Với quá trình lịch sử phát triển lâu đời và những điểm ưu việt nhất định, nghiệp vụ bao thanh toán đã trở thành một sản phẩm quan trọng trọng trong hoạt động tài chính ngân hàng.Nghiệp vụ này không chỉ tạo nên lợi thế cạnh tranh cho các ngân hàng,đơn vị thanh toán mà còn nâng cao hình ảnh của quốc gia có nghiệp vụ này phat triển.
Việt Nam gia nhập WTO đồng nghĩa với việc phải mở cửa thị trường tài chính cho các tổ chức tài chính nước ngoài mang các sản phẩm mới ,công nghệ tiên tiến ,cách quản lí hiện đại vào cạnh tranh .Nghiệp vụ bao thanh toán đã phát triển ở nhiều nước trong khu vực và trên thế giới nhưng vẫn còn là thị trường mới ở Việt Nam, vì thế có sự chênh lệch trong cạnh tranh giữa ngân hàng thương mại Việt Nam và chi nhánh ngân hàng nước ngoài. Hiện nay, tuy rằng đã có nhiều ngân hàng thương mại trong nước thấy triển vọng của nghiệp vụ bao thanh toán và đã được Ngân Hàng Nhà Nước cấp giấy phép hoạt động. Tuy nhiên, để nghiệp vụ bao thanh toán thật sự phát triển thì đòi hỏi phải có chiến lược cụ thể trong từng giai đoạn và cần có sự đồng bộ giữa các bộ ngành liên quan.
Thách thức đặt ra cho các ngân hàng thương mại hiện nay là phải tìm ra hướng đi riêng phù hợp với thị trường tài chính Việt nam nhằm cung cấp cho các doanh nghiệp nghiệp vụ bao thanh toán tốt nhất.
20 trang |
Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 5638 | Lượt tải: 5
Bạn đang xem nội dung tài liệu Những vấn đề chung về bao thanh toán, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
t cứ một chủ thể nào của nền kinh tế. Mỗi một đơn vị bao thanh toán, với kinh nghiệm dày dạn trong rất nhiều lĩnh vực, sẽ là một cộng tác đắc lực hỗ trợ cho công việc làm ăn của khách hàng ngày càng thuận lợi và phát triển hơn.
Người bán có thể yên tâm vì các đơn vị bao thanh toán hoàn toàn có đủ năng lực chuyên môn, hệ thống mạng lưới rộng khắp cũng như là sự hiểu biết thông thái về từng lĩnh vực chuyên môn để có thể thực hiện tốt công việc của mình.
Ở một số tổ chức bao thanh toán chuyên nghiệp, người bán thậm chí có thể nhận được tiền ngay trong ngày đề nghị bao thanh toán. Nói một cách ngắn gọn, các tổ chức bao thanh toán giúp người bán lấp được lỗ hỗng thiếu hụt tiền mặt trong khoảng thời gian từ khi giao hàng đến khi được người mua thanh toán.
Thứ hai, điều kiện cấp tín dụng thương mại dễ dàng, hấp dẫn làm mãi lực tăng mạnh, từ đó nhà cung cấp nguyên vật liệu đầu vào càng sẵn sàng hỗ trợ nhiều hơn.
Là một đối tác tài chính, các tổ chức bao thanh toán sẽ đem lại cho người bán nguồn lực tài chính để mở rộng hoạt động sản xuất kinh doanh, tồn trữ thêm nhiều hàng tồn kho, cung ứng nhiều đơn hàng hay chỉ đơn giản là tìm kiếm các cơ hội làm ăn mới. Các tổ chức bao thanh toán luôn khẳng định mình sẽ luôn sát cánh với khách hàng, thấu hiểu mọi nhu cầu của họ, và thiết lập một chương trình hỗ trợ tài chính để giúp đỡ họ.
Rất nhiều chủ thể kinh tế rơi vào tình trạng càng phát triển kinh doanh lại càng thiếu tiền. Khi đó, bao thanh toán sẽ là phương tiện rất hiệu quả giúp họ vượt qua khó khăn. Người mua nào cũng mong muốn mua hàng từ một người bán đưa ra giá thấp nhất mà lại có nguồn hàng dồi dào nhất. Nhưng chính điều đó lại đẩy người bán vào tình thế khó xử, càng phát triển lại càng phải bán chịu nhiều hơn. Thật không may là phần lớn người bán không thể nào xoay xở được với tất cả các khoản bán chịu này. Dù việc buôn bán có phát đạt đến thế nào thì tới một lúc người bán cũng nhận thấy rằng mình đang rơi vào một tình thế rất nguy hiểm.
Các tổ chức bao thanh toán sẽ giảm thiểu rủi ro này bằng cách chuyển các hóa đơn chưa thu được tiền thành tiền mặt, nhờ đó mà người bán có thể tiếp tục cấp tín dụng thương mại cho người mua mà không cần phải lo rủi ro thanh khoản nữa. Hệ quả trực tiếp của việc này là người bán nâng cao được năng lực cạnh tranh của mình nhờ sẵn sàng chấp nhận khoảng thời gian bán chịu hấp dẫn người mua hơn.
Các tổ chức bao thanh toán cam kết tận dụng sự thông thạo trong lĩnh vực tín dụng, thu hồi nợ, cung ứng nguồn tiền mặt hay tài trợ giúp cho người bán nâng cao được hiệu quả hoạt động, vừa tăng doanh số vừa giảm được mất mát do không thu hồi được nợ, đồng thời cải thiện rõ rệt dòng lưu chuyển tiền tệ. Nhờ mọi rắc rối kể trên đã được chuyển sang cho tổ chức bao thanh toán nên người bán có thể toàn tâm toàn ý tập trung vào việc sản xuất hay cung ứng hàng hóa.
Nói tóm lại, người bán càng thêm có nhiều cơ hội làm ăn nhờ:
- Sẵn sàng bán chịu cho người mua mà không sợ ảnh hưởng đến dòng lưu chuyển tiền tệ;
- Tăng doanh số;
- Tăng tồn trữ hàng tồn kho;
- Cải thiện hiệu quả hoạt động nội bộ;
- Tận dụng thế mạnh của chiết khấu thương mại;
- Nâng hạng tín nhiệm;
- Tìm kiếm nhiều cơ hội mới.
Thứ ba, nâng cao hiệu quả hoạt động nhờ chuyên môn hóa sản xuất.
Bên cạnh việc sản xuất kinh doanh mặt hàng chính yếu, người bán còn phải mất thời gian quản lý các khoản phải thu từ người mua. Nếu người bán sử dụng bao thanh toán, công việc này sẽ được chuyển cho đơn vị bao thanh toán. Người bán không còn phải tốn chi phí để duy trì và điều hành một bộ phận chuyên trách việc xem xét khách hàng có đủ điều kiện mua chịu hay không, cũng như phải kiểm tra và thu hồi các khoản nợ này nữa. Với kinh nghiệm, nguồn lực vật chất và nguồn nhân lực được đào tạo bài bản của mình, các tổ chức bao thanh toán sẽ giải quyết nhanh chóng, chuyên nghiệp và hiệu quả mọi vấn đề liên quan đến các hóa đơn và việc thu hồi nợ. Châm ngôn của các tổ chức bao thanh toán lúc này là “Hãy để chúng tôi làm những việc mà chúng tôi làm tốt nhất, còn bạn, hãy làm những việc mà bạn làm tốt nhất ! Chúng ta hãy cùng là đối tác tốt của nhau.”
3.2. Đối với người mua
Cho tới thời điểm hiện tại, L/C vẫn là biện pháp kiểm soát thương mại quốc tế được chấp nhận phổ biến nhất trên toàn cầu, bảo đảm rằng nhà xuất khẩu sẽ cung cấp hàng đúng như quy định trong hợp đồng hay đơn đặt hàng và nhà nhập khẩu sẽ thực hiện nghĩa vụ thanh toán của mình. Nhưng nếu hàng đến chậm hay ghé vào nơi không định trước, không theo lệ thường thì L/C sẽ gây khó khăn rất lớn cho nhà nhập khẩu. Nói tóm lại, sử dụng bao thanh toán quốc tế, nhà nhập khẩu có những lợi ích sau đây:
- Được mua chịu hàng dễ dàng;
- Không cần phải mở L/C;
- Tăng sức mua hàng mà vẫn không vượt quá hạn mức tín dụng cho phép;
- Có thể nhanh chóng đặt hàng mà không bị trì hoãn, không tốn phí mở L/C, hay phí thương lượng...
