế hoạch truyền thống sang kinh tế thị trường. Như vậy, làn sóng cải cách kinh tế đã lan rộng khắp thế giới, làm mạnh thêm thể chế kinh tế thị trường, phát triển kinh tế thị trường trở thành trào lưu lịch sử, đồng thời là xu hướng của thế giới. b. Thương mại và đầu tư nước ngoài trên thế giới tăng mạnh Thương mại thế giới tăng trưởng nhanh chóng, quy mô không ngừng mở rộng. So với năm 1950, tổng khối lương thương mại thế giới năm 1999 đã tăng lên 17 lần, trong khi đó tổng sản lượng của thế giới chỉ tăng hơn 5,5 lần, còn tỷ lệ xuất khẩu của thế giới trong GDP đã tăng từ 7% lên 15%. Năm 1980 1996 1997 1998 Thương mại hàng hóa (tỷ USD) 2.000 5.150 5.320 5.220 Thương mại dịch vụ (tỷ USD) 392 1.275 1.320 1.290 Trong khoảng 10 năm, từ 1987 đến 1997, tổng khối lượng thương mại thế giới đã tăng lên gấp hai lần và nếu tính theo đồng giá sức mua (PPP), thị phần của thương mại trong GDP thế giới đã tăng từ 20,6% lên 29,6%. Được hậu thuẫn bởi cuộc cách mạng thông tin, thương mại dịch vụ thậm chí còn tăng nhanh hơn nữa. Xuất khẩu dịch vụ của thế giới, sau khi tăng lên 3 lần, từ 392 tỷ USD năm 1980 lên 1.400 tỷ USD năm 1997, vào năm 1999 đã chiếm tới 1/4 tổng xuất nhập khẩu hàng hóa của thế giới. Trong ba thập kỷ cuối cùng của thế kỷ XX, tốc độ tăng trưởng của thương mại thế giới cao hơn nhiều lần so với tốc độ tăng trưởng sản xuất thế giới. - Trong những năm 70, tốc độ tăng trưởng thương mại thế giới là 5,8%/năm, cao hơn 1,5 lần so với tốc độ tăng trưởng kinh tế. - Trong những năm 80, tốc độ tăng trưởng thương mại thế giới là 6,0%/năm, cao gấp hai lần tăng trưởng kinh tế thế giới. - Trong những năm 90, tốc độ tăng trưởng thương mại thế giới là 7,0%/năm, hơn 2,5 lần so với tốc độ tăng trưởng kinh tế. Kim ngạch xuất nhập khẩu hiện chiếm khoảng 1/3 tổng sản phẩm thế giới. Cơ cấu hàng hóa trong thương mại thế giới được mở rộng hơn, không chỉ bao gồm những thành phẩm và bán thành phẩm của công nghiệp truyền thống, sản phẩm nông nghiệp sơ chế, mà còn bao gồm cả sản phẩm kỹ thuật cao, công nghệ dịch vụ, ngoại tệ, cổ phiếu, chứng khoán… Cơ cấu khu vực của thương mại thế giới cũng thay đổi. Mặc dù những hoạt động thương mại thế giới chủ yếu bắt nguồn từ các nước công nghiệp phát triển, nhưng những năm gần đây, thương mại giữa các nước công nghiệp phát triển và các nước đang phát triển đều gia tăng. Nói cách khác đi, trên thế giới ngày càng có nhiều nước tham gia vào hoạt động thương mại quốc tế. Thương mại thế giới đóng một vai trò rất quan trọng trong sự phát triển kinh tế của các nước trên thế giới. Những nước xuất khẩu nhiều nhất cũng là những nước có nền kinh tế phát triển nhất. Theo các chuyên gia kinh tế của IMF, WB, nếu thương mại thế giới tăng thêm 100 tỷ USD thì sẽ thúc đẩy GDP thế giới tăng thêm 10 tỷ USD. Thương mại thế giới phát triển đến một giai đoạn mới với đỉnh cao là sự ra đời của WTO vào ngày 1/1/1995, cũng có nghĩa là hiệp định cuối cùng kết thúc vòng thương lượng buôn bán đầy khó khăn kéo dài suốt bao nhiêu năm qua đã được thông qua. Thương mại quốc tế gia tăng cho thấy rõ mối quan hệ về kinh tế giữa các nước trên thế giới tăng lên. Theo IMF " Sự lệ thuộc lẫn nhau về