3. Trong quá trình lựa chọn phương thức biểu hiện, Nguyễn Ngọc Tư đã sử dụng một
cách linh hoạt các thủ pháp liên tưởng, đối lập cùng với sự kết hợp các loại hình âm
nhạc, hội hoạ, điện ảnh, sân khấu. để tăng hiệu quả trong việc chuyển tải ý đồ nghệ
thuật của nhà văn.
Tản văn Nguyễn Ngọc Tư giàu tính liên tưởng. Quan hệ liên tưởng trong sáng tác
Nguyễn Ngọc Tư thường được xác lập trong nhiều mối quan hệ khác nhau. Từ một cơn
gió chướng, Nguyễn Ngọc Tư có thể liên tưởng tới thời gian (sắp hết năm, sắp già đi
một tuổi), tới những trang viết (tác phẩm nào tôi cũng cho gió lúc thấp thoáng, lúc ròng
ròng chảy qua), tới nỗi nhớ quê nhà (những hình ảnh quen thuộc hàng hàng lũ lượt hiện
ra) (Trở gió). Tấm “bùa yêu” khiến chị “giật mình” nghĩ ngay đến “Những chức tước,
bổng lộc. mà người ta đang chạy rần rần để tranh giành, chiếm đoạt” [5, tr. 140]. Nhìn
mảnh trăng đầu mùa “khuyết còng, mỏng tang”, những kiếp người mà tạo hoá đã không
ban cho hai từ “lành lặn” đã đến trong sự liên tưởng của Nguyễn Ngọc Tư (Vài ba trăng
khuyết). Và từ một cái cửa sau nhà mình, nơi gắn liền với hình ảnh của những người
thân, Nguyễn Ngọc Tư cũng liên tưởng tới một “cửa sau” với những khuất tất trong xã
hội. Ở đó, có “một đám người chen nhau đứng đằng sau cánh cửa, quà trên tay chất
vượt mặt, gõ cửa bằng chân” [5, tr. 98].
Cũng trong Cửa sau, Nguyễn Ngọc Tư đã đối lập giữa một cửa sau đẹp đẽ thân thương,
ở đó có chị gái ngồi giặt áo, ba dội nước tắm từ cái lu nước nhỏ bên cửa, bà nội ngồi
trên cái đôn cửa nhìn khắc khoải ra phía mộ ông, mộ các chú, má ngồi nhặt rau, bó
rau., với cái “cửa sau” vô hình của những trò gian dối, xấu xa trong xã hội “làm nhà
nước thất thoát hàng tỉ tỉ đồng, mồ hôi nhân dân đổ xuống nhiều hơn. cửa sau làm
người ta không trọng nhau, không thương nhau, không tin nhau” [5, tr 98]. Ở Nhớ ơi
nguội bớt cho nhờ với . là sự đối lập giữa một quá khứ rất ngọt ngào, đầm ấm cùng
anh chồng “mủ mỉ ít nói hay cười yêu chiều vợ con” với thực tại xám ngoét của một
người đàn bà bị chồng phụ rẫy khi một ngày nọ “cơn lốc mang tên Bội Bạc cuốn anh ta
đi mất” [6, tr. 142].
Tản văn Nguyễn Ngọc Tư cũng mang đậm chất điện ảnh. Bến cũ, Chút tình sông nước,
Bên sông. là những gam màu thật tươi, những cận cảnh bất ngờ, nhiều chi tiết làm
người đọc thẫn thờ trong cái nhìn của một nhà điện ảnh. Bên cạnh đó, nhiều sáng tác
của chị nghe như một bản nhạc, như một bài vọng cổ cất lên rồi kết thúc nó bằng một
nốt trầm, một sự lửng lơ.
4. Trong đời sống văn học hôm nay, cùng với sự sôi động của đời sống báo chí, khi độc
giả có xu hướng đọc nhanh, đọc nhiều thì tản văn được chú ý là điều tất nhiên. Với
Nguyễn Ngọc Tư, đây là một địa hạt khác trên con đường văn chương của chị. Không
ồn ào, phô trương, không màu mè, tô vẽ, tản văn Nguyễn Ngọc Tư đã đi vào lòng người
đọc bằng tất cả sự nhẹ nhàng, tinh tế, bằng chất “quặng” của một tâm hồn nhân hậu, ấm
áp và thấm đẫm tình người.
