Là những lao động làm các công việc tác động vào quá trình chuẩn bị, quá trình đảm
bảo các điều kiện cho lao động công nghệ sản xuất, kiểm tra chất lượng sản phẩm ở
các công ty, Bưu điện quận, huyện như vận chuyển cung ứng vật tư trong dây chuyền
công nghệ, vệ sinh công nghiệp, kiểm soát chất lượng thông tin, bảo vệ kinh tế tại doanh
nghiệp, tích cước, thu cước, hướng dẫn chỉ đạo kỹ thuật nghiệp vụ. (Trưởng, phó đài,
đội trưởng, đội phó, phó Bưu điện huyện, thị. Trưởng bưu cục có doanh thu từ 1 tỷ đồng
trở lên, kiểm soát viên , nhân viên bảo vệ kinh tế kể cả người làm công việc tuần tra bảo
vệ các tuyến cáp, nhân viên vệ sinh công nghiệp, kỹ sư điện tử, tin học lập trình cung
cấp thông tin quản lý, tính cước; lái xe tải, nhân viên cung ứng vật tư. thủ kho phục vụ
sản xuất, kỹ sư làm việc tại các xưởng, trạm, tổ sửa chữa thiết bị kỹ thuật viên, công
nhân cơ điện, công nhân máy tính cập nhật, lưu trữ số liệu, tính cước).
31 trang |
Chia sẻ: phanlang | Lượt xem: 1812 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Những vấn đề lí luận cơ bản về tiêu thụ sản phẩm của doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
n được nhu cầu của xã hội trong thời gian
tới.
Đối với xã hội.
Về phương diện xã hội thì tiêu thụ sản phẩm hàng hóa có vai trò trong việc cân đối giữa
cung và cầu, vì nền kinh tế là một thể thống nhất với những cân bằng, những tương quan
tỷ lệ nhất định. Sản phẩm hàng hóa được tiêu thụ tạo điều kiện cho hoạt động sản xuất
kinh doanh diễn ra bình thường trôi trảy tránh được sự mất cân đối, giữ được bình ổn
trong xã hội.
Thị trường và chức năng chủ yếu của thị trường tiêu thụ hóa.
Khái niệm về thị trường tiêu thụ hàng hóa.
Thị trường qua cách hiểu cổ điển là nơi diễn ra các quá trình trao đổi buôn bán.
Theo Marketing thị trường bao gồm tất cả các khách hàng tiềm ẩn cùng có một nhu cầu
hay mong muốn cụ thể, sẵn sàng và có khả năng tham gia trao đổi để thoả mãn nhu cầu
và mong muốn đó.
3/29
Theo quan niệm này quy mô thị trường sẽ tuỳ thuộc vào số người có cùng nhu cầu và
mong muốn, vào lượng thu nhập lượng tiền mà họ sẵn sàng bỏ ra để mua sắm hàng hóa
để thoả mãn nhu cầu và mong muốn đó. Quy mô thị trường không phụ thuộc vào số
người có nhu cầu và mong muốn khác nhau.
Theo khái niệm mà các nhà kinh doanh thường dùng thì thị trường chứa tổng cung, tổng
cầu về một loại hàng hóa hay một nhóm hàng hóa nào đó. Trên thị trường luôn luôn diễn
ra các hoạt động mua bán và các quan hệ hàng hóa, tiền tệ.
Tái sản xuất hàng hóa bao gồm các khâu sản xuất phân phối, trao đổi, tiêu dùng. Thị
trường là khâu tất yếu của sản xuất hàng hóa, thị trường chỉ mất đi khi hàng hóa không
còn. Thị trường là một phạm trù riêng của sản xuất hàng hóa, hoạt động cơ bản của thị
trường được biểu hiện qua ba nhân tố có mối quan hệ hữu cơ mật thiết đó là nhu cầu
hàng hóa và dịch vụ, cung ứng hàng hóa và dịch vụ và giá cả hàng hóa. Thị trường là sự
kết hợp giữa cung và cầu trong đó những người mua và người bán bình đẳng cùng cạnh
tranh. Số lượng người mua người bán nhiều hay ít phản ánh quy mô của thị trường lớn
hay nhỏ. Việc quyết định có nên mua hay không do cung cầu quyết định. Từ đó ta thấy
rằng thị trường là nơi thực hiện sự kết hợp chặt chẽ giữ hai khâu: sản xuất và tiêu thụ
hàng hóa.
Các chức năng chủ yếu của thị trường tiêu thụ hàng hóa.
Thị trường được coi là phạm trù trung tâm vì qua đó các doanh nghiệp có thể nhận biết
được sự phân phối các nguồn lực thông qua hệ thống giá cả. Thị trường tồn tại khách
quan, mỗi doanh nghiệp phải trên cơ sở nhận biết nhu cầu của thi trường và xã hội cũng
như thế mạnh của mình trong sản xuất và kinh doanh hàng hóa để có chiến lược, kế
hoạch và phương án kinh doanh phù hợp với đòi hỏi của thị trường và xã hội. Thị trường
có vai trò to lớn như vậy vì do nó có những chức năng chủ yếu sau.
Chức năng thừa nhận.
Chức năng này thể hiện hàng hóa của doanh nghiệp có bán được không, nếu bán được
có nghĩa là thị trường chấp nhận, có nghĩa là người mua chấp nhận và quá trình tái sản
xuất của doanh nghiệp được thực hiện. Thị trường thừa nhận giá trị sử dụng và giá trị
của hàng hóa, sự phân phối và phân phối lại các nguồn lực nói nên sự thừa nhận của thị
trường.
Chức năng thực hiện.
Thị trường là nơi diễn ra hoạt động mua và bán hàng hóa. Người bán cần bán giá trị của
hàng hóa còn người mua cần lại cần giá trị sử dụng của hàng hóa. Thông qua chức năng
thực hiện của thị trường, các hàng hóa hình thành nên các giá trị trao đổi của mình để
làm cơ sở cho việc phân phối các nguồn lực.
4/29
Chức năng điều tiết và kích thích.
Chức năng này được thể hiện ở chỗ nó cho phép người sản xuất bằng nghệ thuật kinh
doanh của mình tìm được nơi tiêu thụ hàng hóa với hiệu quả hay lợi nhuận cao và cho
phép người tiêu dùng mua được những hàng hóa có lợi cho mình.
Chức năng thông tin.
Chức năng này chỉ cho người sản xuất biết nên sản xuất hàng hóa nào, khối lượng bao
nhiêu để đưa vào thị trường ở thời điểm nào là thích hợp nhất, chỉ cho người tiêu dùng
biết nên mua những hàng hóa nào ở thời điểm nào có lợi cho mình. Chức năng này có
được do trên thị trường chứa đựng thông tin về: Tổng số cung, tổng số cầu đối với từng
loại hàng hóa, chất lượng sản phẩm hàng hóa, các điều kiện tìm kiếm hàng hóa.
5/29
Nội dung chủ yếu của quá trình tiêu thụ sản
phẩm tại doanh nghiệp
Nghiên cứu thị trường.
Để thành công trên thương trường, đòi hỏi bất kỳ một doanh nghiệp nào cũng phải thực
hiện công tác nghiên cứu thăm dó và xâm nhập thị trường của doanh nghiệp nhằm xác
định nhu cầu mà doanh nghiệp cần thoả mãn cũng như khả năng tiêu thụ hàng hóa của
doanh nghiệp trên thị trường, từ đó tìm kiếm các giải pháp nhằm thích ứng với đòi hỏi
của thị trường, đây là công việc hết sức cần thiết khi sản xuất kinh doanh một hàng hóa
nào đó.
Trước hết nghiên cứu thị trường là việc xác định nhu cầu thị trường, xác định những sản
phẩm hàng hóa mà doanh nghiệp cần sản xuất kinh doanh để mang lại hiệu quả cao nhất.
Nghiên cứu thị trường là bước khởi đầu quan trọng đối với hoạt động kinh doanh của
bất kì một doanh nghiệp nào, nó quyết định sự thành công hay thất bại của một doanh
nghiệp. Nếu một doanh nghiệp xác định chính xác nhu cầu thị trường thì sẽ có những
quyết định sản xuất kinh doanh hợp lí mang lại hiệu quả kinh tế cao, vì khi đó sản phẩm
hàng hóa của doanh nghiệp được người tiêu dùng chấp nhận. Ngược lại, khi sản xuất
kinh doanh một sản phẩm hàng hóa không phù hợp với nhu cầu người tiêu dùng, thì
không thể tiêu thụ được doanh nghiệp sẽ gặp khó khăn và có thể thất bại nặng nề. Điều
này cũng có nghĩa là ‘‘Chúng ta phải bán những thứ mà thị trường cần, chứ không phải
bán những thứ mà chúng ta có’’.