3.3. Đối với đơn vị bao thanh toán
Thực hiện nghiệp vụ bao thanh toán, các đơn vị bao thanh toán cũng có được một thuận lợi là được hưởng lợi ích kinh tế theo quy mô:
- Các đơn vị bao thanh toán cung cấp dịch vụ này cùng lúc cho nhiều khách hàng nên xét về quy mô sẽ giảm được chi phí cố định liên quan đến các khách hàng đó;
- Đơn vị bao thanh toán lớn nhất và nhiều kinh nghiệm nhất sẽ đứng ra làm đơn vị cung cấp thông tin về tín dụng quy mô nhất, bổ sung vào các dịch vụ tương tự hiện có của các trung tâm dữ liệu tín dụng thương mại tư nhân và quốc doanh. Đơn vị này cũng sẽ hưởng được lợi ích kinh tế theo quy mô nhờ trao đổi thông tin với các trung tâm trên;
- Trong trường hợp bao thanh toán chỉ là một nghiệp vụ của ngân hàng thì ngân hàng cũng đã đa dạng hóa được danh mục dịch vụ cung ứng, đem lại tiện ích mới cho khách hàng và nguồn thu không nhỏ cho ngân hàng.
Có thể nói , bao thanh toán là loại dịch vụ cả hai bên cùng có lợi. Nhưng DN có lợi hơn NH. Khi cung cấp dịch vụ này NH phải gánh chịu về mình những rủi ro khi người mua mất khả năng thanh toán. Do vậy, NH phục vụ người bán, nhà xuất khẩu, nếu không chắc chắn về khả năng tài chính của người mua thường hay tư vấn cho khách hàng của mình tới NH phục vụ người mua, nhà nhập khẩu yêu cầu dịch vụ bao thanh toán. Những NH thực hiện dịch vụ BTT cần tính toán kỹ lưỡng đối với những mặt hàng nhiều rủi ro như nông sản, thực phẩm
4. Phân loại bao thanh toán
4.1. Bao thanh toán truy đòi - miễn truy đòi
- Bao thanh toán truy đòi là hình thức bao thanh toán, trong đó đơn vị bao thanh toán có quyền truy đòi lại số tiền đã ứng trước cho bên bán hàng khi bên mua hàng không có khả năng hoàn thành nghĩa vụ thanh toán khoản phải thu.
Vì vậy, trong bao thanh toán truy đòi, tổn thất chỉ thực sự xảy ra trong trường hợp khoản phải thu không được thanh toán và người bán không thể bù đắp khoản thiếu hụt.
- Bao thanh toán miễn truy đòi là hình thức bao thanh toán, trong đó đơn vị bao thanh toán chịu toàn bộ rủi ro khi bên mua hàng không có khả năng hoàn thành nghĩa vụ thanh toán khoản phải thu.
Đơn vị bao thanh toán chỉ có quyền đòi lại số tiền đã ứng trước cho bên bán hàng trong trường hợp bên mua từ chối thanh toán khoản phải thu do bên bán giao hàng không đúng hợp đồng hoặc vì lý do khác không liên quan đến khả năng thanh toán của bên mua hàng.
4.2. Bao thanh toán có thông báo - không thông báo
- Bao thanh toán có thông báo là hình thức bao thanh toán, trong đó người mua được thông báo là khoản thanh toán tiền hàng được chuyển nhượng cho đơn vị bao thanh toán.
Trong bao thanh toán có thông báo, người bán có nghĩa vụ phải cung cấp cho đơn vị bao thanh toán biên lai giao hàng, giấy chuyển nhượng khoản tiền hàng và 2 liên hóa đơn, trong đó nêu rõ đơn vị bao thanh toán và chỉ ra rằng khoản tiền hàng đã được bán cho đơn vị bao thanh toán.
- Bao thanh toán không thông báo là hình thức bao thanh toán, trong đó người mua không biết việc khoản tiền hàng mình phải thanh toán đã được chuyển cho đơn vị bao thanh toán.
4.3. Bao thanh toán trong nước - xuất nhập khẩu
Theo Quyết định số 1096/2004/QĐ-NHNN ban hành ngày 06/09/2004 của Thống đốc NHNN:
- Bao thanh toán trong nước là việc bao thanh toán dựa trên hợp đồng mua bán, trong đó bên bán hàng và bên mua hàng đều là người cư trú theo quy định của pháp luật về quản lý ngoại hối.
- Bao thanh toán xuất nhập khẩu
Nghiệp vụ bao thanh toán quốc tế còn gọi là nghiệp vụ bao thanh toán xuất nhập khẩu là nghiệp vụ mà đơn vị bao thanh toán cung cấp nghiệp vụ bao thanh toán cho nhà xuất khẩu và nhà nhập khẩu ở hai quốc gia khác nhau, có hoạt động mua bán vượt qua biên giới của một quốc gia. Tức là hoạt động cấp tín dung của đơn vị bao thanh toán cho bên bán hàng thông qua việc mua lại các chứng từ có giá, các khoản phải thu phát sinh từ việc mua bán hàng hóa đã được bên mua hàng và bên bán hàng thõa thuận trong hợp đồng mua bán hàng hóa, mà việc mua bán vượt ra khỏi phạm vi một quốc gia.Với hình thức này thì có sự tham gia của hệ thống 2 đại lý bao thanh toán, một đại lý tại nước nhà xuất khẩu và một đại lý tại nước nhà nhập khẩu.
4.4. Phân loại theo tính chất tài trợ:
_ Phương thức bao thanh toán từng lần: là phương thức bao thanh toán mà tương ứng với từng lần thực hiện mua bán hàng hóa giửa bên mua và bên bán hàng theo thỏa thuận trong hợp dồng mua bán, đơn vị thực hiện bao thanh toán sẽ ứng trước một số tiền căn cứ vào giá trị giao dịch của từng lần mua bán hàng hóa đó
_ Phương thức bao thanh toán hạn mức: là hình thức bao thanh toán mà đơn vị thực hiện bao thanh toán sẽ xem xét cấp một hạn mức bao thanh toán tối đa cho bên bán hàng. Căn cứ vào việc giao dịch mua bán hàng hóa dược thực hiện bên bán và bên mua mà đơn vị thực hiện bo thanh toán sẽ cấp một số tiền tạm ứng căn cứ trên giao dịch, miển là tổng số tiền ứng trước tại một thời điểm không vượt quá bao thanh toán đã được cấp
_ Đồng bao thanh toán: là hình thức bao thanh toán mà các đơn vị bao thanh toán phải liên kết với nhau để thực hiện bao thanh toán cho bên bán hàng do số tiền ứng trước cho bên bán hàng lớn tỷ lệ an toàn trên vốn tối điều lệ của đơn vị đó theo quy định của pháp luật
4.5 .Phân loại theo cách thức thực hiện:
_ Phương thức truyền thống: bên bán và bên mua sẽ liên hệ với bên thực hiện bao thanh toán để biết chắc rằng đơn vị thực hiện bao thanh toán có mua lại các khoản phải thucho bên bán hay không trước khi thực hiện mua bán theo thỏa thuận trong hợp đồng
_ Phương thức phi truyền thống: bên thực hiện bao thanh toán sẽ tiến hành xây dựng những tiêu chuẩn chung cho bên mua và bên bán đủ điều kiện thực hiện sẽ cấp tín dụng cho cả bên bán và bên mua. Nếu giao dịch mua bán nằm trong tiêu chuẩn chung thì đơn vị này sẽ thực hiện bao thanh toán, miển là tổng số tiền ứng trước tại một thời điểm không vượt quá bao thanh toán đã được cấp cho bên mua hay bên bán.Bao thanh toán quốc tế là việc bao thanh toán dựa trên hợp đồng xuất nhập khẩu.
4.6 Căn cứ theo thời hạn
Bao thanh toán có thể được chia thành bao thanh toán ứng trước hay bao thanh toán chiết khấu và bao thanh toán khi đáo hạn.bao thanh toán ứng trước hay bao thanh toán chiết khấu là loại bao thanh toán theo đó đơn vị bao thanh toán chiết khấu các khoản phải thu trước ngày đáo hạn và ứng trước tiền chi đơn vị bán hàng ( có thể đến 80% gía trị hóa đơn).bao thanh toán khi đến hạn là loại bao thanh toán theo đó đơn vị bao thanh toán sẽ trả cho các khách hàng của mình (người bán hàng) số tiền bằng giá mua của các khoản bao thanh toán khi đáo hạn.
5. Quy trình thực hiện
5.1. Hệ thống một đơn vị bao thanh toán
(Xem sơ đồ 1)
(1) Người bán và người mua tiến hành thương lượng trên hợp đồng mua bán hàng hóa.
(2) Người bán đề nghị đơn vị bao thanh toán tài trợ với tài sản đảm bảo chính là khoản phải thu trong tương lai từ hợp đồng mua bán hàng hóa.