5 trang |
Chia sẻ: thucuc2301 | Lượt xem: 730 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Những nét đặc sắc trong tản văn Nguyễn Ngọc Tư - Nguyễn Thị Quỳnh Như, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tạp chí Khoa học và Giáo dục, Trường Đại học Sư phạm Huế
ISSN 1859-1612, Số 02(14)/2010: tr. 42-46
NHỮNG NÉT ĐẶC SẮC TRONG TẢN VĂN NGUYỄN NGỌC TƯ
NGUYỄN THỊ QUỲNH NHƯ
Trường THCS Hải Trường, Quảng Trị
Tóm tắt: Song song với truyện ngắn, Nguyễn Ngọc Tư còn thể hiện bút lực
ở tản văn. Với thể loại này, Nguyễn Ngọc Tư cũng khẳng định được phong
cách riêng. Tản văn là thể loại văn học độc lập, gồm những sáng tác văn xuôi
ngắn gọn, hàm súc bàn về các vấn đề xã hội và nhân sinh. Ở đó, chính kiến
cũng như tình cảm của người cầm bút được bày tỏ một cách trực tiếp. Với
kiểu tự sự này, tác giả vừa phản ánh hiện thực đa chiều, vừa có thể bày tỏ
những suy ngẫm chiêm nghiệm, những vấn đề triết lí về lẽ đời, lẽ người. Với
tản văn Nguyễn Ngọc Tư, người đọc hiểu thêm một cái tôi luôn băn khoăn,
trăn trở, day dứt trước cuộc sống. Về phương thức biểu hiện, Nguyễn Ngọc
Tư đã sử dụng một cách linh hoạt các thủ pháp đối lập, so sánh, liên tưởng
cùng với sự kết hợp các loại hình âm nhạc, hội hoạ, điện ảnh, sân khấu... để
tăng hiệu quả trong việc chuyển tải cảm xúc nhà văn.
Là nhà văn thuộc thế hệ 7x, Nguyễn Ngọc Tư nhận được nhiều giải thưởng khi tuổi đời
và tuổi nghề còn rất trẻ. Từ truyện ngắn đầu tay Ngọn đèn không tắt, đến Cánh đồng
bất tận, và gần đây Gió lẻ, Nguyễn Ngọc Tư đã khẳng định phong cách riêng trong
thành tựu đa dạng của văn xuôi đương đại.
Song song với truyện ngắn, Nguyễn Ngọc Tư còn thành công ở tản văn- một thể loại dễ
viết nhưng khó khẳng định cá tính sáng tạo. Với tản văn, Nguyễn Ngọc Tư đã ghi được
dấu ấn của mình khi liên tiếp cho ra đời những áng văn đặc sắc: Ngày mai của những
ngày mai (2007), Sống chậm thời @ (in chung với Lê Thiếu Nhơn - 2008), Tạp văn
Nguyễn Ngọc Tư và Yêu người ngóng núi (2009).
Tản văn là những sáng tác văn xuôi ngắn gọn, hàm súc bàn về các vấn đề xã hội và
nhân sinh. Ở đó, chính kiến cũng như tình cảm của người cầm bút được bày tỏ một cách
trực tiếp. Với kiểu tự sự này, tác giả vừa phản ánh hiện thực đa chiều, vừa có thể bày tỏ
những suy ngẫm, chiêm nghiệm, những vấn đề triết lí về lẽ đời, lẽ người. Cũng với thể
loại này “thông qua người và việc để bạn phô bày cảm hứng của bạn đối với trời, đất, vũ
trụ, phô bày thể nghiệm của bạn đối với đời sống” [1, tr. 55]. Tản văn vừa tái hiện hiện
thực vừa mang đậm dấu ấn chủ quan của chủ thể sáng tạo. Trong thành tựu lớn của tản
văn đương đại, Nguyễn Ngọc Tư đã khẳng định được một phong cách riêng.