Nội dung của nghiên cứu thị trường bao gồm:
- Nghiên cứu các nhân tố môi trường để phân tích được các ràng buộc ngoài tầm kiểm
soát của công ty cũng như những thời cơ có thể phát sinh.
- Thu thập thông tin khái quát về qui mô thị trường chủ yếu qua các tài liệu thống kê về
tiêu thụ và bán hàng giữa các không gian thị trường.
- Nghiên cứu tổng quan kết cấu địa lý, mặt hàng, phân bố dân cư và sức mua, vị trí và
sức hút, cơ cấu thị trường người bán hiện hữu của thị trường.
- Nghiên cứu động thái và xu thế vận động của thị trường ngành, nhóm hàng, lĩnh vực
kinh doanh.
Từ những kết quả phân tích các nội dung trên, doanh nghiệp có đánh giá tiềm năng thị
trường tổng thể, đo lường thị phần và tập khách hàng tiềm năng của doanh nghiệp.
6/29
Bên cạnh đó, doanh nghiệp cũng phải chú ý tới việc nghiên cứu khách hàng tiềm năng.
Nghiên cứu tập tính và thói quen, cấu trúc logic lựa chọn của khách hàng và nghiên cứu
động cơ mua sắm và hành vi ứng xử của khách hàng tiềm năng.
Chiến lược sản phẩm hàng hóa.
Khái niệm.
Chiến lược sản phẩm là phương thức kinh doanh hiệu quả, dựa trên cơ sở bảo đảm thoả
mãn nhu cầu của thị trường và thị hiếu của khách hàng trong từng thời kỳ kinh doanh
của doanh nghiệp.
Vai trò của chiến lược sản phẩm.
Chiến lược sản phẩm hàng hóa có vai trò quan trọng được coi là xương sống của chiến
lược tiêu thụ. Trình độ sản xuất càng cao, cạnh tranh càng gay gắt thì vai trò của chiến
lược sản phẩm hàng hóa càng trở nên quan trọng. Chiến lược sản phẩm không những chỉ
bảo đảm cho hoạt động sản xuất kinh doanh đúng hướng mà còn gắn bó chặt chẽ giữa
các khâu của quá trình tái sản xuất mở rộng của doanh nghiệp nhằm thực hiện các mục
tiêu của chiến lược tiêu thụ sản phẩm.
Nội dung của chiến lược tiêu thụ sản phẩm .
+ Chiến lược thiết lập chủng loại giữ vị trí vốn có của sản phẩm trên thị trường bằng
việc bảo vệ uy tín mà doanh nghiệp đạt được. Chiến lược này đòi hỏi doanh nghiệp phải
nhận thức được các sản phẩm hiện có tương ứng với khúc thị trường nào và sản phẩm
có phù hợp với sự đòi hỏi của khúc thị trường đó hay không. Nếu đáp ứng được thiết lập
chủng loại đó, giữ vị trí vốn có của sản phẩm đó trên khúc thị trường hiên có mà không
thay đổi bất kỳ yếu tố nào có liên quan đến sản phẩm.
+ Chiến lược hoàn thiện sản phẩm, cải tiến các thông số của chất lượng sản phẩm theo
định kỳ, chiến lược này được thực hiện theo các phương án sau.
• Cải tiến về chất lượng nhằm làm tăng độ tin cậy, độ bền và các tính năng khác
của sản phẩm.
• Cải tiến kiểu dáng sản phẩm bằng cách thay đổi mầu sắc, thiết kế bao bì, kết
cấu của sản phẩm.
• Cải tiến các tính năng của sản phẩm, bổ sung thêm tính năng sử dụng của sản
phẩm.
+ Chiến lược phát triển sản phẩm mới: phát triển sản phẩm mới ngày càng trở thành yêu
cầu tất yếu khách quan trong hoạt động sản xuất kinh doanh của mọi doanh nghiệp. Yêu
cầu phải nghiên cứu sản phẩm mới xuất phát từ sự phát triển của khoa học kĩ thuật và
7/29
cạnh tranh trên thị trường có xu hướng ngả sang cạnh tranh về chất lượng và dịch vụ,
đòi hỏi các doanh nghiệp phải cải tiến, hoàn thiện các sản phẩm hiện có thì mới giành
được lợi thế trong cạnh tranh. Mặt khác, mỗi loại sản phẩm có chu kì sống nhất định,
khi sản phẩm cũ đã bước sang giai đoạn suy thoái thì doanh nghiệp phải có sản phẩm
mới thay thế nhằm đản bảo tính liên tục của qua trình sản xuất kinh doanh.
Chiến lược giá cả.
Khái niệm.
Chiến lược giá là đưa ra các loại giá cho một loại sản phẩm hàng hóa, tương ứng với thị
trường, tương ứng với từng thời kỳ để bán được nhiều nhất và lãi cao nhất.
Mức giá doanh nghiệp đưa ra phải đảm bảo tối đa hóa lợi nhuận nhưng lại phù hợp với
người tiêu dùng và người tiêu dùng chấp nhận được. Mức giá đó sẽ thay đổi theo chu
kỳ sống của sản phẩm vì thế doanh nghiệp cần nhận thức một cách chính xác để có thay
đổi hợp lí nhất.
Vai trò của chiến lược giá.
Mặc dù trên thi trường hiện nay, cạnh tranh bằng giá đã nhường vị trí cho cạnh tranh
bằng chất lượng và dịch vụ nhưng giá cả vẫn có vai trò quan trọng nhất định. Giá cả vẫn
còn quan trọng trong việc xác định lợi ích kinh tế giữa người bán và người mua. Nếu
chiến lược sản phẩm định hướng cho việc sản xuất thì chiến lược giá cả định hướng cho
việc tiêu thụ.
Chiến lược giá có mối quan hệ mật thiết với chiến lược sản phẩm hàng hóa. Chiến lược
sản phẩm dù rất quan trọng và đã được xây dựng một cách chu đáo sẽ không đem lại
hiêụ quả cao nếu không có chiến lược giá hoặc chiến lược giá mang nhiều thiếu sót.
Các doanh nghiệp mới thành lập hay thâm nhập thị trường mới thường áp dụng chiến
lược giá cả để thu hút khách hàng về phía mình để chiếm lĩnh một phần thị trường. Đối
với thị trường Việt Nam, thu nhập dân cư còn thấp, yêu cầu vè chất lượng sản phẩm
chưa cao thì cạnh tranh bằng chiến lược giá vẫn còn là vũ khí lợi hại. Tuy nhiên không
nên quá lạm dụng vào việc cạnh tranh bằng giá vì nó có thể phản tác dụng gây tổn hại
cho doanh nghiệp.
Phân loại chiến lược giá.
Doanh nghiệp có thể lựa chọn các chiến lược giá khác nhau để thực hiện mục tiêu của
mình.
8/29
• Chiến lược ổn định giá: là chiến duy trì bằng được mức giá hiện đang bán.
chiến lược này áp dụng khi giá bán đã đáp ứng được mục tiêu tối đa hoá lợi
nhuận, tối đa hóa doanh thu của doanh nghiệp.
• Chiến lược tăng giá: là chiến lược đưa giá lên cao hơn các mức giá đang bán
của doanh nghiệp. Chiến lược này được áp dụng khi hàng hóa của doanh
nghiệp đang được ưa chuộng về chất lượng kiểu dáng và các dịch vụ bán hàng
của doanh nghiệp.
• Chiến lược giảm giá: là chiến lược hạ thấp các mức giá đang bán của doanh
nghiệp. Chiến lược này được áp dụng khi xuất hiện dấu hiệu giảm cầu hay có
sự xuất hiện của đối thủ cạnh tranh.
Nội dung của chiến lược giá.
Căn cứ vào mục tiêu của định giá có thể sử dụng hai chiến lược sau:
Chiến lược giá hướng vào doanh nghiệp: có nghĩa là hướng vào mục tiêu nội tại của
doanh nghiệp, vào chi phí và lợi nhuận.
Chiến lược giá hướng ra thị trường : chiến lược này dựa trên 2 yếu tố quan trọng tiềm
năng thị trường về nhu cầu, sự giãn nở nhu cầu cạnh tranh, về giá sản phẩm hàng hóa
cạnh tranh, so sánh các chi phí dịch vụ của các doanh nghiệp, lấy giá thị trường làm
chuẩn để định giá hướng ra thị trường.