(3) Đơn vị bao thanh toán tiến hành thẩm định khả năng thanh toán tiền hàng của người mua.
(4) Nếu xét thấy có thể thu được tiền hàng từ người mua theo đúng hạn hợp đồng mua bán, đơn vị bao thanh toán sẽ thông báo đồng ý tài trợ cho người bán.
(5) Đơn vị bao thanh toán xuất khẩu và người bán thỏa thuận và ký kết hợp đồng bao thanh toán.
(6) Người bán giao hàng cho người mua theo đúng thỏa thuận trong hợp đồng mua bán hàng hóa.
(7) Người bán chuyển giao bản gốc hợp đồng mua bán hàng hóa, chứng từ bán hàng và các chứng từ khác liên quan đến các khoản phải thu cho đơn vị bao thanh toán.
(8) Đơn vị bao thanh toán ứng trước một phần tiền cho người bán theo thỏa thuận trong hợp đồng bao thanh toán.
(9) Khi đến hạn thanh toán, đơn vị bao thanh toán tiến hành thu hồi nợ từ người mua.
(10) Người mua thanh toán tiền hàng cho đơn vị bao thanh toán.
(11) Sau khi đã thu hồi tiền hàng từ phía người mua, đơn vị bao thanh toán thanh toán nốt tiền chuyển nhượng khoản phải thu cho người bán.
Sơ đồ 1: Hệ thống một đơn vị bao thanh toán
(Điển hình được sử dụng nghiệp vụ bao thanh toán trong nước)
5.2. Hệ thống hai đơn vị bao thanh toán
(Xem sơ đồ 2)
(1) Người bán và người mua tiến hành thương lượng trên hợp đồng mua bán hàng hóa.
(2) Người bán đề nghị đơn vị bao thanh toán xuất khẩu tài trợ với tài sản đảm bảo chính là khoản phải thu trong tương lai từ hợp đồng mua bán hàng hóa.
(3) Đơn vị bao thanh toán xuất khẩu đề nghị đơn vị bao thanh toán nhập khẩu cùng thực hiện hợp đồng bao thanh toán.
(4) Đơn vị bao thanh toán nhập khẩu thực hiện phân tích các khoản phải thu, tình hình hoạt động và khả năng tài chính của bên mua hàng.
(5) Đơn vị bao thanh toán nhập khẩu đồng ý tham gia giao dịch bao thanh toán với đơn vị bao thanh toán xuất khẩu. Đơn vị bao thanh toán xuất khẩu chấp thuận tài trợ cho người bán.
(6) Đơn vị bao thanh toán xuất khẩu và người bán thỏa thuận và ký kết hợp đồng bao thanh toán.
(7) Người bán giao hàng cho người mua theo đúng thỏa thuận trong hợp đồng mua bán hàng hóa.
(8) Người bán chuyển giao bản gốc hợp đồng mua bán hàng hóa, chứng từ bán hàng và các chứng từ khác liên quan đến các khoản phải thu cho đơn vị bao thanh toán xuất khẩu.
Đơn vị bao thanh toán xuất khẩu tiếp tục chuyển nhượng các chứng từ trên cho đơn vị bao thanh toán nhập khẩu.
(9) Đơn vị bao thanh toán xuất khẩu chuyển tiền ứng trước cho người bán theo thỏa thuận trong hợp đồng bao thanh toán.
(10) Khi đến hạn thanh toán, đơn vị bao thanh toán nhập khẩu tiến hành thu hồi nợ từ người mua.
(11) Người mua thanh toán tiền hàng cho đơn vị bao thanh toán nhập khẩu.
(12) Đơn vị bao thanh toán nhập khẩu trích trừ phí và lãi (nếu có) rồi chuyển số tiền còn lại cho đơn vị bao thanh toán xuất khẩu.
(13) Đơn vị bao thanh toán xuất khẩu trích trừ phí rồi chuyển số tiền còn lại cho người bán.
Sơ đồ 2: Hệ thống hai đơn vị bao thanh toán
(Điển hình được sử dụng trong bao thanh toán quốc tế)
6.Định giá kiểm soát rủi ro và các biện pháp an toàn của đơn vị bao thanh toán
a.Định giá
Giá cho nhà xất khẩu trong hệ thống bao thanh toán quốc tế được tạo thành từ 3 yếu tố
Phí nộp đơn đề nghị (cộng thêm chi phí thẩm định tín dụng nếu đơn vị bao thanh toán nhập khẩu yêu cầu).
Hoa hồng ( còn được gọi là “phí dịch vụ” hoặc phí quản lí ).
Chi phí lãi (còn được gọi là “phí tài chính” hoặc phí chiết khấu).
b.kiểm soát rủi ro
Được đảm bảo an toàn cho đơn vị bao thanh toán trong việc thực hiện hợp đồng bao thanh toán ,đơn vi bao thanh toán phải thể hiện một số việc cơ bản sau.
Kiểm toán người bán :nhằm xác định tính chân thật của giao dịch cũng như nắm được chu trình giao dịch:từ đặt hàng _ giao hàng_thanh toán và nhận diện các rủi ro như giao dịch,rủi ro giao hàng ,rủi ro sản xuất ,chất lượng sản phẩm…Việc kiểm toán được thực hiện thông qua kiểm tra chứng từ là gặp gỡ người bán
Thẩm định rủi ro từ người bán : chú ý các yếu tố về doanh nghiệp,ban điều hành tình trạnh tài chính , sản phẩm hoặc dịch vụ, mục đích vay, các khoản phải thu phải trả
Kiểm tra khoản phải thu (A/R) về qui cách bán hàng, qui cách thanh toán , thay đổi danh mục cho vay,cho vay từ người mua
Theo dỗi sự thay đổi , phát hiện sự gian dối
Số dư danh mục cho vay: tránh tập trung danh mục cho vay vào những người bán trong một ngành kinh doanh,một khu vực địa lí
Trải rộng người mua /sự tập trung : người bán nên có sự trải rộng người mua thật tốt
Chất lượng của người mua : thấp sẽ gây ra khó khăn cho việc thu nợ các khoản phải thu
Thu hồi các khoản phải thu: là vấn đề then chốt để kiểm soát rủi ro .Cách tốt nhất để tránh các khoản nợ khó đồi là thu nợ thật nhanh
c.các biện pháp an toàn: mua bảo hiểm
- Bảo hiểm toàn bộ : công ty bảo hiểm chịu tát cả các rủi ro
-Bảo hiểm chia sẽ tổn thất :Cty bảo hiểm chịu một tỷ lệ phần trăm đã thỏa thuận đối với mỗi rủi ro
-Bảo hiểm vượt quá tổn thất :đơn vị bao thanh toán chịu tổn thất trên mỗi khoản nợ khó đòi tói đa một số tiền đã thỏa thuận và cty bảo hiểm chịu bất kì tổn thất nào vượt quá số tiền đó
-Bảo hiểm vượt quá tổn thất tổng thể : đơn vị bao thanh toán sẽ thỏa thuận với cty bảo hiểm một giá trị tổn thất trong năm và nếu toàn bộ tổn thất nợ khó đòi vượt quá giá trị đã thảo thuận thì cty bảo hiểm sẽ thanh toán phần vượt quá đó
II. SO SÁNH BAO THANH TOÁN VÀ CHIẾT KHẤU GIẤY TỜ CÓ GIÁ:
1.Bao thanh toán và cho vay thông thường
BAO THANH TOÁN - Có 2 chủ thể gắn liền với khoản tín dụng: Bên bán và Bên mua - Cấp hạn mức dựa trên uy tín và năng lực Bên bán và Bên mua - Dịch vụ chiết khấu/ ứng trước cho Bên bán hàng (dựa trên hóa đơn bán hàng) - Thu nợ từ Bên mua hàng - Theo dõi bán hàng và các khoản phải thu từ Bên mua -Không cần phưõng án kinh doanh từ Bên bán CHO VAY THÔNG THƯỜNG -Chỉ có 1 chủ thể gắn liền với khoản tín dụng: Bên vay vốn -Cấp hạn mức dựa trên uy tín và năng lực Bên vay vốn -Cấp vốn cho Bên vay ( dựa trên TSĐB Bên vay) -Thu nợ từ Bên vay -Theo dõi, kiểm tra tình hình sử dụng vốn Bên bán -Thẩm tra kỹ phương án kinh doanh Bên vay vố