kinh tế ngày càng tăng lên giữa các nước trên thế giới do tăng nhanh khối lượng và đa dạng của những chuyển dịch có tính xuyên biên giới quốc gia về hàng hóa, dịch vụ và các luồng vốn quốc tế cũng như sự phổ biến công nghệ ngày càng rộng rãi và nhanh chóng". Đầu tư nước ngoài: Đồng thời với sự phát triển mạnh mẽ của thương mại thế giới, Đầu tư nước ngoài trên thế giới cũng tăntg mạnh. Theo thống kê của UNCTAD, tổng mức đầu tư nước ngoài trên thế giới năm 1967 là 112,4 tỷ USD, năm 1983 là 600 tỷ USD, năm 1990 là 1.700 tỷ USD và năm 1999 tăng tới hơn 4.000 tỷ USD. Trong đó, đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) từ mức bình quân hàng năm 156 tỷ USD thời kỳ 1985 - 1990 tăng lên 347 tỷ USD năm 1996, hơn 800 tỷ USD năm 1999 và đạt mức cao kỷ lục hơn 1.000 tỷ USD vào năm 2000. Trong tổng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài trên thế giới, khoảng 58% là đổ vào các nước công nghiệp phát triển, 37% là đổ vào các nước đang phát triển và khoảng 5% đổ vào các nước Đông Âu cũ. Các công ty xuyên quốc gia (TNC) Các công ty xuyên quốc gia là chủ thể trong hoạt động kinh tế quốc tế hiện nay. Tính quốc tế hóa cao của nền kinh tế thế giới được tăng cường với vai trò ngày càng lớn của các TNC. Nói đúng hơn, trong quá trình toàn cầu hóa kinh tế, các TNC đóng vai trò then chốt. Các TNC thực hiện chiến lược kinh doanh toàn cầu với ưu thế to lớn là có khả năng tiến hành hợp lý hơn việc phân bổ các nguồn lực trên phạm vi toàn cầu, thực hiện cách quản lý kinh doanh khoa học cao độ, từ đó giảm tới mức tối đa giá thành sản xuất, năng cao năng suất lao động và hiệu quả kinh tế. Quy mô kinh doanh, mức đầu tư trực tiếp nước ngoài, lĩnh vực hoạt động của các TNC đều không ngừng mở rộng, trinh độ "quốc tế hóa" tăng lên. Những năm cuối của thế kỷ XX, các TNC đang bắt đầu hình thành các liên minh chiến lược kiểu mới. Đứng trước sức cạnh tranh, làn sóng tự do hóa và mở ngõ các lĩnh vực đầu tư mới, ngày càng nhiều xí nghiệp, kể cả xí nghiệp của các nước đang phát triển, áp dụng các biện pháp tham dự vào hoạt động toàn cầu hóa kinh tế, thông qua nhiều hính thức để kết thành liên minh, như thông qua việc sáp nhập, thôn tính và mua lại để thiết lập ở nước ngoài các cớ sở sản xuất của mình. Đây là một hình thức hợp tác đang được các TNC ưu thích hiện nay. Trong lịch sử phát triển của kinh tế thế giới, nhiều lần các công ty đã phải liên minh: - Lần đầu tiên vào cuối thế kỷ XIX, các xí nghiệp đã hợp nhất với nhau theo chiều ngang để tạo thành các công ty độc quyền. - Cuối những năm 1920, một làn sóng sáp nhập theo chiều dọc đã diễn ra mạnh mẽ, kéo theo nạn đầu cơ tiền tệ, một tác nhân dẫn tới cuộc đại khủng hoảng 1929 - 1933. - Nửa cuối những năm 60, sự sáp nhập hỗn hợp đã tạo thành những công ty khổng lồ, nhưng khó quản lý nên hiệu quả không cao. - Lần thứ tư được bắt đầu từ những năm cuối 80, đặc biệt là sau chiến tranh lạnh đến nay, làn sóng sáp nhập và thôn tính lẫn nhau giữa các công ty đã trở thành một xu hướng phổ biến trong nền kinh tế thế giới. So với những lần sáp nhập trước đây, làn sóng sáp nhập lần thứ tư có các đặc điểm nổi bật sau đây: - Thứ nhất, diễn ra