Philip Kotler đã đưa ra các chiến lược hình thành giá như sau:
Xác định giá cho hàng hóa mới bao gồm xác định giá cho sản phẩm mới thực sự thì có
thể chọn hoặc là chiến lược “Hốt phần ngon” hoặc là chiến lược bám chắc thị trường.
Chiến lược “hốt phần ngon’’: là chiến lược định giá cao do tạo ra sản phẩm mới được
cấp bằng sáng chế.
Chiến lược bám chắc thị trường: là chiến lược định giá thấp cho sản phẩm mới nhằm
thu nhiều người mua và giành được thị phần.
Định giá theo nguyên tắc địa lý là chiến lược định giá khác nhau cho người tiêu dùng ở
những vùng địa lý khác nhau.
Xác định giá có chiết khấu bù trừ để thưởng cho người tiêu dùng vì những hành động
nhất định như thanh toán sớm các hoá đơn, mua một khối lượng lớn hàng hóa hay mua
trái mùa vụ.
Xác định giá khuyến khích tiêu thụ trong những hoàn cảnh nhất định, các công ty, tạm
thời định cho sản phẩm của mình những giá thấp hơn giá ghi trong bảng, và đoi khi thậm
chí còn thấp hơn cả giá thành.
9/29
Chiến lược phân phối.
Khái niệm.
Chiến lược phân phối sản phẩm dịch vụ là phương hướng thể hiện cách mà doanh nghiệp
cung ứng các sản phẩm và dịch vụ cho khách hàngcủa mình trên thị trường lựa chọn.
Vai trò của chiến lược phân phối.
Chiến lược phân phối có vai trò quan trọng trong hoạt động sản xuất kinh doanh của
mỗi doanh nghiệp. Mỗi chiến lược phân phối hợp lý sẽ làm cho quá trình kinh doanh an
toàn, tăng cường khả năng liên kết trong kinh doanh, giảm được sự cạnh tranh và làm
cho quá trình lưu thông hàng hóa nhanh chóng.
Chiến lược phân phối có liên hệ chặt chẽ với chiến lược sản phẩm và chiến lược giá cả,
một mặt nó chịu ảnh hưởng của chiến lược sản phẩm và chiến lược giá cả. Nhưng mặt
khác nó cũng tác động trở lại đối với việc xây dựng và triển khai các chiến lược trên.
Phân loại chiến lược phân phối.
Chiến lược phân phối có thể được phân thành nhiều loại khác nhau:
* Căn cứ vào sự tiếp xúc giữa doanh nghiệp và người tiêu dùng cuối cùng
Chiến lược phân phối trực tiếp: là chiến lược phân phối mà người sản xuất bán thắng
sản phẩm của mình cho người tiêu dùng cuối cùng không qua bất cứ một khâu trung
gian nào. Chiến lược này làm cho người sản xuất kinh doanh biết rõ nhu cầu của thị
trường, tạo cơ hội thuận lợi cho người sản xuất nâng cao uy tín và ứng phó kịp thời sự
thay đổi có thể có của thị trường, tuy nhiên nó làm cho tốc độ tiêu thụ hàng hóa chậm
lại.
Chiến lược phân phối gián tiếp: là chiến lược được tiến hành thông qua một số khâu
trung gian.
* Căn cứ vào hình thức bán hàng:
Chiến lược phân phối theo hình thức bán lẻ: là chiến lược phân phối hàng hóa dịch vụ
cho người tiêu dùng cuối cùng. Chiến lược này do người sản xuất hoặc người đại lý bán
lẻ thực hiện.
Chiến lược phân phối theo hình thức bán buôn: là chiến lược phân phối hàng hóa dịch
vụ cho người mua để bán lại.
10/29
Nội dung của chiến lược phân phối.
Xác định mục tiêu của chiến lược phân phối: chiến lược phân phối có nhiều mục tiêu
khác nhau nhưng có bốn mục tiêu chính là; bảo đảm phân phối nhanh chóng; tiêu thụ
được khối lượng lớn sản phẩm dịch vụ;đảm bảo chất lượng hàng hóa; chi phí thấp. Tùy
thuộc vào mục tiêu tổng quát trong chiến lược tiêu thụ mà doanh nghiệp có thể lựa chọn
một trong những nục tiêu chủ yếu là cơ sở xây dựng chiến lược phân phối.
Lựa chọn căn cứ xây dựng chiến lược phân phối:
Căn cứ vào đặc điểm hàng hóa có thể chia thành ba nhóm: những hàng hóa khó bảo
quản rễ hư hỏng đòi hỏi phải tiếp cận thị trường trực tiếp; những hàng hóa đơn chiếc;
những hàng hóa có kỹ thuật đặc biệt cần phả bán trực tiếp; những hàng hóa muốn bán
với khối lượng lớn phải qua các khâu trung gian.
Căn cứ vào đặc điểm khách hàng: khách hàng đông hay lẻ tẻ, tập chung hay phân tán,
mức độ ổn định trong tiêu dùng.
Xác định kênh phân phối: nội dung quan trọng của chiến lược phân phối là phải chọn
kênh phân phối phù hợp với đặc điểm của sản phẩm và đặc điểm khách hàng, nhờ đó
doanh nghiệp đạt được mục tiêu của chiến lược phân phối.
Chiến lược giao tiếp khuếch trương.
Chiến lược giao tiếp khuếch trương là chiến lược sử dụng kỹ thuật yểm trợ bán hàng
nhằm mục đích thúc đẩy hoạt động tiêu thụ. Trong nền kinh tế chỉ huy, người sản xuất
không cần quan tâm xây dựng chiến lược giao tiếp khuếch trương, bởi lẽ họ là người
giao nộp chứ không phải người bán. Trong nền kinh tế thị trường, mục tiêu của người
bán là lợi nhuận, do vậy phải thu hút khách hàng, thực hiện các hoạt động yểm trợ bán
hàng. Vì vậy, vai trò của chiến lược giao tiếp khuếch trương trở nên cực kỳ quan trọng
trong chiến lược tiêu thụ. Chiến lược giao tiếp khuếch trương là công cụ hữu hiệu hỗ trợ
cho chiến lược sản phẩm, giá cả, phân phối.
Chiến lược giao tiếp khuếch trương bào gồm những chiến lược sau:
Chiến lược quảng cáo: là chiến lược sử dụng các phượng tiện thông tin để truyền tin
về sản phẩm hàng hóa hoặc cho người trung gian, hoặc cho người tiêu dùng cuối cùng
trong một khoảng thời gian và không gian nhất định.
Chiến lược xúc tiến bán hàng : là chiến lược sử dụng những kỹ thuật đặc thù nhằm gây
ra một sự gia tăng nhanh chóng nhưng tạm thời trong doanh số bán bằng việc cung cấp
một lợi ích ngoại lệ cho người mua. Xúc tiến bao gồm những kỹ thuật như; bán hàng có
thưởng, khuyến mại, giảm giá tức thì, giảm giá nhân ngày lễ, khai trương…
11/29
Chiến lược yểm trợ bán hàng: là chiến lược hoạt động của người bán hàng nhằm gắn bó
chặt chẽ với người mua hoặc gắn những ngưoừi sản xuất kinh doanh với nhau thông qua
việc sử dụng hoạt động của hiệp hội kinh doanh, cửa hàng giới thiệu sản phẩm, hội nghị
khách hàng, hội chợ…
12/29
Sự cần thiết phải đẩy mạnh hoạt động tiêu
thụ sản phẩm của các doanh nghiệp
Tiêu thụ sản phẩm đảm bảo tăng doanh số và lợi nhuận cho doanh nghiệp.
Đây là yêu cầu biểu hiện mặt kinh tế và biểu hiện mặt lượng kết quả công tác bán hàng
của doanh nghiệp. Lợi nhuận cao là mục tiêu trực tiếp của doanh nghiệp, giưa tăng
doanh số và tăng lợi nhuận không phải luôn luôn đồng hướng . Nói chung tốc độ tăng
của lợi nhuận và doanh số không luôn luôn cùng tỷ lệ. Thật vậy doanh số không chỉ phụ
thuộc vào khối lượng tiêu thụ mà còn phụ thuộc vào chính sách bán hàng và giá thành
sản phẩm hàng hóa. Trong điều kiện cạnh tranh khốc liệt của thị trường, cái mà doanh
nghiệp cần, quan tâm hàng đầu không phải là mức lợi nhuận tối đa trong một đơn vị sản
phẩm mà là tổng lợi nhuận. Mặt khác doanh số và lợi nhuận của doanh nghiệp còn phụ
thuộc vào cơ cấu sản phẩm hàng hóa nó tiêu thụ, vào các chính sách kinh tế vỉ mô của
nhà nước.