1. Tản văn Nguyễn Ngọc Tư gây ấn tượng trước hết ở hệ thống nhan đề. Nhan đề tác
phẩm văn học thường là một tín hiệu thẩm mỹ. Chất trữ tình của ngòi bút Nguyễn Ngọc
Tư bộc lộ rõ ở bình diện thi pháp này. Cùng với lời đề từ, nhan đề tản văn của nhà văn
nữ này mang đầy tâm trạng, nỗi niềm, đầy sức gợi. Đó là sự nhớ thương: Quán nhớ,
Đôi bờ thương nhớ, Nỗi nhớ con người, Nhớ bèo mây, Mua vài đồng nhớ, Nhớ ơi
nguội bớt cho nhờ với, Ngồi buồn nhớ ngoại ta xưa, Nhớ nguồn ...; nỗi ngậm ngùi:
Ngậm ngùi Hưng Mỹ, Chờ đợi những mùa tôm; đôi khi đó là một phút tần ngần đầy
NHỮNG NÉT ĐẶC SẮC TRONG TẢN VĂN NGUYỄN NGỌC TƯ
43
trăn trở: Ngơ ngác mùa dưa, Gió mùa thao thức, Tần ngần giữa chợ, Còn gì khi vẫy
chào nhau?!, Công viên, chiều nghi ngại, Lựa chọn... Tản văn Nguyễn Ngọc Tư
thường buồn, nỗi buồn đó thấm đẫm trên mỗi trang viết và được thể hiện rõ qua nhan
đề: Sỏi đá buồn tênh, Buồn buồn nói chuyện... buồn chơi, Ngồi buồn nhớ ngoại ta
xưa, Giữa đời phiền muộn...
Với hệ thống nhan đề - tâm trạng ấy, người đọc có thể hiểu thêm một cái tôi Nguyễn
Ngọc Tư luôn băn khoăn, trăn trở, day dứt trước cuộc sống. Cũng từ hệ thống nhan đề
đó, đậm nhạt hiện lên những trang đời sinh động trong những trang viết vốn có dung
lượng không lớn như tản văn.
Đọc tản văn Nguyễn Ngọc Tư, ta bắt gặp một vùng sông nước mênh mông, một vùng
đất kỳ lạ, đẹp và nghèo “vì sông nước chằng chịt, vì rừng rậm hoang sơ cản đường
người ta đi tới” [5, tr. 19]. Ở đó “tuyệt nhiên không có núi cao, hồ thẳm, không hoa
thơm cỏ lạ” [3, tr. 52] mà là “những cánh đồng, dòng kinh, lục bình trôi, cây ô môi bông
đỏ, tiếng bìm bịp hui hút trong những bụi dừa nước ven sông, dơi bay chập choạng
trong vườn làm mấy trái ổi chín rơi xuống đất...” [4, tr. 31]. Đặc biệt, ở vùng sông nước
ấy, “con đường nào cũng có sông hoặc con kinh rượt đuổi, trông theo mình.” [3, tr. 53].
Đến với tản văn Nguyễn Ngọc Tư là đến với những hương vị ngọt ngào, thân thuộc, rất
dân dã, giản dị mang đặc trưng vùng miền. Từ “ăn cơm nguội với ghẹm muối”, “Món
hàu tái chanh, cá thòi lòi kho dừa, vọp nướng” đến “cá lóc nướng rơm”, “ốc lác luộc với
lá sả, lá ổi chấm cơm mẻ”, “hàu nướng, sò nướng chấm muối tiêu chanh” đều đi vào tản
văn Nguyễn Ngọc Tư như là những món đặc sản của người đất Mũi.
Ở tản văn, do đặc trưng thể loại, Nguyễn Ngọc Tư có thể kể chi tiết về những sinh hoạt
văn hoá, về đời sống tâm linh cũng như sự gắn bó với xóm làng của những con người
vùng sông nước Cà Mau. Đến với Đất Mũi mù xa ấy, ta gặp một chợ bên đường nơi
“người mua không nặng nề mặc cả bon chen, người bán cũng chẳng đanh đá chua ngoa
như kẻ chợ” [5, tr. 39]; một chợ nổi với “Hàng trăm chiếc ghe to, nhỏ khẳm lừ, đậu sát
vào nhau thành một dãy dài, người bán, người mua trùng trình trên sóng nước” [5, tr.