sôi động trên khắp thế giới, từ các nước công nghiệp phát triển tới các nước đang phát triển. - Thứ hai, làn sóng sáp nhập hầu như đụng chạm đến tất cả các ngành, bao gồm các ngành công nghệ cao và ngành công nghệ truyền thống, ngành chế tạo và cả ngành dịch vụ. - Thứ ba, sự sáp nhập các công ty lớn với kim ngạch sap nhập lên tới hàng chục, hàng trăm tỷ USD. - Thứ tư, các vụ mua bán, sáp nhập công ty, xí nghiệp phần lớn diễn ra trong nội bộ cùng một ngành hoặc giữa các xí nghiệp của các ngành gần giống nhau. - Thứ năm, sáp nhập  công ty để hình thành nên các công ty khổng lồ có mặt trên khắp các châu lục, chiếm thị phần quan trọng trong thị trường thế giới, hoạt động trên nhiều lĩnh vực, và hơn hết, cơ cấu tổ chức có hiệu quả và được vi tính hóa cao độ hơn. Những phân tích ở trên cho thấy rõ các TNC là chủ thể hành vi trong hoạt động kinh tế quốc tế hiện nay. Năm 1971 tỷ trọng của các TNC trong công nghiệp thế giới là 23%, năm 1980 tăng lên 28%; đến thập niên 90 đã vượt quá 30%. Phân công lao động quốc tế hiện nay rất phát triển, trên thực tế là biểu hiện của phân công bên trong các TNC. Hoạt động kinh tế quốc tế đương đại về cơ bản là do các TNC tiến hành. Hiện nay, thương mại bên trong các TNC và thương mại giữa các TNC với nhau chiếm khoảng 2/3 thương mại thế giới; trên 4/5 đầu tư trực tiếp ra nước ngoài trên thế giới do các TNC tiến hành; trên 9/10 thành quả nghiên cứu và triển khai kỹ thuật trên thế giới nằm trong tay các TNC. c. Sự hình thành các thị trường khu vực gia tăng và đang trở thành xu thế phát triển quan trọng trong nền kinh tế thế giới Vào nửa sau thế kỷ XX, với tính chất phát triển không đều của CNTB, nền kinh tế thế giới đã bị nhiều chao đảo và chịu tác động của nhiều xung lực. Một mặt, hiệu quả điều tiết vĩ mô của nhà nước chỉ phát huy tác dụng trong phạm vi của từng quốc gia. Mặt khác, sức mạnh điều tiết đối với thị trường toàn cầu, nhất là đối với thị trường vốn, của các tổ chức quốc tế vẫn còn chưa được thực hiện đầy đủ. Kết quả là tính tự do của cơ chế thị trường, cũng như tầm tác động của thị trường tài chính - tiền tệ quốc tế đã vượt ra khỏi khuôn khổ điều tiết cục bộ của từng quốc gia và gây ra nhiều biến động lớn cho nền kinh tế thế giới.; Trước sự vận động không được điều tiết của nền kinh tế toàn cầu, sự đơn lẻ của nhà nước, thậm chí ngay cả đến những nước phát triển nhất như Mỹ, hoặc một số tổ chức tài chính - tiền tệ khác như IMF, WB .. cũng tỏ ra hoàn toàn bất lực trước những rủi ro, biến động thị trường, hoặc những vấn đề toàn cầu khác. Do vậy, cần có sự đồng thuận và hợp tác của các nước trong khu vực, cũng như cộng đồng quốc tế. Đó là chưa kể đến việc phải đối phó với sự cạnh tranh khốc liệt trên quy mô thị trường toàn cầu. Bởi vậy, muốn tạo ra một môi trường an toàn, anh ninh về kinh tế, nhằm tăng cường sức mạnh để tồn tại và phát triển, những nước có điều kiện gần gũi về địa lý, đã liên  kết với nhau theo khu vực có tính địa - chiến lược về mặt kinh tế. Kết quả là quá trình khu vực hóa kinh tế cũng đã hình thành và phát triển mạnh mẽ. Trong vòng 50 năm qua, 214 hiệp định thương mại khu vực đã được kỹ kết giữa các quốc gia và đã