Tiêu thụ hàng hóa đảm bảo phát triển thị phần của doanh nghiệp.
Tiêu thụ hàng hóa nhằm mở rộng thị trường, khám phá những thị trường mới, thị trường
tiềm năng. Mức độ thực hiện yêu cầu này còn phụ thuộc vào nhiều nhân tố, trong đó tập
trung nhất là doanh nghiệp phải có khả năng cạnh tranh trên thị trường. Thật vậy, để tiêu
thụ ngày càng nhiều sản phẩm hàng hóa trên thị trường, mở rộng thị trường cho mình
và loại bỏ đối thủ cạnh tranh thì doanh nghiệp cần phải có những lợi thế so với đối thủ
cạnh tranh của mình: Lợi thế chi phí, lợi thế kinh nghiệm, lợi thế về quy mô, mẫu mã ,
kiểu dáng, giá bán. Khi doanh nghiệp đã có những lợi thế đó thì cần phải phát huy một
cách tối đa trước đối thủ cạnh tranh và không ngừng hạn chế hay đi trước lợi thế cạnh
tranh của đối thủ, có như vậy mới ngày càng tiêu thụ được nhiều sản phẩm hàng hóa cuả
doanh nghiệp. Từ đó làm tăng thị phần của doanh nghiệp trên thi trường.
Tiêu thụ hàng hóa đảm bảo tăng tài sản vô hình cho doanh nghiệp.
Tài sản vô hình của doanh nghiệp ở đây tập trung vào việc làm tăng uy tín, tăng niềm
tin đích thực của người tiêu dùng khi tiêu dùng sản phẩm hàng hóa của doanh nghiệp.
Điều này thể hiện ở nhiều yếu tố trong đó biểu hiện trực tiếp ở hoạt động tiêu thụ của
doanh nghiệp và phù hợp của sản phẩm hàng hóa mà doanh nghiệp bán ra với yêu cầu
của khách hàng: gồm mạng lưới bán, chất lượng sản phẩm, thái độ bán hàng, cách thức
bán hàng, trách nhiệm đến đâu khi hàng hóa đã được bán. Khách hàng sẽ có thiện cảm
hay ác cảm đối với sản phẩm của doanh nghiệp, mỗi khi nhắc tới doanh nghiệp. Xét về
lâu dài, chính nhờ xây dựng phát triển tài sản vô hình đã tạo nên cơ sở nền tảng vững
chắc cho sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp.
13/29
Tiêu thụ sản phẩm đảm bảo dịch vụ đối với khách hàng.
Khi tiêu thụ song hàng hóa, không có nghĩa doanh nghiệp hết trách nhiệm đối với hàng
hóa đó. Việc tiêu thụ hàng hóa kế tiếp có thuận lợi hay không phụ thuộc vào việc thực
hiện các dịch vụ đối với khách hàng đến đâu. doanh nghiệp phục vụ khách hàng đảm
bảo về chất lượng hàng hóa chủng loại, số lượng, phong cách phục vụ và ngày càng đáp
ứng tốt hơn cho những yêu cầu của khách hàng đối với sản phẩm hàng hóa của doanh
nghiệp.
Khi hàng hóa được tiêu thụ nhiều có nghĩa là doanh nghiệp đã thực hiện tốt dịch vụ đối
với khách hàng, tạo niềm tin đối với khách
14/29
Các nhân tố ảnh hưởng tới tiêu thụ sản
phẩm của doanh nghiệp
Các nhân tố bên trong doanh nghiệp.
Giá cả hàng hóa.
Giá cả hàng hóa là một trong những nhân tố chủ yếu tác động tới hoạt động tiêu thụ –
Giá cả hàng hóa có thể kích thích hay hạn chế cung cầu trên thị trường và do đó ảnh
hưởng đến tiêu thụ. Xác định giá đúng sẽ thu hút được khách hàng đảm bảo khả năng
tiêu thụ thu được lợi nhuận cao nhất hay tránh được ứ đọng, hạn chế thua lỗ. Tuỳ từng
môi trường, từng đoạn thị trường mà các doanh nghiệp nên đặt giá cao hay thấp để có
thể thu hút được nhiều khách hàng, và do đó sẽ bán được nhiều hàng hóa, tăng doanh số
bán hàng cho doanh nghiệp mình. Hơn nữa giá cả phải được điều chỉnh linh hoạt trong
từng giai đoạn kinh doanh, từng thời kỳ phát triển hay chu kỳ kinh doanh để nhằm thu
hút khách hàng và kích thích sự tiêu dùng của họ, làm tăng tốc độ tiêu thụ sản phẩm
hàng hóa của doanh nghiệp.
Giá cả ảnh hưởng mạnh tới hoạt động tiêu thụ do vậy nó cũng được sử dụng như một
vũ khí trong cạnh tranh nhất là trong đIều kiện thu nhập của người dân còn thấp. Tuy
nhiên trong cạnh tranh nếu lạm dụng vũ khí gía cả nhiều trường hợp “ gậy ông sẽ đập
lưng ông” không những không thúc đẩy được tiêu thụ mà còn bị thiệt hại. Do đó phải
hết sức thận trọng trong việc cạnh tranh bằng giá, việc định hướng, xây dựng kế hoạch
đúng đắn về giá cả là một đIều kiện quan trọng cho việc tăng tốc độ tiêu thụ sản phẩm
hàng hóa của các doanh nghiệp hiện nay.
Chất lượng sản phẩm
Khi nói đến chất lượng sản phẩm hàng hóa là nói đến những đặc tính nội tại của sản
phẩm được xác định bằng những thông số có thể đo được hoặc so sánh được phù hợp
với điều kiện hiện tại và thoả mãn được những nhu cầu hiện tại nhất định của xã hội.
Người tiêu dùng khi mua hàng trước hết nghĩ tới khả năng hàng hóa thoả mãn nhu cầu
của họ, tới chất lượng mà nó có. Trong điều kiện hiện tại chất lượng là yếu tố quan trọng
bậc nhất mà các doanh nghiệp lớn thường sử dụng trong cạnh tranh vì nó đem lại khả
năng “chiến thắng vững chắc”. Đây cũng là con đường mà doanh nghiệp thu hút khách
hàng và tạo dựng, giữ gìn chữ tín tốt nhất. Bất kỳ một sản phẩm hàng hóa nào được chào
bán trên thị trường đều chứa đựng một giá trị sử dụng nhất định, các sản phẩm đồng loại
nhưng được sản xuất từ các doanh nghiệp khác nhau sẽ có chất lượng khác nhau và sản
phẩm của doanh nghiệp nào có chất lượng cao hơn sẽ thu hút được nhiều khách hàng về
15/29
mình. Khi khách hàng biết đến chất lượng sản phảm hàng hóa của doanh nghiệp và tin
vào chất lượng thì họ sẽ mua hàng của doanh nghiệp. Điều đó cho thấy doanh nghiệp
không chỉ bán được hàng duy trì được thị trường truyền thống mà còn mở rộng được thị
trường mới, củng cố thêm vị trí của doanh nghiệp trên thị trường.
Mục tiêu cao nhất của doanh nghiệp là mục tiêu lợi nhuận nhưng để đạt được lợi nhuận
thì doanh nghiệp phải tiêu thụ được hàng hóa và thu tiền về tức là được khách hàng chấp
nhận. Muốn vậy ngoài yếu tố giá cả doanh nghiệp phải chú trọng tới yếu tố chất lượng,
chính chất lượng sản phẩm có thể tạo nên vị thế cững chắc của sản phẩm trên thị trường.
Đồng thời chất lượng sẽ thu hút khách hàng lâu dài, bền vững và làm cho khách hàng
trung thành với sản phẩm hàng hóa của doanh nghiệp.
Cơ cấu mặt hàng.
Cơ cấu mặt hàng có ảnh hưởng tới tốc độ tiêu thụ hàng hóa của doanh nghiệp bởi vì nhu
cầu tiêu dùng trên thị rất đa dạng, phong phú, như vậy để đáp ứng nhu cầu hơn nữa và
tăng tốc độ tiêu thụ của đoanh nghiệp cần có cơ cấu mặt hàng hợp lí, đủ chủng loại. Hơn
nữa, một cơ cấu mặt hàng hợp lí sẽ dễ dàng đáp ứng sự thay đổi nhanh của nhu cầu thị
trường và giảm rủi ro cho doanh nghiệp.
Các biện pháp quảng cáo.