2.Bao thanh toán & chiết khấu hóa đơn
BAO THANH TOÁN -Ngân hàng quản lý sổ sách bán hàng cho Doanh nghiệp -Ngân hàng thu hộ tiền từ bên mua -Có thể áp dụng cả phương thức hạn mức hoặc từng lần -Quản lý bên mua hàng chặt chẽ hơn -Bên bán trực tiếp quản lý sổ sách bán hàng CHIẾT KHẤU HÓA ĐƠN -Bên bán thu tiền từ bên mua -Thường áp dụng phương thức từng lần) -Thường không quản lý bên mua hàng
3.Bao thanh toán & chiết khấu bộ chứng từ xuất khẩu
BAO THANH TOÁN -Bên nhập khẩu không phải làm các thủ tục mở L/C. -Cấp hạn mức dựa trên uy tín và tiềm lực tài chính nhà nhập khẩu -Thông thường, nhà xuất khẩu sẽ chịu phí Bao thanh toán -Kiểm soát được năng lực và biến động Bên nhập khẩu thông qua các Tổ chức Factoring quốc tế hoặc đơn vị Factor nhập khẩu -Không phải băn khoăn sự phù hợp của Bộ chứng từ CHIẾT KHẤU BỘ CHỨNG TỪ -Bên nhập khẩu phải làm các thủ tục mở L/C -Cấp hạn mức dựa trên sự hoàn hảo bộ chứng từ và uy tín của Ngân hàng mở L/C -Nhà nhập khẩu chịu phí mở L/C -Ít kiểm soát được Bên nhập khẩu -Cần bộ chứng từ chính xác 4. Các ví dụ về bao thanh toán *Trường hợp công ty thương mại -Công ty Nhật Nam là công ty gia đình điển hình, vốn nhỏ, làm đại lý cho công ty đồ hộp Hạ Long. -Nhật Nam thường duy trì 3 tháng hàng tồn kho, được mua hàng chậm trả 30 ngày từ nhà cung cấp -Khách hàng của Nhật Nam là các cửa hàng bán lẻ và siêu thị, với phương thức thanh toán trả chậm từ 30 – 90 ngày. -Nhật Nam cần nguồn tài chính để tài trợ cho việc bán trả chậm, Nhật Nam đến Ngân hàng nhưng gặp khó khăn do tiềm lực yếu Xử lý tình huống của Ngân hàng -Tư vấn Nhật Nam sử dụng dịch vụ Bao thanh toán do Ngân hàng cung cấp -Ngân hàng sẽ bao thanh toán có truy đòi với các cửa hàng bán lẻ ( do uy tín của các cửa hàng bán lẻ chưa cao) -Bao thanh toán miễn truy đòi với các siêu thị ( đã khẳng định được uy tín của mình) *Trường hợp công ty Dịch vụVD1
-Tia Sáng là công ty tư vấn có nhiều hợp đồng với các hãng lớn. Tia Sáng rất cần nguồn tài chính vì các hóa đơn phải 2 – 3 tháng sau mới được thanh toán. -Các Ngân hàng thường từ chối do Tia Sáng không có TSĐB nào? -Dịch vụ Bao thanh toán cũng rất phù hợp với Tia Sáng: căn cứ váo uy tín cung cấp dịch vụ của Tia Sáng và tiềm lực tài chính của các hãng lớn -Tia Sáng không cần TSĐB nào khác ngoài các hóa đơn dịch vụ đã cung cấp để được ứng vốnVD2
-Công ty Thiên Nam sản xuất máy tính để cung cấp cho các hãng viễn thông đa quốc gia. Thiên Nam cũng phải nhập khẩu công nghệ mới từ nước ngoài -Ngân hàng đã quyết định cấp hạn mức Bao thanh toán cho các HĐ bán hàng trả chậm cho các hãng viễn thông đa quốc gia -Cấp hạn mức mở L/Cđể Thiên Nam nhập nguyên liệu -Ngân hàng đã kết nối hạn mức BTT với tài trợ nhập khẩu -Việc mở L/C tương ứng với khoản ứng trước cho các khoản phải thu được Bao thanh toán
BÀI TẬP:
Câu 1.Cty ABC đang thương lượng hợp đồng xuất khẩu trị giá 250000 USD trả chậm 90 ngày thanh toán qua ngân hàng Bangkok bank . Do bán chậm trả tiền nên cty thiếu hụt vốn để tiếp tục sản xuất . Để bù đắp thiếu hụt vốn cty đến ngân hàng VCB đề nghị hai phương án bù đắp
Yêu cầu bangkok bank mở L/C và chiết khấu bộ chứng từ qua VBC.
Sử dụng dịch vụ bao thanh toán xuất khẩu miễn truy đòi của VBC
Giả sử bạn là nhân viên phòng tín dụng đang tiếp nhận và xử lý hồ sơ của khách hàng . Ngoài ra bạn biết ngân hàng đang áp dụng mức lãi suất chiết khấu là 6,25%/năm ,hoa hồng là 0,5%/doamh số giao dịch vá phí bù đắp rủi ro bao thanh toán là 1,75%/năm.
1.giải thích cho khách hàng hiểu những điểm giống và khác nhau giữa chiết khấu và bao thanh toán trong tình huống này là gì ?
2.khách hàng nhận được bao nhiêu tiền theo mỗi phương án ? bạn khuyên khách hàng nên chọn phương án nào tại sau?
Trả lời
1.Những điểm giống và khác nhau giữa chiết khấu và bao thanh toán trong tình huống này:
a. điểm giống nhau
cả hai đều là công cụ xuất khẩu
sử dụng chiết khấu hoặc bao thanh toán công ty ABC đều có thể nhận được tiền trước khoản phải thu đến hạn
cả hai hình thức tài trợ này, Công ty ABC dều phải trả lãi chiết khấu cho ngân hàng
b. điểm khác nhau
- với bao thnah toán chiết khấu miễn truy đòi Công ty ABC có thể sử dụng được bao thanh toán như một công cụ tài trợ, phương tiện thanh toán và công cụ phòng tránh rủi ro trả nợ trong khi với chiết khấu công ty ABC chỉ sử dụng dịch vụ này như công cụ tài trợ.
- bao thanh toán tốn kém chi phí hơn chiết khấu.
2.
*. Dịch vụ chiết khấu .
Mệnh giá khoản phải thu: 250000 USD
Lãi chiết khấu: 250000 * 6.25% * 90/360 = 3906.25 USD
Hoa hồng: 250000 * 0.5% = 1250 USD
Công ty ABC nhận được: 250000 - 3906.25 – 1250 = 244789.75 USD
Dịch vụ bao thanh toán miễn truy đòi
Mệnh giá khoản phải thu: 250000 USD
Lãi chiết khấu: 250000 * 6.25% * 90/360 = 3906.25 USD
Hoa hồng: 250000 * 0.5% = 1250 USD
Phí bù đấp rủi ro: 250000 * 1.75% * 90/360 = 1093.75 USD
Công ty ABC nhận được: 250000 - 3906.25 – 1250 – 1093.75 = 243084 USD
Việc khuyên khách hàng nên chọn phương án nào tùy thuộc và thái độ của khách hàng đối với rủi ro. Nếu khách hàng ngại rủi ro , ban khuyên khách hàng nên chọn dịch vụ bao thanh toán . Nếu khách hàng không ngại rủi ro bạn khuyên khách hàng nên chọn dịch vụ chiết khấu
III. THỰC TRẠNG VÀ TIỀM NĂNG PHÁT TRIỂN BAO THANH TOÁN Ở VIỆT NAM
1.Thực trạng :
Nghiệp vụ bao thanh toán ở Việt Nam bắt đầu manh nha từ những năm 1990, nhưng chưa có điều kiện để phát triển. Nhận thấy sự cần thiết của hoạt động bao thanh toán đối với các doanh nghiệp Việt Nam, ngày 06/9/2004, Thống đốc Ngân hàng Nhà nước đã ký Quyết định số 1096/2004/QĐ-NHNN ban hành Quy chế hoạt động bao thanh toán của các tổ chức tín dụng (sau này, gọi là Quy chế 1096). Sự ra đời của văn bản pháp lý này bước đầu đã tạo động lực thúc đẩy các tổ chức tín dụng triển khai và phát triển dịch vụ bao thanh toán. Và mãi đến đầu năm 2005, bao thanh toán mới chính thức được triển khai tại Việt Nam.