135]. Truyền thống uống nước nhớ nguồn cũng được những con người nơi đây nâng
niu, trân trọng. “Trong lúc người ta cuống cuồng đi tìm cách giữ gìn bản sắc văn hoá thì
cái bản sắc văn hoá uống nước nhớ nguồn lại được bà con giữ một cách hồn nhiên” [5,
tr. 173].
Tình cảm gia đình, láng giềng, bè bạn... trong tản văn của Nguyễn Ngọc Tư thật ngọt
ngào, thân thiết. Đó là dì Hai với cái hiệu tạp hoá “cất dứa mé sông” để người đi đâu, về
đâu biết đường mà tìm về quê. Đó còn là những người bạn từ thuở nhỏ như Nguyệt, như
Bèo, như đám bạn mà có lần vì giành xoài chua tôi đã lấy cái bảng gõ lên đầu tụi nó,
như thằng bạn mà tôi có lần cùng ra nghĩa địa ngủ để lấy kỉ niệm (Lời cho má, Láng
giềng một thuở, Quán nhớ, Nguyệt - người bạn không biết viết văn, Một mái nhà,
Chế tạo kỉ niệm...).
Vốn lấy chất liệu từ hiện thực cuộc sống để phản ánh những vấn đề xã hội và nhân sinh,
nên chất đời thường trong tản văn Nguyễn Ngọc Tư hiện lên một cách rõ nét, chân thực.
NGUYỄN THỊ QUỲNH NHƯ
44
Chị viết nhiều về cuộc sống với cái nghèo của người nông dân, về số phận của những
“nhân vật nhỏ bé” với cách nhìn đằm sâu, thân thiết và buồn. Họ là những người nhếch
nhác bùn đất, thân phận của họ là thân phận của những con người nhỏ nhoi, thầm lặng.
Những người nông dân ấy “có một trảng trời mênh mông mà cả đời chẳng mấy khi
thảnh thơi ngước mặt ngó lên trời” [5, tr. 28], “đêm canh con nước khiêng máy tát ra tát
vô, tờ mờ sáng ra đi đổ lú, rồi suốt ngày lụi hụi vớt rong, múc sình cải tạo ao đầm, trồng
lúa” [5, tr. 29].
Trong chính sách chuyển dịch cơ cấu cây trồng, vật nuôi, với hy vọng thoát khỏi cái
nghèo, cái khó, họ đã giã từ cây lúa để nuôi vịt, nuôi tôm. Nhưng rồi may mắn không
đến với họ, dịch cúm gia cầm đến, “bão tôm” qua, vốn mất, nợ không trả được, người
nông dân đành quay lại với chữ nghèo. “...Cảm giác cái nghèo giăng sẵn những cái bẫy
mà bà con nông dân mình luẩn quẩn thế nào vẫn quay về ngay trân chỗ ấy” [5, tr. 50].
Trong sự bề bộn của cuộc sống đời thường, Nguyễn Ngọc Tư vẫn dành nhiều trang viết
cho sự hoài cảm quá khứ. Đó là nỗi nhớ về xóm cũ với từng cái cây, ngọn cỏ, con
đường mà ở đó gắn liền với “cái tiệm tạp hoá bình dị, mộc mạc của người đàn bà goá
chồng hiền hậu”[5, tr. 37] mà mọi người quen gọi là dì Hai; là nỗi nhớ về “cảm xúc
ngọt lành thời thơ ấu chín muồi trong ký ức” [5, tr. 9]; nhớ về một bà già tốt bụng, một
cái sân nhà gắn liền với tuổi thơ; có khi đó là nỗi nhớ một nhà thơ già mà tôi đã từng
quen biết. Những mẩu tản văn hoài vãng của Nguyễn Ngọc Tư mang đậm cái nhìn và
tâm trạng của tác giả. Vọng về quá khứ, Nguyễn Ngọc Tư đã bộc lộ những suy ngẫm về
sự chảy trôi, biến động, về cái còn, cái mất và những giá trị trường tồn của cuộc sống
con người.
Tản văn Nguyễn Ngọc Tư cũng hướng về các hiện tượng xã hội nhức nhối, về những
vấn đề thời cuộc nóng bỏng tính thời sự. Đó là người nông dân với sự thay đổi hướng
làm ăn, xoá đói giảm nghèo, hoạch định kinh tế cho vùng sông nước phía Nam Tổ
Quốc, bỏ đìa để nuôi tôm, tăng vụ trồng cây ăn quả, dẫn nước mặn về đồng; về làn sóng
di dân ào ạt, “cái không cần thay đổi thì đã thay, cái cần đổi thì chưa đổi bao giờ” [5, tr.