Trong điều kiện cạnh tranh gay gắt hiện nay quảng cáo đóng vai trò rất lớn trong việc
thúc đẩy tiêu thụ sản phẩm hàng hóa. Quảng cáo nhằm giới thiệu sản phẩm tới người
tiêu dùng và kích thích nhu cầu của họ.
Do quảng cáo là rất tốn kém vì thế để đảm bảo quảng cáo có hiệu quả cần thuê công ty
quảng cáo để soạn thảo chương trình quảng cáo, thuê chuyên gia phân tích, kích thích
tiêu thụ để xây dựng các chương trình quảng cáo, khuyến mãi để tạo hình ảnh của các
doanh nghiệp. Doanh nghiệp có thể quảng cáo trên báo chí, truyền hình, truyền thanh
dùng thư chào hàng .v.v để quảng cáo sản phẩm của mình cho phù hợp nhất.
Thực tế cho thấy có nhiều doanh nghiệp nhờ quảng cáo tốt đã tăng nhanh doanh số bán
và có những doanh nghiệp chi rất nhiều tiền cho quảng cáo nhưng nội dung quảng cáo
không hợp lí dẫn đến tình trạng người tiêu dùng không những không mua sản phẩm mà
họ còn phản đối quyết liệt. Vì vậy khi xây dựng chương trình quảng cáo doanh nghiệp
phải hết sức thận trọng để hoạt động quảng cáo thúc đẩy nhanh mức tiêu thụ của doanh
nghiệp.
Mạng kênh phân phối và dịch vụ sau bán hàng.
Tổ chức tốt kênh phân phối và dịch vụ sau bán sẽ làm tăng tốc độ tiêu thụ sản phẩm
hàng hóa cuả các doanh nghiệp, kênh phân phối bao gồm mạng lưới bán buôn, bán lẻ,
16/29
đại lý được tổ chức một cách hợp lý khoa học sẽ chiếm lĩnh được không gian thị trường,
tạo điều kiện thuận cho người tiêu dùng và kích thích hơn nữa nhu cầu của họ. Doanh
nghiệp thường sử dụng ba loại kênh tiêu thụ sau:
Kênh cực ngắn: đây là kênh phân phối trực tiếp giữa doanh nghiệp và người tiêu dùng
không qua trung gian, doanh nghiệp tự tổ chức tiêu thụ qua các cửa hàng bán lẻ của
mình.
Kênh ngắn: là kênh trong đó doanh nghiệp sử dụng một người trung gian là người bán
lẻ.
Kênh dài: là kênh có từ hai người trung gian trở nên trong phân phối.
Thiết lập mạng lưới kênh tiêu thụ cần căn cứ vào chiến lược tiêu thụ mà doanh nghiệp
đang theo đuổi, vào nguồn lực của doanh nghiệp, vào đặc tính của khách hàng, thói quen
tiêu dùng và các kênh của đối thủ cạnh tranh.
Để làm tốt việc phân phối doanh nghiệp cần đảm bảo văn minh lịch sự, đúng hẹn trong
giao dịch, tạo mọi điều kiện có lợi nhất cho khách hàng tới mua hàng. hơn nữa phải linh
hoạt mềm dẻo trong phương thức thanh toán, giao nhận hàng hóa đảm bảo hai bên cùng
có lợi tránh tình trạng gây khó khăn cho khách hàng. ngoài ra những dịch vụ sau bán
hàng cũng góp phần đảm bảo cho khách hàng khi mua sắm hàng hóa, làm cho khách
hàng có niềm tin và yên tâm hơn khi quyết định tiêu dùng sảncủa doanh nghiệp và do
vậy hàng hóa bán sẽ ổn định và nhiều hơn làm tăng việc tiêu thụ sản phẩm của doanh
nghiệp.
Các nhân tố bên ngoài doanh nghiệp.
Các yếu tố kinh tế.
Thu nhập bình quân đầu người (GNP): Tác động lớn tới nhu cầu tiêu dùng, GNP càng
tăng cao sẽ kéo theo sự tăng lên về nhu cầu, về số lượng sản phẩm hàng hóa, dịch vụ,
tăng lên về chủng loại, chất lượng, thị hiếu.v.v.. Làm cho tốc độ tiêu thụ hàng hóa của
các doanh nghiệp tăng lên.
Yêú tố lạm phát: Lạm phát tăng làm tăng giá cả của yếu tố đầu vào, làm tăng giá bán
hạn chế mức tiêu thụ.
Lãi suất cho vay của ngân hàng: Lãi suất cho vay tăng làm chi phí kinh doanh tăng dẫn
đến giá bán tăng và tiêu thụ giảm.
Chính sách thuế: Thuế tăng làm giá thành hàng hóa tăng, tiêu thụ giảm.
17/29
Số lượng các đối thủ cạnh tranh.
Kinh doanh trên thi trường là sự cạnh tranh khốc liệt giữa các doanh nghiệp với nhau.
Tốc độ tiêu thụ hàng hóa một phần phụ thuộc vào quy mô, số lượng đối thủ cạnh tranh.
Nhân tố này có ảnh hưởng trực tiếp tới tốc độ tiêu thụ sản phẩm hàng hóa của doanh
nghiệp. Ngoàira tốc độ tiêu thụ còn phụ thuộc rất lớn vào tỷ lệ thị phần của doanh nghiểp
trên thị trường.
Thị hiếu của người tiêu dùng.
Sản phẩm sản xuất ra phải phù hợp với thị hiếu của người tiêu dùng, có như vậy mới
thoả mãn được nhu cầu của khách hàng mới mong tăng tốc độ tiêu thụ. Đây cũng là nhân
tố ảnh hưởng không nhỏ tới lượng cầu trên thị trường. Người tiêu dùng sẽ mua nhiều
hơn nếu hàng hóa hợp với thị hiếu và thiết yếu đối với họ.
18/29
Tổ chức lao động trong doanh nghiệp
Khái niệm về tổ chức lao động
Quá trình lao động là một hiện tượng kinh tế xã hội và vì thế, nó luôn luôn được xem
xét trên hai mặt: mặt vật chất và mặt xã hội. Về mặt vật chất, quá trình lao động dưới
bất kỳ hình thái kinh tế -xã hội nào muốn tiến hành được đều phải bao gồm ba yếu tố:
bản thân lao động, đối tượng lao động và công cụ lao động. Quá trình lao động chính là
sự kết hợp tác dụng giữa ba yếu tố đó, trong đó con người sử dụng công cụ lao động để
tác động lên đối tượng lao động nhằm mục đích làm cho chúng thích ứng với những nhu
cầu của mình. Còn mặt xã hội của quá trình lao động được thể hiện ở sự phát sinh các
mối quan hệ qua lại giữa những người lao động với nhau trong lao động. Các mối quan
hệ đó làm hình thành tính chất tập thể, tính chất xã hội của lao động.
Dù quá trình lao động được diễn ra dưới những điều kiện kinh tế xã hội như thế nào thì
cũng phải tổ chức sự kết hợp tác động giữa các yếu tố cơ bản của quá trình lao động và
các mối quan hệ qua lại giữa những người lao động với nhau vào việc thực hiện mục
đích của quá trình đó, tức là phải tổ chức lao động.
Như vậy: Tổ chức lao động là một phạm trù gắn liền với lao động sống, với việc đảm
bảo sự hoạt động của sức lao động. Thực chất, tổ chức lao động trong phạm vi một tập
thể lao động nhất định là một hệ thống các biện pháp đảm bảo sự hoạt động lao động
của con người nhằm mục đích nâng cao năng suất lao động và sử dụng đầy đủ nhất các
tư liệu sản xuất.
Nghiên cứu tổ chức lao động cần phải tránh đồng nhất nó với tổ chức sản xuất. Xét về
mặt bản chất, khi phân biệt giữa tổ chức lao động và tổ chức sản xuất chúng khác nhau
ở chỗ: tổ chức lao động là một hệ thống các biện pháp để đảm bảo sự hoạt động có hiệu
quả của lao động sống. Còn tổ chức sản xuất là tổng thể các biện pháp nhằm sử dụng
đầy đủ nhất toàn bộ nguồn lao động và các điều kiện vật chất kỹ thuật của doanh nghiệp,
đảm bảo cho quá trình sản xuất được liên tục ổn định, nhịp nhàng và kinh tế. Đối tượng
của tổ chức sản xuất là cả ba yếu tố của quá trình sản xuất, còn đối tượng của tổ chức
lao động chỉ bao gồm lao động sống - yếu tố cơ bản nhất của quá trình sản xuất mà thôi.