Ở Việt Nam, chi nhánh các ngân hàng nước ngoài là những tổ chức thực hiện nghiệp vụ bao thanh toán đầu tiên. Deutsche Bank AG là đơn vị đầu tiên triển khai dịch vụ này vào 01/2005. Tiếp đó, là một số ngân hàng khác cũng đồng loạt triển khai dịch vụ này, như Far East National Bank (02/2005), UFJ Bank (03/2005), City Bank (10/2005)…
Hiện nay, số lượng ngân hàng thương mại Việt Nam triển khai thực hiện dịch vụ bao thanh toán đã tăng lên: Ngân hàng Kỹ thương (Techcombank), Á Châu (ACB), Ngoại thương (VCB), Sài Gòn Thương Tín (Sacombank), Phương Đông (OCB), Xuất nhập khẩu (Eximbank), Quốc tế (VIB), Đông Nam Á (Seabank), Việt Á, Nam Á, Phát triển nhà Thành phố Hồ Chí Minh (HDB), Phát triển nhà Hà Nội (Habubank), Hàng hải (MSB)… Trong số này, có 4 ngân hàng tham gia vào FCI: Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam, Ngân hàng thương mại cổ phần (TMCP) Kỹ Thương, Ngân hàng TMCP Á Châu và Ngân hàng TMCP Sài Gòn Thương Tín. Do còn dè dặt trong bước đầu triển khai nên hiện nay các ngân hàng chủ yếu thực hiện dịch vụ bao thanh toán trong nước có truy đòi
2 Một số tồn tại khi thực hiện nghiệp vụ bao thanh toán tại Việt Nam
Qua một thời gian triển khai hoạt động, mặc dù có những dấu hiệu tích cực nhưng tình hình bao thanh toán ở Việt Nam vẫn chưa thực sự phát triển và chưa thể hiện hết những ưu điểm vốn có của nó. Điều này xuất phát từ nhiều nguyên nhân khác nhau, từ phía Nhà nước với những bất cập môi trường pháp lý, từ chính bản thân các đơn vị thực hiện bao thanh toán và thái độ của các doanh nghiệp, nhất là các doanh nghiệp vừa và nhỏ, cụ thể:
Khung pháp lý
Quy chế 1096 đã quy định những vấn đề cơ bản trong hoạt động bao thanh toán. Tuy nhiên, Quy chế này vẫn còn nhiều bất cập và hạn chế. Chính vì thế, các ngân hàng thương mại, công ty tài chính vẫn chưa mạnh dạn triển khai rộng rãi hoạt động này.
- Theo Quy chế này, bao thanh toán được định nghĩa “là một hình thức cấp tín dụng của tổ chức tín dụng cho bên bán hàng thông qua việc mua lại các khoản phải thu phát sinh từ việc mua, bán hàng hóa đã được bên bán hàng và bên mua hàng thỏa thuận trong hợp đồng mua bán hàng hóa”.
+ Việc định nghĩa bao thanh toán chỉ là “một hình thức cấp tín dụng” đã khiến toàn bộ nội dung quy chế này lệch ra khỏi bản chất của nghiệp vụ bao thanh toán. Quan niệm này không thống nhất với quan niệm phổ biến về bao thanh toán trên thế giới. Bên cạnh chức năng tài trợ, đơn vị bao thanh toán còn cung cấp chức năng theo dõi sổ sách, thu nợ tiền hàng và bảo hiểm rủi ro. Đây chính là điểm khác nhau cơ bản của bao thanh toán so với việc cấp tín dụng thông thường.
+ Đồng thời, định nghĩa bao thanh toán là “hình thức cấp tín dụng của tổ chức tín dụng cho bên bán hàng thông qua việc mua lại các khoản phải thu”. Điều này đã tạo sự nhập nhằng, khó hiểu vì quan hệ tín dụng và quan hệ mua bán là hai mối quan hệ tách biệt nhau.
+ Theo Quy chế 1096, nghiệp vụ bao thanh toán chỉ áp dụng cho các khoản phải thu xuất phát từ hợp đồng mua bán hàng hóa, không đề cập gì đến khoản phải thu phát sinh từ việc cung ứng dịch vụ.
- Theo định nghĩa, bao thanh toán chỉ là hình thức cấp tín dụng, nên khoản ứng trước chỉ đơn thuần là khoản cho vay, còn khoản phải thu vẫn là tài sản thuộc sở hữu của người bán. Chính sự không chính xác trong việc định nghĩa nghiệp vụ bao thanh toán đã dẫn đến những rủi ro tiềm ẩn đối với đơn vị bao thanh toán trong việc chuyển giao quyền đòi nợ từ người bán sang đơn vị bao thanh toán. Pháp luật hiện nay vẫn không có quy định liên quan đến việc xác lập mối quan hệ này.
- Theo mục c, d, đ, e, khoản 1, điều 13 của Quy chế 1096 có viết: “c. Đơn vị bao thanh toán và bên bán hàng thỏa thuận và ký kết hợp đồng bao thanh toán.
d. Đơn vị bao thanh toán và bên bán hàng đồng ký gửi văn bản thông báo về hợp đồng bao thanh toán cho bên mua hàng và các bên liên quan, trong đó nêu rõ việc bên bán hàng chuyển giao quyền đòi nợ cho đơn vị bao thanh toán và hướng dẫn bên mua hàng thanh toán trực tiếp cho đơn vị bao thanh toán.
đ.Bên mua hàng gửi văn bản cho bên bán và đơn vị bao thanh toán xác nhận về việc đã nhận được thông báo và cam kết về việc thực hiện thanh toán cho đơn vị bao thanh toán.
e. Bên bán hàng chuyển giao bản gốc hợp đồng mua, bán hàng, chứng từ bán hàng và các chứng từ khác liên quan đến khoản phải thu cho đơn vị bao thanh toán”.
Điều này đã gây khó khăn cho các tổ chức tín dụng Việt Nam khi thực hiện nghiệp vụ bao thanh toán. Khi người bán và đơn vị bao thanh toán đồng ký gửi văn bản thông báo về hợp đồng bao thanh toán cho bên mua hàng, mà bên mua hàng không đồng ý, không gửi văn bản xác nhận về việc đã nhận thông báo thì sẽ gây khó khăn cho cả người bán và đơn vị bao thanh toán. Bởi vì, pháp luật sẽ không thừa nhận dịch vụ bao thanh toán nếu không có sự chấp nhận bằng văn bản của khách hàng phải trả nợ.
Cũng theo đề mục trên, khi người bán và đơn vị bao thanh toán thỏa thuận, kí kết hợp đồng bao thanh toán, sẽ phải đồng ký gửi văn bản thông báo về hợp đồng bao thanh toán cho bên mua hàng. Như vậy, chưa đủ cơ sở để xác định thông báo có hiệu lực thi hành cho tất cả các bên.
- Cũng theo Quy chế 1096, chỉ các tổ chức tín dụng mới được thực hiện nghiệp vụ bao thanh toán. Quy định trên không hợp lý vì nó gây khó khăn cho các doanh nghiệp có uy tín, có năng lực về tài chính và thẩm định khách hàng muốn cung cấp dịch vụ này.
- Lợi ích của bao thanh toán là không cần dùng hối phiếu để tài trợ và giải quyết mọi tranh chấp thương mại mà chỉ cần có hợp đồng và các hóa đơn thương mại đã được đóng dấu chuyển quyền sở hữu. Hợp đồng bao thanh toán cũng như các hợp đồng thương mại khác sẽ được xem như là cơ sở pháp lý để trong trường hợp có tranh chấp, sẽ được đưa ra trọng tài kinh tế hoặc tòa án thương mại để xét xử. Nhưng vấn đề ở đây là, ở Việt Nam, hiệu lực hợp đồng và thậm chí là hiệu lực kết quả xét xử của trọng tài kinh tế hay tòa án thương mại vẫn còn bị xem nhẹ. Rất nhiều trường hợp vi phạm hợp đồng, không tuân thủ phán quyết của trọng tài và tòa án mà vẫn nhởn nhơ ngoài vòng pháp luật. Nói tóm lại, một nguyên nhân khiến bao thanh toán chậm được triển khai ở Việt Nam là do luật pháp của ta chưa nghiêm.
- Mặt khác, trên cơ sở lý thuyết, khởi kiện tại tòa án được xem là cứu cánh cuối cùng và hiệu quả nhất của ngân hàng để thu hồi các khoản nợ khi con nợ cố tình lẫn tránh nghĩa vụ khi đến hạn. Nhưng thực tế cho thấy việc khởi kiện tại tòa án chưa thực sự là phương thức hiệu quả để bảo vệ quyền lợi cho chủ nợ. Thủ tục tố tụng kinh tế và dân sự còn quá phức tạp, chi phí kiện tụng tốn kém, công tác thi hành án còn nhiều bất cập… Sau một chặng đường dài tốn kém thời gian và tiền bạc, kết quả là ngân hàng vẫn đứng trước nguy cơ không thu hồi được khoản nợ.