được thông báo, đăng ký với GATT/WTO. Trong đó cho tới nay vẫn còn 130 hiệp định thương mại khu vực vẫn còn hiệu lực, bao gồm hầu hết các thành  viên của WTO, chỉ trừ có Nhật Bản, Hàn Quốc và Hồng Kông. Các nước phát triển nhất trên thế giới Mỹ, Nhật Bản và Tây Âu trên thực tế đã trở thành ba trung tâm kinh tế lớn theo thế chân vạc. Với cơ chế mang tính chất đa trung tâm như vậy trong quan hệ kinh tế và chính trị thế giới, mối quan hệ kinh tế giữa các nước đang phát triển ngày càng chặt chẽ tạo thành quá trình sản xuất, lưu thông, tiêu dùng thống nhất toàn cầu, trong đó sự phân công lao động quốc tế, sư phụ thuộc giữa các quốc gia ngày càng tăng.. Theo thống kê của Liên Hiệp Quốc, trong những năm 60 có 19 tổ chức kinh tế khu vực, những năm 70 có 28, những năm 80 có 32 và những năm 90 đã lên tới 60 với hơn 160 nước tham gia dưới các loại hình liên kết và mức độ khác nhau, từ thấp đến cao: Khu vực thương mại tự do; liên minh thuế quan; thị trường chung; liên minh kinh tế tiền tệ. 1.2. Những xu hướng vận động của nền kinh tế thế giới hiện nay Nền kinh tế thế giới ngày nay chịu sự tác động của rất nhiều các nhân tố khác nhau, cả nhân tố kinh tế, kỹ thuật, xã hội, chính trị cũng như các nhân tố tự nhiên. Sự vận động của nền kinh tế thế giới cũng diễn ra với nhiều xu thế khác nhau, thậm chí trái ngược nhau, bởi vì thế giới là sự thống nhất các mâu thuẫn. Từ  những năm 80 của thế kỷ XX, sự phát triển của nền kinh tế thế giới đã chịu sự tác động của một loạt những xu thế mới, trong đó nổi bật lên là: - Xu thế phát triển mang tính chất bùng nổ của cách mạng khoa học - công nghệ - Xu thế quốc tế hóa đời sống kinh tế - Xu thế chuyển từ đối đầu sang đối thoại, từ biệt lập sang hợp tác với sự ưu tiên các nguồn lực cho phát triển kinh tế Bên cạnh nhiều xu thế khác, ba xu thế nói trên giữ vai trò chủ yếu trong việc định hướng sự phát triển của nền kinh tế thế giới nói chung, sự phát triển kinh tế của từng quốc gia nói riêng. Nó giữ vai trò chủ yếu vì chúng phản ánh động lực của sự phát triển, trạng thái của sự phát triển và phương thức của sự phát triển của nền kinh tế thế giới. Bước sang thế kỷ XXI, ba xu thế nói trên vẫn tiếp tục thể hiện vai trò có tính bao trùm và thường xuyên quyết định, mặc dù có thêm những sắc thái mới, phức tạp hơn và đa dạng hơn. Những sắc thái này thể hiện ở các khía cạnh sau: a. Cơ cấu các ngảnh sản xuất và dịch vụ thay đổi mạnh mẽ hơn, sâu sắc hơn, thể hiện ở một số hướng: - Các ngành công nghiệp "cổ điển" giảm dần tỷ trọng và vai trò của nó, trở nên "mãn chiều xế bóng". Các ngành có hàm lượng khoa học - công nghệ cao tăng nhanh, đặc biệt là các ngành dịch vụ kỹ thuật phục vụ sản xuất. Chúng giữ vai trò "khớp nối", bảo đảm cho toàn bộ quá trình tái sản xuất xã hội được thông suốt và phát triển. - Cơ cấu kinh tế trở nên "mềm hóa", khu vực kinh tế phi hình thức được mở rộng, nền "kinh tế tượng trưng" có quy mô hớn hơn "nền kinh tế thực" nhiều lần. - Cơ cấu lao động theo ngành nghề có sự thay đổi sâu sắc, xuất hiện nhiều nghề mới với sự đan kết của nhiều lĩnh vực khoa học - công nghệ. b. Do tác động của khoa học - công nghệ, của sự phân công lao động