Trong doanh nghiệp BCVT, tổ chức lao động là một bộ phận cấu thành không thể tách
rời của tổ chức sản xuất. Tổ chức lao động giữ vị trí quan trọng trong tổ chức sản xuất
là do vai trò quan trọng của con người trong quá trình sản xuất quyết định. Cơ sở kỹ
thuật của sản xuất dù hoàn thiện như thế nào thì quá trình sản xuất cũng không thể tiến
hành được nếu không sử dụng sức lao động, không có sự hoạt động có mục đích của
con người đưa cơ sở kỹ thuật đó vào hoạt động. Do đó, lao động có tổ chức của con
người trong bất kỳ doanh nghiệp nào cũng là điều kiện tất yếu của hoạt động sản xuất,
19/29
còn tổ chức lao động là một bộ phận cấu thành của tổ chức quá trình sản xuất. Tổ chức
lao động không chỉ cần thiết trong lĩnh vực sản xuất vật chất mà nó cũng cần thiết trong
trong các doanh nghiệp dịch vụ.
Do vậy, tổ chức lao động được hiểu là tổ chức quá trình hoạt động của con người trong
sự kết hợp giữa ba yếu tố cơ bản của quá trình lao động và các mối quan hệ qua lại giữa
những người lao động với nhau nhằm đạt được mục đích của quá trình đó.
Sự cần thiết của công tác tổ chức lao động
Dưới chế độ xã hội chủ nghĩa, lao động là nguồn chủ yếu để nâng cao tích luỹ, phát triển
kinh tế và củng cố chế độ. Quá trình sản xuất đồng thời là quá trình lao động để tạo ra
của cải vật chất cho xã hội. Quá trình sản xuất chỉ xảy ra khi có sự kết hợp giữa ba yếu
tố: tư liệu lao động, đối tượng lao động và sức lao động của con người, thiếu một trong
ba yếu tố đó quá trình sản xuất không thể tiến hành được.
Tư liệu lao động và đối tượng lao động chỉ tác động được với nhau và biến đổi thành sản
phẩm khi có sức lao động của con người tác động vào. Vì vậy, lao động của con người
luôn là yếu tố chính của quá trình sản xuất, chúng ta rút ra được tầm quan trọng của lao
động trong việc phát triển sản xuất như sau:
- Phát triển sản xuất nghĩa là phát triển ba yếu tố của quá trình sản xuất cả về quy mô,
chất lượng và trình độ sản xuất, do đó tất yếu phải phát triển lao động. Phát triển lao
động không có nghĩa đơn thuần là tăng số lượng lao động mà phải phát triển hợp lý về
cơ cấu ngành nghề, về số lượng và chất lượng lao động cho phù hợp với sự phát triển
của sản xuất, tức là phát triển lao động phải tiến hành đồng thời với cách mạng kỹ thuật.
- Cách mạng khoa học kỹ thuật là những thành tựu của khoa học kỹ thuật hiện đại, tiên
tiến, xác lập được những hình thức lao động hợp lý hơn trên quan điểm giảm nhẹ sức
lao động, cải thiện đối với sức khoẻ con người, điều kiện vệ sinh, môi trường, bảo hộ,
tâm sinh lý và thẩm mỹ trong lao động.
- Lao động là nguồn chủ yếu để nâng cao tích luỹ, phát triển kinh tế, cải thiện đời sống
vật chất và tinh thần của toàn xã hội loài người. Vì vậy tổ chức lao động hợp lý hay
không sẽ ảnh hưởng đến các vấn đề như quyết định trực tiếp đến năng suất lao động cao
hay thấp; ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng và giá thành sản phẩm; Đảm bảo thực hiện
tốt hay xấu các chỉ tiêu nhiệm vụ kế hoạch và các công tác khác; Quan hệ sản xuất trong
xí nghiệp có được hoàn thiện hay không, có ảnh hưởng đến việc thúc đẩy sản xuất phát
triển hay không vv…
20/29
Đặc điểm và yêu cầu của việc tổ chức lao động
Các đặc điểm cơ bản.
Để thực hiện nhiệm vụ sản xuất kinh doanh, trong quá trình tổ chức lao động, ngành bưu
chính viễn thông có một số đặc điểm sau:
- Là tổ chức kinh tế hoạt động đa ngành đa lĩnh vực nhưng lại có một chức năng chung
là phục vụ truyền đưa tin tức cho các ngành kinh tế quốc dân và nhân dân.
- Hoạt động bưu chính viễn thông vừa thực hiện nhiệm vụ sản xuất kinh doanh, vừa là
công cụ chuyên chính phục vụ mọi nhu cầu thông tin liên lạc của Đảng, Nhà nước, phục
vụ an ninh quốc phòng.
- Cơ sở thông tin trải rộng khắp nơi, liên kết thành một dây chuyền thống nhất trong
phạm vi cả nước, nhiều chức danh lao động phải thường xuyên lưu động trên đường. Do
khối lượng công việc không đồng đều giữa các giờ trong ngày, giữa các ngày trong tuần
, giữa các tuần trong tháng, giữa các tháng trong năm nên tổ chức lao động đòi hỏi phải
tổ chức chặt chẽ theo nguyên tắc giờ nhiều việc bố trí nhiều người, giờ ít việc ít người,
thực hiện điều độ lao động thay thế nghỉ bù theo ca kíp.
- Thời gian làm việc của ngành bưu chính viễn thông liên tục suốt ngày đêm 24/24 giờ
trong ngày và 365 ngày trong năm không kể mưa, nắng, gió, bão , tết ,lễ.
Yêu cầu của việc tổ chức lao động
Do tính chất sản phẩm và yêu cầu phục vụ, tổ chức lao động ngành bưu chính viễn thông
phải đảm bảo yêu cầu sau:
-Lãnh đạo,chỉ đạo sản xuất phải tập trung, mọi lao động phải chấp hành kỷ luật nghiêm,
tự giác trong làm việc.
- Tổ chức lao động phải khoa học, hợp lý và phải có sự hợp đồng chặt chẽ giữa các đơn
vị, bộ phận. Chấp hành nghiêm chỉnh các quy trình, thể lệ khai thác thiết bị và nghiệp
vụ bưu chính viễn thông.
- Trong quản lý phải thực hiện nghiêm chỉnh Đảng lãnh đạo, cá nhân thủ trưởng phụ
trách, phát huy tốt chức năng các bộ phận tham mưu và tinh thần làm chủ tập thể của
cán bộ công nhân viên trong đơn vị.
- Thường xuyên phát động các phong trào thi đua, phát minh sáng kiến cải tiến kỹ thuật,
áp dụng rộng rãi các kinh nghiệm tiên tiến, học tập và noi gương người tốt, việc tốt trong
ngành và các đơn vị.
21/29
Các nguyên tắc cơ bản của tổ chức lao động.
Lao động là cơ sở tồn tại cho tất cả các hình thái kinh tế xã hội. Tổ chức lao động thể
hiện quan hệ giữa con người với con người trong quá trình sản xuất. Thực chất của tổ
chức lao động là bố trí và phân phối sức lao động cho quá trình sản xuất.
Bất cứ một Doanh nghiệp nào trong đó có các doanh nghiệp bưu chính viễn thông khi
tổ chức lao động của mình đều phải thực hiện các nguyên tắc sau:
- Phải đảm bảo không ngừng nâng cao năng suất lao động. Tăng năng suất lao động trên
cơ sở ngày càng nâng cao trình độ kỹ thuật sản xuất, áp dụng các phương pháp lao động
tiên tiến, tiến tới việc cơ giới hoá và tự động hoá quá trình sản xuất.
- Phải quan tâm đến lợi ích vật chất và tinh thần của người lao động. Đảm bảo các quyền
lợi chính đáng của họ, khi họ hoàn thành tốt các nhiệm vụ và yêu cầu sản xuất. Thực
hiện nguyên tắc phân phối theo năng suất và kết quả lao động của mỗi người. Nói cách
khác làm nhiều hưởng nhiều, làm ít hưởng ít, không làm không hưởng .
- Có kế hoạch bồi dưỡng, đào tạo, tổ chức và phân phối hợp lý lao động trong ngành
cũng như đối với từng đơn vị, bộ phận... Luôn quan tâm đến việc giảm nhẹ lao động
nặng nhọc, cải thiện điều kiện làm việc cho họ. Thường xuyên chăm lo bồi dưỡng sức
khoẻ cho người lao động.
- Tổ chức phát động phong trào thi đua lao động giỏi trong từng đơn vị, bộ phận và toàn
ngành. Giỏi không chỉ về nghiệp vụ mà còn về thái độ, tác phong phục vụ .