Khái niệm bao thanh toán còn khá mới
Quy chế hoạt động bao thanh toán của các tổ chức tín dụng mới có hiệu lực từ ngày 01/10/2004, nên các doanh nghiệp Việt Nam hiểu biết về bao thanh toán còn hạn chế. Các doanh nghiệp lớn có một chút am hiểu về sản phẩm bao thanh toán do được các ngân hàng tiếp thị hoặc thông qua các diễn đàn doanh nghiệp, diễn đàn phát triển kinh tế còn đa số các doanh nghiệp Việt Nam hiện nay vẫn còn rất mơ hồ khi nghe nhắc đến nghiệp vụ bao thanh toán. Từ đó, họ không có khái niệm sử dụng dịch vụ cũng như lựa chọn dịch vụ phù hợp với việc kinh doanh của doanh nghiệp mình.
Chi phí cao gây e ngại cho các doanh nghiệp
Bao thanh toán là một nghiệp vụ có nhiều rủi ro, đặc biệt là rủi ro từ phía người mua. Vì vậy, dịch vụ bao thanh toán có chi phí tương đối cao, trung bình khoảng 3 - 5% doanh thu. Chi phí cao bởi vì ngoài chi phí để gánh chịu rủi ro, còn bao gồm chi phí quản lý sổ sách, chi phí chuyển phát nhanh và các chi phí phụ khác. Điều này gây tâm lý e ngại cho các doanh nghiệp khi sử dụng dịch vụ bao thanh toán.
Sản phẩm bao thanh toán chưa có sức hấp dẫn đối với khách hàng
Xét về mặt lý thuyết, bao thanh toán khắc phục được tình trạng cho vay dựa trên tài sản thế chấp của tín dụng ngân hàng. Nhưng thực tế ở Việt Nam, tài sản đảm bảo vẫn là vấn đề tiên quyết để nhận được nguồn tài trợ từ các tổ chức tín dụng. Tại Việt Nam, tài sản đảm bảo không những được các ngân hàng Việt Nam mà còn được các ngân hàng nước ngoài xem trọng. Điều này cũng là tất yếu, bởi vì, đặc điểm thị trường Việt Nam đầy rủi ro, không cho phép ngân hàng mạo hiểm. Các ngân hàng không thể xét duyệt hạn mức tín dụng đơn thuần sau khi nghe các doanh nghiệp chứng minh tình trạng tài chính của mình là lành mạnh trong khi những lý lẽ đó có được từ việc phân tích các báo cáo tài chính không thể tin tưởng được.Chính việc ngân hàng đòi hỏi bên bán phải có tài sản đảm bảo đã làm giảm đi ưu thế của dịch vụ bao thanh toán, đồng thời cũng đã làm mất đi bản chất của dịch vụ này.
Mặt khác, dịch vụ bao thanh toán tại các ngân hàng thường chỉ chú trọng tới các doanh nghiệp lớn. Dịch vụ bao thanh toán của ngân hàng chưa thật tiện lợi, hệ thống thông tin tín dụng còn thiếu thốn nên để tránh rủi ro, ngân hàng đưa ra những điều kiện rất khó đáp ứng, có đòi hỏi cao đối với khách hàng như phải chứng minh uy tín của bên mua hàng, các khoản phải thu phải thật sự an toàn hay phải có sự bảo lãnh của định chế tài chính khác. Đây thật sự là điều kiện khó khăn đối với doanh nghiệp khi sử dụng dịch vụ, nhất là các doanh nghiệp vừa và nhỏ.
Đối với quốc tế, bao thanh toán thường là miễn truy đòi. Sau khi kí hợp đồng bao thanh toán và nhận tiền đầy đủ từ phía tổ chức bao thanh toán, người bán (nhà xuất khẩu) sẽ hết nghĩa vụ đối với hợp đồng đã kí với nhà nhập khẩu. Đây là một trong những ưu điểm nổi bật làm bao thanh toán trở nên hấp dẫn vì nhà xuất khẩu không còn lo lắng, bận tâm với hợp đồng mua bán nữa. Tuy nhiên, vì dịch vụ bao thanh toán còn khá mới mẻ và để đảm bảo an toàn, ngân hàng chỉ thực hiện bao thanh toán có quyền truy đòi. Điều này cũng được xem là một cản trở lớn đối với sự phát triển dịch vụ này tại Việt Nam. Nó làm cho các doanh nghiệp có tâm lý không muốn sử dụng dịch vụ.
Ngoài ra, bên bán hàng muốn được ngân hàng thực hiện bao thanh toán, khách hàng của bên bán (bên mua hàng) phải được đơn vị bao thanh toán cấp hạn mức tín dụng. Điều này thật sự vô lý, và đã gây khó khăn cho các doanh nghiệp khi sử dụng dịch vụ bao thanh toán.
Trình độ hiểu biết về luật pháp, điều ước và tập quán quốc tế
Sự không thống nhất các qui định về bao thanh toán cũng tạo một rào cản lớn cho sự phát triển của bao thanh toán quốc tế. Bởi vì bao thanh toán quốc tế không những chỉ chịu sự điều tiết của GRIF (General rules for international factoring), mà còn chịu sự điều tiết của luật pháp tại quốc gia của các bên liên quan trong hợp đồng. Ví dụ như: theo GRIF thì không cần phải có xác nhận của người mua đồng ý thanh toán cho đơn vị bao thanh toán. Tuy nhiên, theo Quy chế bao thanh toán tại Việt Nam thì phải có xác nhận này thì hợp đồng bao thanh toán giữa bên bán và tổ chức bao thanh toán mới có hiệu lực. Sự không thống nhất này gây khó khăn cho bên bán và đơn vị thực hiện bao thanh toán.
Mặt khác, mỗi một quốc gia có những qui định cũng như tập quán riêng. Vì vậy, để nắm bắt, am hiểu tất cả các luật lệ quốc tế, điều này thật không đơn giản. Và chính việc không am hiểu luật pháp quốc tế sẽ dễ dẫn đến việc tranh chấp, thua kiện khi ra tòa.
Quan hệ với thị trường nước ngoài còn hạn chế
Trong bao thanh toán quốc tế, người mua và tổ chức bao thanh toán xuất khẩu ở hai quốc gia khác nhau, vì thế việc thẩm định người mua rất khó khăn. Nhất thiết cần phải có sự tham gia hỗ trợ của một tổ chức bao thanh toán tại quốc gia người mua (đơn vị bao thanh toán nhập khẩu). Do đó, một ngân hàng muốn thực hiện bao thanh toán quốc tế tốt, cần phải có mối quan hệ rộng rãi với các tổ chức bao thanh toán khác trên thế giới. Nhưng đa số các ngân hàng Việt Nam hiện nay chưa đủ điều kiện để mở các chi nhánh tại nước ngoài. Hơn nữa, mối quan hệ với các ngân hàng, đơn vị bao thanh toán nước ngoài còn nhiều hạn chế. Đây thực sự là một khó khăn rất lớn của các ngân hàng Việt Nam.
Những lý do trên là nguyên nhân làm cho nghiệp vụ bao thanh toán không phát triển ở Việt Nam. Ngoài ra, cũng còn một lý do nữa, đó là chủ yếu nghiệp vụ bao thanh toán chỉ được thực hiện ở hội sở của các ngân hàng. Phần lớn các chi nhánh chưa quen thuộc và cũng chưa quan tâm nhiều đến việc thực hiện cũng như đẩy mạnh tiếp thị dịch vụ này đến khách hàng. Điều này cũng là một rào cản gây khó khăn cho việc mở rộng, phát triển sản phẩm ở thị trường đầy tiềm năng như nước ta.
3 Một số giải pháp chủ yếu để phát triển hoạt động bao thanh toán tại Việt Nam
Để sản phẩm bao thanh toán nhanh chóng phát triển tại thị trường Việt Nam thì chúng ta cần tiến hành một số giải pháp chủ yếu như sau:
Nhanh chóng hoàn thiện khung pháp lý cho hoạt động bao thanh toán
Tính cho đến thời điểm hiện nay, Ngân hàng Nhà nước (NHNN) chỉ mới ra Quyết định số 1096/2004/QĐ-NHNN vào năm 2004 để ban hành Quy chế hoạt động bao thanh toán. Quyết định này ra đời với một thái độ rất thận trọng, dè dặt và đã chưa mang lại hiệu quả thật sự. Chính vì vậy, NHNN cần sớm ban hành một văn bản, quy chế khác ngắn gọn, đầy đủ, khắc phục được những vấn đề chưa hoàn thiện trong quy chế cũ và thống nhất với thông lệ, công ước về bao thanh toán quốc tế. Văn bản mới này cần xem xét những vấn đề sau:
Thứ nhất, định nghĩa chính xác nghiệp vụ bao thanh toán theo thông lệ quốc tế. Cần có sự phân biệt rạch ròi giữa các thuật ngữ “cấp tín dụng” và “mua bán nợ”. Nên tách bạch hoạt động bao thanh toán với cho vay và hai nghiệp vụ này không nên được quản lý và kiểm soát như nhau.