quốc tế, do vai trò và tầm hoạt động của các công ty đa quốc gia và xuyên quốc gia, quá trình quốc tế hóa nền kinh tế thế giới ngày càng phát triển mạnh mẽ cả về chiều rộng và chiều sâu trên hai cấp độ toàn cầu hóa và khu vực hóa đưa đến sự chuyển biến nhanh chóng của thể chế kinh tế thế giới và đưa nền kinh tế thế giới bước vào cạnh tranh toàn cầu bên cạnh việc đẩy mạnh tìm kiếm sự hợp tác trong cạnh tranh. Thể chế kinh tế thế giới chuyển biến theo hướng thị trường hóa nền kinh tế của từng quốc gia; quốc tế hóa thể chế kinh tế giữa các nước theo hướng mở cửa với sự xuyên suốt của cơ chế thị trường; theo hướng nhất thể hóa và tập đoàn hóa kinh tế khu vưc c. Xu thế toàn cầu hóa kinh tế gia tăng với các biểu hiện mới về vai trò ngày càng lớn của hoạt động tài chính - tiền tệ; sự gia tăng của Mậu dịch quốc tế nhanh hơn nhiều lần tốc độ tăng trưởng kinh tế; sự gia tăng làn sóng sáp nhập các công ty xuyên quốc gia; vai trò ngày càng quan trọng của tri thức và sự phát triển loại hình kinh tế tri thức. Công nghệ thông tin phát triển làm thay đổi cách thức tổ chức sản xuất và đời sống, đưa đến sự tác động ngày càng lớn của kinh tế đến chính trị xã hội. Quá trình toàn cầu hóa diễn ra cả về bề rộng lẫn chiều sâu, một mặt đưa tới cơ hội phát triển kinh tế của từng quốc gia cũng như toàn thế giới, giúp cho việc hợp lý các nguồn tài nguyên hiện có trên trái đất cũng như gây tác động ngược ngược lại đối với sự phát triển của khoa học - công nghệ và đối với việc phân công lao động quốc tế. Tuy nhiên quá trình toàn cầu hóa kinh tế cũng đưa đến những thách thức lớn ở nhiều góc độ khác nhau như sự gia tăng của rủi ro kinh tế cũng như gây ra  mâu thuẫn giữa kinh tế với chính trị xã hội. Trong quá trình toàn cầu hóa kẻ mạnh thường thu được nhiều lợi ích hơn còn người yếu dễ bị thua thiệt. Bên cạnh ba xu thế nổi bật nói trên, đối với các quốc gia ở Châu Á phải kể đến xu thế thứ tư là : sự phát triển của vòng cung Châu Á - Thái Bình Dương với các quốc gia có nền kinh tế hết sức năng động, đạt nhịp độ phát triển cao liên tục qua nhiều năm, đang làm trung tâm của nền kinh tế thế giới dịch chuyển dần về khu vực này. Vòng cung Châu Á - Thái Bình Dương có khoảng 2 tỷ dân, chiếm 40% GNP của toàn thế giới với những tài nguyên thiên nhiên phong phú, đã từng có những nền văn minh rực rỡ trong quá khứ và ngày nay đang chứng tỏ một sự phát triển hết sức mau lẹ, chưa từng có trong tiền lệ. Người ta dự báo rằng thế kỷ XXI là thế kỷ của Châu Á - Thái Bình Dương. Điều đó tạo điều kiện cho việc hình thành những mối quan hệ quốc tế mới, tạo nên những khả năng mới cho sự phát triển đồng thời cũng đặt ra những thách thức mới cho tất cả các quốc gia. Sự phát triển của vòng cung Châu Á - Thái Bình Dương đòi hỏi mỗi nước phải tính đến trong chiến lược phát triển của mình. Ngoài những xu thế nêu trên còn có nhiều xu thế khác chi phối sự vận động của nền kinh tế thế giới, thí dụ xu thế " mềm hóa" cơ cấu kinh tế thế giới, xu thế hình thành các liên kết tiểu khu vưc, xu thế phát huy các nhân tố truyền thống, xã hội và văn hóa cạnh tranh trong kinh tế….. Trên cơ sở phân tích tác động của các xu thế nêu trên, có