Trong doanh nghiệp Bưu chính – Viễn thông nhờ việc thực hiện các nguyên tắc tổ chức
lao động khoa học, sẽ góp phần hợp lý hoá phân công và hợp tác giữa các đơn vị, bộ
phận trong quá trình sản xuất bưu chính viễn thông, hợp lý hoá quá trình tổ chức lao
động và điều hành sản xuất, cải tiến trang thiết bị sản xuất, cải thiện điều kiện làm việc
cho người lao động
22/29
Lao động trong doanh nghiệp bưu chính
viễn thông
Vai trò của người lao động trong doanh nghiệp.
Khái quát về lao động trong doanh nghiệp.
Lao động là hoạt động có mục đích của con người, là quá trình sức lao động tác động lên
đối tượng lao động thông qua tư liệu sản xuất nhằm tạo nên những vật phẩm, những sản
phẩm theo mong muốn. Vì vậy, lao động là điều kiện cơ bản và quan trọng nhất trong
sự sinh tồn và phát triển của xã hội loài người.
Quá trình lao động là quá trình kết hợp giữa 3 yếu tố của sản xuất, đó là: Sức lao động -
Đối tượng sản xuất - Tư liệu sản xuất.
- Mối quan hệ giữa con người với đối tượng sản xuất: ở đây cũng có những mối quan hệ
mật thiết tương tự như trên, đặc biệt là mối quan hệ giữa kỹ năng, hiệu suất lao động với
khối lượng chủng loại lao động yêu cầu và thời gian các đối tượng lao động được cung
cấp phù hợp với quy trình công nghệ và trình tự lao động. Mối quan hệ giữa người với
người trong lao động gồm: Quan hệ giữa lao động quản lý và lao động sản xuất. Quan
hệ giữa lao động công nghệ và lao động phụ trợ; Kết cấu từng loại lao động và số lượng
lao động trong kết cấu đó; Quan hệ hiệp tác giữa các loại lao động.
- Mối quan hệ giữa tư liệu sản xuất và sức lao động bao gồm: Yêu cầu của máy móc
thiết bị với trình độ kỹ năng của người lao động. Yêu cầu điều khiển và công suất thiết
bị với thể lực con người. Tính chất đặc điểm của thiết bị tác động về tâm sinh lý của
người lao động. Số lượng công cụ thiết bị so với số lượng lao động các loại.
- Mối quan hệ giữa người lao động với môi trường xung quanh: Mọi quá trình lao động
đều phải diễn ra trong một không gian nhất định, vì thế con người có mối quan hệ mật
thiết với môi trường xung quanh như: gió, nhiệt độ, thời tiết, địa hình,độ ồn.
Nghiên cứu, nắm được và hiểu rõ các mối quan hệ trên để đánh giá một cách chính xác
là vấn đề rất quan trọng, làm cho quá trình sản xuất đạt được hiệu quả tối ưu đồng thời
đem lại cho con người những lợi ích ngày càng tăng về vật chất và tinh thần, con người
ngày càng phát triển toàn diện và có phúc lợi ngày càng cao.
Vai trò của lao động trong doanh nghiệp.
Đối với bất kỳ một doanh nghiệp hay một tổ chức nào cũng được cấu thành nên bởi các
cá nhân.Trước sự thay đổi nhanh chóng của cơ chế thị trường, môi trường kinh doanh
23/29
cùng với xu thế tự do hoá thương mại, cạnh tranh ngày càng gay gắt, vai trò của yếu tố
con người - lao động trong các doanh nghiệp nói chung và doanh nghiệp Bưu chính –
Viễn thông nói riêng đã và đang được quan tâm theo đúng tầm quan trọng của nó. Vấn
đề đặt ra cho các doanh nghiệp là phải quản lý, khai thác và phát huy tiềm năng của đội
ngũ cán bộ, lao động của doanh nghiệp làm sao có hiệu quả, tạo nên được lợi thế cạnh
tranh so với các doanh nghiệp khác. Lực lượng lao động này phải là những người có
trình độ cao, được đào tạo cơ bản, có đạo đức, có văn hoá và đặc biệt là phải có phương
pháp làm việc có hiệu quả.
Đặc điểm của lao động trong ngành Bưu chính - Viễn thông.
Trong quá trình lao động Bưu chính – Viễn thông( BCVT), tham gia vào quá trình sản
xuất (truyền đưa tin tức từ người gửi đến người nhận) ngoài mạng lưới các phương tiện,
thiết bị thông tin, đối tượng lao động BCVT (tin tức) còn có các lao động BCVT. Do
đặc thù của ngành BCVT là một ngành dịch vụ nên lao động BCVT có những nét đặc
trưng riêng như sau:
- Thứ nhất : tổ chức hoạt động sản xuất của ngành BCVT theo mạng lưới thống nhất
dây truyền , để sản xuất ra một đơn vị sản phẩm cần có sự phối kết hợp của nhiều đơn
vị Bưu điện. Mỗi đơn vị làm những khâu công việc khác nhau nên lao động của các đơn
vị này phải có sự liên kết, phối hợp chặt chẽ, chuyên môn hoá.
- Thứ hai : tính chất của ngành BCVT là vừa kinh doanh vừa phục vụ, mạng lưới rộng
khắp trên quy mô toàn lãnh thổ (từ đồng bằng đến miền núi, hải đảo). Do đó, việc bố
trí lao động hợp lý luôn là một vấn đề khó khăn, cấp bách. Bố trí lao động BCVT Phải
đảm bảo nguyên tắc: bố trí đúng trình độ, đúng khả năng chuyên môn, tiết kiệm được
lao động, khuyến khích được người làm việc ở vùng sâu, vùng xa, tiết kiệm được chi
phí.
- Thứ ba : do tính đa dạng của công việc nên lao động BCVT cũng rất đa dạng, bao gồm:
Lao động khai thác (bưu, điện...), lao động kỹ thuật (tổng đài, dây máy..). Đối với các
Bưu điện trung tâm, lưu lượng nghiệp vụ lớn thì cần có cán bộ khai thác viên chuyên
trách. Với các Bưu điện huyện, khu vực có lưu lượng nghiệp vụ nhỏ cần có các cán bộ
khai thác viên toàn năng, một lao động có thể khai thác tổng hợp các loại dịch vụ.
Đứng trước sự tiến bộ vượt bậc của khoa học công nghệ hiện nay, các doanh nghiệp nói
chung và doanh nghiệp BCVT nói riêng không ngừng đào tạo và đào tạo lại cán bộ ,đầu
tư xây dựng, đổi mới trang thiết bị, công nghệ, phương thức quản lý... nhằm mục tiêu
nâng cao hiệu quả của quá trình lao động. Tuy nhiên, một vấn đề thực tế đặt ra là các
doanh nghiệp này có đầu tư trang thiết bị, công nghệ hiện đại đến đâu mà nguồn lao
động không được chú trọng đầu tư, phát triển đúng mức thì hiệu quả đem lại cũng hạn
chế .
24/29
Với doanh nghiệp BCVT, sản phẩm của ngành là sản phẩm vô hình, do vậy nhân tố
con người trong quá trình sản xuất, cung cấp dịch vụ sẽ làm tăng tính hữu hình của sản
phẩm, dịch vụ. Chính vì thế, yếu tố con người trong các doanh nghiệp này không những
quyết định đến số lượng mà còn quyết định đến chất lượng của sản phẩm dịch vụ.
Thành phần và cơ cấu lao động trong ngành BCVT
Lao động trong sản xuất kinh doanh bưu chính viễn thông là một bộ phận lao động cần
thiết của toàn bộ lao động xã hội. Đó là lao động trong khâu sản xuất thực hiện chức
năng sản xuất các dịch vụ bưu chính viễn thông. Lao động trong khâu sản xuất nói chung
và ở các doanh nghiệp bưu chính viễn thông nói riêng chia làm hai bộ phận chủ yếu và
thực hiện hai chức năng chính sau đây:
- Bộ phận lao động trực tiếp thực hiện các dịch vụ bưu chính viễn thông như lao động
làm các công việc bảo dưỡng, sửa chữa cáp, dây máy thuê bao, di chuyển lắp đặt máy
điện thoại thuê bao, lao động chuyển mạch, vi ba, khai thác bưu chính, phát hành báo
chí, giao dịch.... Hao phí lao động này nhập vào giá trị sản phẩm dịch vụ bưu chính viễn
thông. Bộ phận lao động này sáng tạo ra giá trị mới và tạo ra thu nhập quốc dân.
- Bộ phận phục vụ thực hiện các dịch vụ bưu chính viễn thông.