Thứ hai, cần mở rộng đối tượng cung ứng dịch vụ bao thanh toán, không nên chỉ dừng lại trong phạm vi các tổ chức tín dụng, cần tiến tới việc thành lập các công ty bao thanh toán độc lập.
Thứ ba, cần mở rộng phạm vi cung ứng dịch vụ bao thanh toán, không nên chỉ bó hẹp trong hoạt động thương mại hàng hóa. Bởi vì hiện nay, lĩnh vực dịch vụ đang ngày càng được mở rộng và đây là một lĩnh vực đầy tiềm năng phát triển. Vì thế, nên thực hiện bao thanh toán đối với các khoản phải thu phát sinh từ hợp đồng dịch vụ.
Thứ tư, nên bỏ quy định bên mua hàng phải gửi văn bản xác nhận và cam kết thanh toán cho đơn vị bao thanh toán. Qui định này làm hạn chế phạm vi hoạt động của đơn vị bao thanh toán cũng như quyền lợi sử dụng dịch vụ bao thanh toán của người bán. Mặt khác, xét về nguyên tắc, việc chuyển giao quyền đòi nợ từ bên bán cho đơn vị bao thanh toán không cần phải có sự đồng ý của bên mua vì dù bên mua thanh toán tiền cho ai đi nữa, thì bên mua cũng không thể phủ nhận nghĩa vụ thanh toán của mình trong hợp đồng thương mại.
Thứ năm, hiện nay, không có quy định nào xác lập mối quan hệ của việc chuyển giao quyền đòi nợ của bên bán cho đơn vị bao thanh toán. Vì thế, cần phải đưa ra quy định xác định điều kiện để việc chuyển giao quyền đòi nợ của các bên có hiệu lực.
Thứ sáu, nhằm hạn chế rủi ro cho tổ chức bao thanh toán, nên có quy định về quyền của chủ nợ đối với khoản phải thu. Đối với bao thanh toán có truy đòi, cần có quy định về quyền của đơn vị bao thanh toán đối với tài sản của người bán. Trong trường hợp người mua không thanh toán hoặc người bán vi phạm hợp đồng, đơn vị bao thanh toán có quyền truy đòi lại số tiền đã ứng trước cho người bán. Nếu người bán mất khả năng hoàn trả, đơn vị bao thanh toán sẽ có quyền đối với tài sản của người bán tương ứng với số tiền chưa hoàn trả. Đối với bao thanh toán không truy đòi, đơn vị bao thanh toán cũng có quyền đối với tài sản của người mua tương ứng với số tiền chưa hoàn trả trong trường hợp người mua mất khả năng thanh toán.
Thứ bảy, nên có quy định về các điều kiện giới hạn đối với người mua, hạn mức bao thanh toán tối đa của từng người mua so với vốn tự có của đơn vị bao thanh toán. Hiện nay, việc quy định về tổng số dư bao thanh toán cho một khách hàng không vượt quá 15% vốn tự có của đơn vị bao thanh toán là không hợp lý bởi vì rủi ro của đơn vị bao thanh toán không phải chỉ nằm ở chỗ người bán mà còn ở khả năng thanh toán của người mua.
Thứ tám, cần xem xét và quy định rõ việc áp dụng thuế chuyển nhượng đối với hoạt động này. Hiện nay, vẫn chưa có bất kỳ văn bản pháp luật nào đề cập đến vấn đề này.
Xây dựng sản phẩm phù hợp với thị trường
Hiện nay, sản phẩm bao thanh toán còn khá đơn điệu và kém hấp dẫn với hình thức duy nhất là có truy đòi. Vì thế, cần nghiên cứu phát triển thêm nhiều sản phẩm mới để đa dạng hóa dãy sản phẩm bao thanh toán.
Bên cạnh việc mua lại các khoản phải thu dưới hình thức có truy đòi, ngân hàng có thể thực hiện bao thanh toán miễn truy đòi kết hợp với việc cung cấp thêm chức năng bảo hiểm rủi ro đối với bên mua có uy tín cao trên thị trường, là các công ty lớn có tình hình tài chính minh bạch. Ngân hàng tin tưởng rằng công ty này sẽ không thể đánh đổi những uy tín cũng như thương hiệu đã được xây dựng nhiều năm để không hoàn thành nghĩa vụ trả nợ cho ngân hàng. Đối với hoạt động thương mại quốc tế, việc ngân hàng thực hiện bao thanh toán miễn truy đòi kết hợp với bảo hiểm rủi ro cho người mua là gói sản phẩm sẽ được nhiều nhà xuất khẩu lựa chọn. Bởi vì do thiếu thông tin, không nắm rõ về đối tác, để đảm bảo được thanh toán, nhà xuất khẩu trong nước sẽ sẵn sàng chấp nhận trả cho ngân hàng mức phí cao hơn. Điều này vừa làm phong phú thêm hoạt động bao thanh toán của ngân hàng vừa có thể tăng thêm thu nhập cho ngân hàng. Tuy nhiên, để có thể thực hiện được điều này, đòi hỏi phải có sự nỗ lực rất lớn từ phía ngân hàng trong việc đẩy mạnh quan hệ với các đơn vị bao thanh toán nhập khẩu, cũng như nắm bắt được thông tin về thị trường xuất khẩu của khách hàng.
Ngân hàng cũng nên giảm yêu cầu về tài sản đảm bảo. Hiện nay, các tổ chức tín dụng của Việt Nam chủ yếu là cho vay có tài sản đảm bảo và thực hiện bao thanh toán cũng yêu cầu tài sản đảm bảo. Như vậy, bao thanh toán chẳng khác gì so với cho vay thông thường. Dù tài sản đảm bảo là giải pháp để đảm bảo an toàn, giảm thiểu rủi ro cho ngân hàng, nhưng tài sản đảm bảo không là giải pháp tốt để thu hút khách hàng. Ngân hàng cần làm khác biệt hóa bao thanh toán với sản phẩm cho vay thông thường, có như thế mới thu hút được khách hàng. Tùy theo chính sách, khả năng của mỗi ngân hàng mà xác định rủi ro có thể chấp nhận được, từ đó đưa ra yêu cầu về tài sản đảm bảo ít nhất cho khách hàng.
Mặt khác, ngân hàng nên nghiên cứu để đưa ra chính sách phí linh hoạt, phù hợp với các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Trong giai đoạn đầu khi giới thiệu sản phẩm, ngân hàng có thể chấp nhận mức lợi nhuận thấp hơn để tìm kiếm khách hàng.
Hoàn thiện quy trình bao thanh toán
Việc xây dựng và đưa các sản phẩm vào thị trường không thể thiếu các quy trình hướng dẫn. Quy trình, quy chế chính là cái khung, bộ xương của sản phẩm. Đối với bao thanh toán cũng vậy, khi quy trình, quy chế chặt chẽ, hợp lý thì nghiệp vụ bao thanh toán mới có thể được triển khai nhanh chóng, hiệu quả.
Trong việc xây dựng quy trình cần chú ý đến vấn đề bảo hiểm khoản phải thu. Khi tiến hành bao thanh toán, khoản phải thu chính là nguồn đảm bảo và thu nợ. Chính vì thế, đối với những mặt hàng có quy định mua bảo hiểm, nhất thiết phải yêu cầu khách hàng mua bảo hiểm.
Bao thanh toán là sản phẩm có những đặc điểm khác so với sản phẩm cho vay thông thường. Vì thế, ngân hàng cần xem xét để thiết lập hệ thống tính điểm dành riêng cho đối tượng khách hàng bao thanh toán khi nghiệp vụ này được biết đến rộng rãi.
Ngoài ra, khi đến hạn thanh toán, người mua sẽ là người thanh toán cho ngân hàng chứ không phải người bán. Do vậy, ngân hàng phải quan tâm nhiều hơn đến việc thẩm định khoản phải thu và người mua vì khả năng xảy ra rủi ro chủ yếu từ người mua chứ không phải từ người bán.
Thành lập phòng/ bộ phận bao thanh toán
Ở các nước phát triển, các ngân hàng hay tổ chức tài chính thường thành lập hẳn một công ty con chuyên thực hiện nghiệp vụ bao thanh toán. Tuy nhiên, trong điều kiện Việt Nam hiện nay chưa cho phép thành lập công ty con như thế. Vì thế, để hoạt động bao thanh toán phát triển tốt, giải pháp thành lập phòng/ bộ phận bao thanh toán là khả thi nhất.