thể dự báo tương lai của nền kinh tế thế giới sau vài ba thập kỷ tới:             1. Kết cầu ngành sản xuất và dịch vụ chuyển dịch theo hướng: - Các ngành công nghiệp cổ điển giảm dần tỷ trọng và ý nghĩa của nó. - Các ngành có hàm lượng khoa học - công nghệ cao tăng nhanh, đặc biệt là các ngành dịch vụ kỹ thuật phục vụ sản xuất chiếm vị trí ngày càng lớn. Chúng giữ vai trò khớp nối đảm bảo cho toàn bộ quá trình tái sản xuất xã hội được thông suốt và phát triển với tốc độ cao. - Kết cấu kinh tế trở nên mềm hóa, khu vực kinh tế phi hình thức được mở rộng, nền kinh tế tượng trưng có quy mô lớn hơn nền kinh tế thực nhiều lần. Vai trò của các hoạt động tài chính - tiền tệ, dịch vụ ngân hàng, dịch vụ công nghệ càng trở nên quan trọng, các luồng di chuyển vốn với quy mô lớn và đa chiều giữa các quốc gia trên thế giới. - Kết cấu lao động theo ngành nghề có những thay đổi sâu sắc, xuất hiện nhiều nghề mới với sự đan kết cua nhiều lĩnh vực khoa học - công nghệ.             2. Sự phân công lao động quốc tế phát triển cả về chiều rộng và chiều sâu, vai trò của các công ty đa quốc gia và công ty xuyên quốc gia ngày càng lớn trong nền kinh tế thế giới. Mức độ xã hội hóa lao động và tư bản ngày càng tăng lên. Lao động sống ngày càng có trình độ cao và trở nên đắt đỏ hơn.             3. Phương thức tổ chức nền sản xuất phát triển theo chiều hướng ngược lại so với tính chất của xã hội công nghiệp, đó là chiều hướng: - Phi tiêu chuẩn hóa - Phi chuyên môn hóa - Phi tập trung hóa - Phi tối đa hóa Tự động hóa sản xuất đồng bộ với kỹ thuật điều khiển linh hoạt là đặc điểm nổi bật của tổ chức sản xuất trong tương lai.             4. Xã hội loài người đang bước sang nền văn minh mới với những cơ sở mới cho sự phát triển của  nó. - Cơ sở năng lượng mới với nhiều nguồn khác nhau và có thể tái sinh được - Cơ sở công nghệ mới: công nghệ không phế thải và công nghệ khép kín - Cơ sở nguyên liệu mới, thông tin là một nguồn nguyên liệu lớn - Cơ sở tổ chức sản xuất mới: quy mô nhỏ, linh hoạt và ít tốn năng lượng… 1.3. Kinh tế Việt Nam 1.3.1. Vị trí và đặc điểm Việt Nam nằm ở trung tâm Đông Nam Á trong khu vực Châu Á - Thái Bình Dương, một khu vực có nền kinh tế phát triển năng động với tốc độ cao trong những năm vừa qua và theo nhiều dự báo sẽ có vai trò ngày càng quan trọng trên thế giới trong những năm tới. Nằm ở ven biển Thái Bình dương, nhìn ra Biển Đông , với hơn 3200 km bở biển trải dài trên 15 vĩ tuyến, từ lâu đã được coi là bao lơn của Thái Bình Dương, với những cảng quốc tế trên những tuyến hàng hải quan trọng từ Đông sang Tây, Việ Nam có ưu thế địa lý trong lĩnh vực hàng hải và giao thông quốc tế. Mặ khác, cao nguyên Miền Trung gắn với cao nguyên Nam Lào và miền Đông Campuchia, có nhiều đường giao thông ra biển cho phép Việt Nam và hai nước Lào , Campuchia giao lưu và phát triển thuận lợi kinh tế trong khu vực và trên thế giới. 1.3.2. Những lợi thế cơ bản trong phát triển kinh tế đối ngoại của Việt Nam a. Chế độ chính trị - xã hội Từ sau khi thống nhất đất nước, Việt Nam đã thiết lập được một chế độ chính trị - xã hội ổn định, được quốc tế thừa nhận là một trong những quốc gia an toàn nhất