Ngoài hai bộ phận lao động thực hiện hai chức năng chủ yếu của quá trình sản xuất kinh
doanh, trong các doanh nghiệp bưu chính viễn thông còn có bộ phận lao động ngoài
kinh doanh. Bộ phận lao động này nhiều hay ít tuỳ thuộc vào quy mô và cơ chế quản lý.
Trong ngành BCVT, căn cứ vào chức năng, nội dung công việc của từng loại lao động
người ta chia lao động trong doanh nghiệp BCVT gồm có các loại sau:
Lao động công nghệ .
Tức là những lao động tham gia trực tiếp vào quá trình sản xuất kinh doanh (truyền đưa
tin tức) như lao động làm các công việc bảo dưỡng, sửa chữa cáp, dây máy thuê bao,
lao động chuyển mạch, vi ba, khai thác bưu chính, phát hành báo chí, giao dịch, 101,
108, 116, chuyển phát nhanh, điện hoa, công nhân vận chuyển bưu chính, phát thư, điện
báo...
Lao động quản lý .
Là những lao động làm các công việc tác động vào mối quan hệ giữa những người lao
động và giữa các tập thể lao động của đơn vị nhằm thực hiện quá trình sản xuất kinh
doanh. Lao động quản lý thực hiện các công việc theo chức năng: định hướng, điều hoà,
phối hợp, duy trì các mối quan hệ về tổ chức quản lý sản xuất kinh doanh trong và ngoài
ngành. Lao động quản lý được phân thành 3 loại:
25/29
- Viên chức lãnh đạo (Chủ tịch, phó chủ tịch, uỷ viên Hội đồng quản trị. Tổng giám
đốc, phó tổng giám đốc, kế toán trưởng. Trưởng, phó các ban tổng công ty. Giám đốc,
phó giám đốc, kế toán trưởng, trưởng phó phòng Bưu điện tỉnh, thành phố, công ty dọc.
Trưởng bưu điện quận, huyện, thị xã. Giám đốc, phó giám đốc các trung tâm, các công
ty trực thuộc bưu điện Tỉnh, Thành phố. Trưởng, phó xưởng, cán bộ chuyên trách Đảng,
đoàn thể).
- Viên chức chuyên môn kỹ thuật, nghiệp vụ (Chuyên viên, kỹ sư, thanh tra, cán sự, kỹ
thuật viên, kế toán viên, thủ quỹ, thủ kho, y bác sỹ, lưu trữ viên, kỹ thuật viên).
- Viên chức thừa hành, phục vụ (Nhân viên văn thư, lưu trữ, bảo vệ, kỹ thuật viên đánh
máy, điện nước, lái xe, nhân viên phục vụ).
Lao động bổ trợ
Là những lao động làm các công việc tác động vào quá trình chuẩn bị, quá trình đảm
bảo các điều kiện cho lao động công nghệ sản xuất, kiểm tra chất lượng sản phẩm ở
các công ty, Bưu điện quận, huyện như vận chuyển cung ứng vật tư trong dây chuyền
công nghệ, vệ sinh công nghiệp, kiểm soát chất lượng thông tin, bảo vệ kinh tế tại doanh
nghiệp, tích cước, thu cước, hướng dẫn chỉ đạo kỹ thuật nghiệp vụ. (Trưởng, phó đài,
đội trưởng, đội phó, phó Bưu điện huyện, thị. Trưởng bưu cục có doanh thu từ 1 tỷ đồng
trở lên, kiểm soát viên , nhân viên bảo vệ kinh tế kể cả người làm công việc tuần tra bảo
vệ các tuyến cáp, nhân viên vệ sinh công nghiệp, kỹ sư điện tử, tin học lập trình cung
cấp thông tin quản lý, tính cước; lái xe tải, nhân viên cung ứng vật tư. thủ kho phục vụ
sản xuất, kỹ sư làm việc tại các xưởng, trạm, tổ sửa chữa thiết bị kỹ thuật viên, công
nhân cơ điện, công nhân máy tính cập nhật, lưu trữ số liệu, tính cước).
Như vậy: Mỗi loại lao động nói trên có vai trò và nhiệm vụ nhất định trong quá trình sản
xuất kinh doanh của ngành bưu chính viễn thông. Lao động công nghệ, quản lý có vị trí
quyết định đến sự thành công hay thất bại trong sản xuất kinh doanh. Tuy nhiên cần có
sự đồng bộ về trình độ nghề nghiệp thì mới có thể đáp ứng kịp thời với mọi biến động
của thị trường.
26/29
Tham gia đóng góp
Tài liệu: Những vấn đề lí luận cơ bản về tiêu thụ sản phẩm của doanh nghiệp trong nền
kinh tế thị trường
Biên tập bởi: Đại Học Kinh Tế Quốc Dân
URL:
Giấy phép:
Module: Vị trí, vai trò của hoạt động tiêu thụ hàng hóa đối với doanh nghiệp
Các tác giả: Đại Học Kinh Tế Quốc Dân
URL:
Giấy phép:
Module: Nội dung chủ yếu của quá trình tiêu thụ sản phẩm tại doanh nghiệp
Các tác giả: Đại Học Kinh Tế Quốc Dân
URL:
Giấy phép:
Module: Sự cần thiết phải đẩy mạnh hoạt động tiêu thụ sản phẩm của các doanh nghiệp
Các tác giả: Đại Học Kinh Tế Quốc Dân
URL:
Giấy phép:
Module: Các nhân tố ảnh hưởng tới tiêu thụ sản phẩm của doanh nghiệp
Các tác giả: Đại Học Kinh Tế Quốc Dân
URL:
Giấy phép:
Module: Tổ chức lao động trong doanh nghiệp
Các tác giả: Đại Học Kinh Tế Quốc Dân
URL:
Giấy phép:
Module: Lao động trong doanh nghiệp bưu chính viễn thông
Các tác giả: Đại Học Kinh Tế Quốc Dân
27/29
URL:
Giấy phép:
28/29
Chương trình Thư viện Học liệu Mở Việt Nam
Chương trình Thư viện Học liệu Mở Việt Nam (Vietnam Open Educational Resources
– VOER) được hỗ trợ bởi Quỹ Việt Nam. Mục tiêu của chương trình là xây dựng kho
Tài nguyên giáo dục Mở miễn phí của người Việt và cho người Việt, có nội dung phong
phú. Các nội dung đểu tuân thủ Giấy phép Creative Commons Attribution (CC-by) 4.0
do đó các nội dung đều có thể được sử dụng, tái sử dụng và truy nhập miễn phí trước
hết trong trong môi trường giảng dạy, học tập và nghiên cứu sau đó cho toàn xã hội.
Với sự hỗ trợ của Quỹ Việt Nam, Thư viện Học liệu Mở Việt Nam (VOER) đã trở thành
một cổng thông tin chính cho các sinh viên và giảng viên trong và ngoài Việt Nam. Mỗi
ngày có hàng chục nghìn lượt truy cập VOER (www.voer.edu.vn) để nghiên cứu, học
tập và tải tài liệu giảng dạy về. Với hàng chục nghìn module kiến thức từ hàng nghìn
tác giả khác nhau đóng góp, Thư Viện Học liệu Mở Việt Nam là một kho tàng tài liệu
khổng lồ, nội dung phong phú phục vụ cho tất cả các nhu cầu học tập, nghiên cứu của
độc giả.
Nguồn tài liệu mở phong phú có trên VOER có được là do sự chia sẻ tự nguyện của các
tác giả trong và ngoài nước. Quá trình chia sẻ tài liệu trên VOER trở lên dễ dàng như
đếm 1, 2, 3 nhờ vào sức mạnh của nền tảng Hanoi Spring.
Hanoi Spring là một nền tảng công nghệ tiên tiến được thiết kế cho phép công chúng dễ
dàng chia sẻ tài liệu giảng dạy, học tập cũng như chủ động phát triển chương trình giảng
dạy dựa trên khái niệm về học liệu mở (OCW) và tài nguyên giáo dục mở (OER) . Khái
niệm chia sẻ tri thức có tính cách mạng đã được khởi xướng và phát triển tiên phong
bởi Đại học MIT và Đại học Rice Hoa Kỳ trong vòng một thập kỷ qua. Kể từ đó, phong
trào Tài nguyên Giáo dục Mở đã phát triển nhanh chóng, được UNESCO hỗ trợ và được
chấp nhận như một chương trình chính thức ở nhiều nước trên thế giới.
29/29
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- nhung_van_de_li_luan_co_ban_ve_tieu_thu_san_pham_cua_doanh_nghiep_trong_nen_kinh_te_thi_truong_6292.pdf