Tại hội sở các ngân hàng, nhất thiết nên thành lập phòng bao thanh toán độc lập với các nghiệp vụ khác. Tại các chi nhánh lớn có nhiều khách hàng tiềm năng, ngân hàng sẽ thành lập bộ phận phụ trách dịch vụ bao thanh toán. Bộ phận này không chịu chung sự kiểm soát với bộ phận cho vay và có những tiêu chuẩn thẩm định riêng của mình.
Tại Việt Nam, nghiệp vụ bao thanh toán còn khá mới mẻ nhưng với một thị trường tiềm năng và nhiều hứa hẹn, chắc chắn sản phẩm bao thanh toán từng bước được cải thiện và trở thành một công cụ tài chính không thể thiếu trong việc kinh doanh của các tổ chức tín dụng và doanh nghiệp
4.Việc thực hiện bao thanh toán ở một số ngân hàng
4.1 Ngân hàng Á Châu (ACB):
* Bao thanh toán xuất khẩu: Đối tượng:
Nhà xuất khẩu bán hàng theo phương thức thanh toán T/T trả chậm, D/A.
Nhà xuất khẩu có nhu cầu ứng trước Bộ chứng từ trả chậm
Ưu điểm :
Không yêu cầu tài sản đảm bảo
Tiện ích:
Được tài trợ vốn lưu động mà không cần tài sản thế chấp.
Được đảm bảo khả năng thanh toán của nhà nhập khẩu trong trường hợp nhà nhập khẩu phá sản.
Tăng lợi thế cạnh tranh khi bán hàng theo phương thức T/T trả sau, D/A, D/P.
Tăng nguồn vốn lưu động mở rộng hoạt động sản xuất, kinh doanh và phát triển thị trường.
Được hỗ trợ tư vấn về tình hình tài chính, kinh doanh của nhà nhập khẩu.
Tiết kiệm thời gian và chi phí trong việc theo dõi sổ sách và thu nợ.
* Bao thanh toán trong nước: Đối tượng:
Bên bán hàng muốn phát triển hoạt động sản xuất kinh doanh nhưng vốn lưu động bị hạn chế.
Bên bán hàng sản xuất kinh doanh các ngành hàng có chu kỳ kinh doanh dài nên thường bị áp lực về vốn lưu động.
Bên bán hàng muốn sử dụng dịch vụ thu nợ.
Ưu điểm :
Không yêu cầu tài sản đảm bảo
Tiện ích:
a. Bên bán hàng
Không cần tài sản đảm bảo cho khoản ứng trước.
Nhận tiền ngay sau khi giao hàng.
Tăng nguồn vốn lưu động mở rộng, hoạt động sản xuất, kinh doanh và chủ động trong việc lập kế hoạch tài chính vì dự đoán được dòng tiền vào.
Doanh số càng cao thì khoản ứng trước càng nhiều, gia tăng doanh số bán hàng.
Tăng lợi thế cạnh tranh khi bán hàng theo phương thức trả chậm mà không ảnh hưởng đến nguồn vốn kinh doanh.
b. Bên mua hàng
Chủ động đàm phán điều khoản thanh toán tốt hơn với các nhà cung cấp.
Công cụ hỗ trợ trong quan hệ mua hàng trả chậm.
Không tốn bất kỳ khoản phí nào.
Giúp nhà cung cấp tăng khả năng thực hiện hợp đồng, giao hàng đúng hạn vào mùa cao điểm nhờ được tài trợ vốn lưu động để thực hiện đơn hàng
4.2 Ngân hàng ngoại thương(vietcombank):
Bao thanh toán là việc bên bán/xuất khẩu (sau đây gọi tắt là bên bán) hoặc Đại lý bao thanh toán của bên bán chuyển nhượng cho Vietcombank tất cả các quyền và lợi ích liên quan tới những khoản phải thu có thời hạn thanh toán dưới 180 ngày của bên bán để được Vietcombank và đại lý bao thanh toán của Vietcombank cung cấp tối thiểu 2 trong số các dịch vụ chủ yếu của bao thanh toán:
Theo dõi khoản phải thu
Ứng trước tới 80 ~ 90% giá trị khoản phải thu
Thu nợ
Bảo đảm rủi ro tín dụng của bên mua/ bên nhập khẩu
Các dịch vụ bao thanh toán
Dịch vụ bao thanh toán xuất – nhập khẩu
Dịch vụ bao thanh toán trong nước
Khách hàng
Doanh nghiệp bán hàng
Muốn mở rộng thị trường, tìm kiếm khách hàng mới, tăng khả năng cạnh tranh bằng phương thức thanh toán thông thoáng hơn (trả chậm).
Đang bán hàng bằng phương thức thanh toán trả chậm nhưng muốn được tài trợ và/hoặc đảm bảo rủi ro thanh toán của bên mua.
Doanh nghiệp mua hàng
Muốn mua hàng với phương thức thanh toán T/T trả chậm trong vòng 90 ngày.
Để sử dụng sản phẩm
Khách hàng hãy liên hệ với chi nhánh Vietcombank nơi gần nhất và điền chi tiết vào;
Phiếu yêu cầu cung cấp dịch vụ Bao thanh toán (Trường hợp doanh nghiệp là bên bán).
Phiếu cung cấp thông tin về nhu cầu sử dụng dịch vụ Bao thanh toán (Trường hợp doanh nghiệp là bên mua)
Lợi ích khi sử dụng sản phẩm
Đối với bên bán/ bên xuất khẩu:
Tăng khả năng cạnh tranh bằng những phương thức thanh toán linh hoạt;
Được bảo đảm rủi ro tín dụng bên mua hàng 100% giá trị hoá đơn;
Được Vietcombank ứng trước tiền hàng đến 80-90% giá trị khoản phải thu;
Nắm được chính xác uy tín tín dụng và khả năng tài chính thực tế của bên mua (nhất là đối với người mua nước ngoài);
Tiết kiệm thời gian và chi phí trong việc quản lý và thu hồi các khoản phải thu
Đối với người mua:
Không phải trả bất kỳ một khoản phí bao thanh toán nào;
Không mất thời gian để mở L/C cho từng lần nhập hàng, không phải ký quỹ;
Được nhận hàng và sử dụng hàng mà chưa cần phải thanh toán tiền ngay;
Chỉ thanh toán tiền khi hàng hoá đáp ứng được các yêu cầu của hợp đồng;
Cơ chế thanh toán linh hoạt (bằng đồng nội tệ hoặc ngoại tệ)
KẾT LUẬN
Với quá trình lịch sử phát triển lâu đời và những điểm ưu việt nhất định, nghiệp vụ bao thanh toán đã trở thành một sản phẩm quan trọng trọng trong hoạt động tài chính ngân hàng.Nghiệp vụ này không chỉ tạo nên lợi thế cạnh tranh cho các ngân hàng,đơn vị thanh toán mà còn nâng cao hình ảnh của quốc gia có nghiệp vụ này phat triển.
Việt Nam gia nhập WTO đồng nghĩa với việc phải mở cửa thị trường tài chính cho các tổ chức tài chính nước ngoài mang các sản phẩm mới ,công nghệ tiên tiến ,cách quản lí hiện đại… vào cạnh tranh .Nghiệp vụ bao thanh toán đã phát triển ở nhiều nước trong khu vực và trên thế giới nhưng vẫn còn là thị trường mới ở Việt Nam, vì thế có sự chênh lệch trong cạnh tranh giữa ngân hàng thương mại Việt Nam và chi nhánh ngân hàng nước ngoài. Hiện nay, tuy rằng đã có nhiều ngân hàng thương mại trong nước thấy triển vọng của nghiệp vụ bao thanh toán và đã được Ngân Hàng Nhà Nước cấp giấy phép hoạt động. Tuy nhiên, để nghiệp vụ bao thanh toán thật sự phát triển thì đòi hỏi phải có chiến lược cụ thể trong từng giai đoạn và cần có sự đồng bộ giữa các bộ ngành liên quan.
Thách thức đặt ra cho các ngân hàng thương mại hiện nay là phải tìm ra hướng đi riêng phù hợp với thị trường tài chính Việt nam nhằm cung cấp cho các doanh nghiệp nghiệp vụ bao thanh toán tốt nhất.
Dựa trên những cơ sở lý luận chung về nghiệp vụ bao thanh toán, những bài học kinh nghiệm trong quá trình thực tiễn, đề tài đã đề ra các giải pháp nhằm hoàn thiện và phát triển nghiệp vụ bao thanh toán, tạo cơ sở để nghiệp vụ này trở thành nghiệp vụ tài chính chủ lực của các Ngân Hàng Thương Mại Việt Nam trong một tương lai gần.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Những vấn đề chung về bao thanh toán.doc