cho các hoạt động kinh tế. Việt Nam cũng đã thực thi nhiều biện pháp nhằm ổn đinh và phát triển kinh tế một cách bền vững như hoàn thiện hành lang pháp lý và cơ chế quản lý kinh tế theo chuẩn mực quốc tế, phát triển cơ sở hạ tầng, phát triển quan hệ ngoại giao với nhiều nước và tổ chức quốc tế. b. Nguồn nhân lực và con người Việt Nam Bước vào những năm 90, nước ta có 66 triệu dân, trong đó33 triệu người đang độ tuổi lao động, hàng triệu người chưa có hoặc chưa đủ việc làm. Năm 2003, số dân của Việt Nam là trên 80 triệu người, trong đó 40 triệu người đang trong độ tuổi lao động. Như vậy, lợi thế về lao động của nước ta không lớn, xét trong bối cảnh nhiều nước trong khu vực có nguồn lao động dồi dào hơn nước ta như Trung Quốc, Ấn Độ, Inđonesia, Pakistan… Do đó, vấn đề cần xem xét ở đây không chỉ là số lượng người lao động mà chủ yếu là chất lượng người lao động - yếu tố con người. Người Việt Nam có mặt mạnh là thông minh, sáng tạo, có khả năng nắm bắt nhanh khoa học - công nghệ, có khả năng thích ứng được với những tình huống phức tạp. Người Việt Nam còn có truyền thống cần cù và một nền tảng văn hóa, giáo dục tốt. Giá nhân công thấp cũng là một lợi thế trong sự phân công lao động quốc tế. Nhìn tổng thể, chúng ta có cơ sở để khẳng định nguồn nhân lực và con người Việt Nam là nguồn lực quan trọng nhất và là lợi thế lớn nhất của nước ta trong sự trao đổi và phân công lao động quốc tế. c. Vị trí địa lý kinh tế d. Tài nguyên thiên nhiên Thiên nhiên phú cho đất nước Việt Nam những nguồn tài nguyên phong phú và đa dạng, tạo cho nước ta một lợi thế khách quan trong các mối quan hệ kinh tế - thương mại quốc tế. Về khí hậu, Việt Nam chịu ảnh hưởng sâu sắc của khí hậu nhiệt đới gió mùa Châu Á. Nhờ sự đa dạng của địa hình, nước ta có nhiều vùng tiểu khí hậu  thuận lợi cho việc đa dạng hóa cây trồng. Với lượng bức xạ lớn, Việt Nam có một nguồn năng lượng tự nhiên quan trọng có thể khai thác được qua con đường tích lũy sinh vật.. Về rừng, trước năm 1945, nước ta được xếp trong các nước giàu tài nguyên rừng với nhiều loại rừng, chủ yếu là rừng kín, nhiệt đới, nhiều tầng. Trong 40 năm qua, tài nguyên rừng giảm sút rất nghiêm trọng. Rừng bị tàn phá nặng nề trong chiến tranh và sau chiến tranh. Trong bối cảnh trên, trong những năm trước mắt rừng chưa phải là một lợi thế và chỉ có khả năng cung cấp nguyên liệu rất hạn chế cho sản xuất đồ gỗ, hàng mỹ nghệ xuất khẩu và một số đặc sản với số lượng xuất khẩu hạn chế. Nhưng rừng là tài nguyên có khả năng tái tạo. Rừng ẩm nhiệt đới được xem là hệ sinh thái có năng suất cao, có tiềm năng sản xuất nguyên liệu lớn, nhưng cũng dễ thoái hóa nếu không được quản lý tốt. Về khoáng sản, tài nguyên khoáng sản của nước ta rất đa dạng. Trong những năm qua công tác điều tra địa chất được tiến hành có hệ thống, xác định cấu trúc và tiềm năng khoáng sản, đã phát hiện 90 loại khoáng sản rắn, 10 nhóm nước khoáng, những diện tích có triển vọng về dầu mỏ và khí đốt. Tiềm năng về khoáng sản tương đối lớn, có khả năng khai thác đến giữa thế kỷ XXI.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docNhững vấn đề về kinh tế thế giới và kinh tế việt nam.doc