17]; về sự quan liêu của các cơ quan công quyền; về hiện tượng báo chí đưa tin thiếu
khách quan; về những nhốn nháo trước sự thay đổi của nền kinh tế thị trường (Đất Mũi
mù xa, Người mỏi chân chưa Làm cho biết, Tản mạn quanh... cái cổng, Kính thưa
anh nhà báo, Tần ngần giữa chợ, Cửa sau, Bùa yêu và con nhỏ thất tình, Người đi
ngang cửa ...).
2. Cảm hứng chủ đạo trong tản văn Nguyễn Ngọc Tư là cảm hứng ngợi ca. Nhà văn ca
ngợi cảnh đẹp thiên nhiên của một vùng đất Nam Bộ mặc dù nghèo nhưng rất đẹp. Ở
đó, gắn liền với những món ăn đặc trưng của một vùng sông nước như ghẹm muối, cá
lóc nướng trui và những đặc sản: dừa nước, cua gạch son, tôm bạc, tôm càng, cá dừa...
Hình ảnh con người trong tản văn Nguyễn Ngọc Tư nghèo, nhỏ nhoi, vất vả nhưng mộc
mạc và thấm đẫm tình người. Những nét văn hoá truyền thống như chợ nhóm bên
đường, chợ họp trên sông, chợ của những người dân nghèo “hiền lành, lam lũ” nhưng
“mang một cái hồn sâu, mênh mông”, truyền thống uống nước nhớ nguồn của những
người con Cà Mau cũng được chị rất nâng niu, trân trọng (Chợ nhóm bên đường, Chút
NHỮNG NÉT ĐẶC SẮC TRONG TẢN VĂN NGUYỄN NGỌC TƯ
45
tình sông nước, Chợ của má, Nhớ nguồn). Đứng trước những vấn đề thời cuộc như
thói quan liêu, trịch thượng, sự lãng quên, vô tâm của người đời, Nguyễn Ngọc Tư chỉ
giận hờn mà không oán trách, nhắc nhở mà không phê phán (Lời nhắn, Làm cho biết,
Nụ cười kỳ tích, Người mỏi chân chưa ...)
Có thể thấy rõ, cái tôi Nguyễn Ngọc Tư trong tản văn là cái tôi cảm thương. Chị cảm
thương cho những phận nghèo, cho những kiếp người bất hạnh, cho cả “cái không cần
thay đổi đã đổi thay, còn cái cần thay đổi thì chưa đổi bao giờ” nên sáng tác của Nguyễn
Ngọc Tư luôn là những trăn trở, suy tư, chia sẻ, giãi bày thấm đẫm tình người.
3. Trong quá trình lựa chọn phương thức biểu hiện, Nguyễn Ngọc Tư đã sử dụng một
cách linh hoạt các thủ pháp liên tưởng, đối lập cùng với sự kết hợp các loại hình âm
nhạc, hội hoạ, điện ảnh, sân khấu... để tăng hiệu quả trong việc chuyển tải ý đồ nghệ
thuật của nhà văn.
Tản văn Nguyễn Ngọc Tư giàu tính liên tưởng. Quan hệ liên tưởng trong sáng tác
Nguyễn Ngọc Tư thường được xác lập trong nhiều mối quan hệ khác nhau. Từ một cơn
gió chướng, Nguyễn Ngọc Tư có thể liên tưởng tới thời gian (sắp hết năm, sắp già đi
một tuổi), tới những trang viết (tác phẩm nào tôi cũng cho gió lúc thấp thoáng, lúc ròng
ròng chảy qua), tới nỗi nhớ quê nhà (những hình ảnh quen thuộc hàng hàng lũ lượt hiện
ra) (Trở gió). Tấm “bùa yêu” khiến chị “giật mình” nghĩ ngay đến “Những chức tước,
bổng lộc... mà người ta đang chạy rần rần để tranh giành, chiếm đoạt” [5, tr. 140]. Nhìn
mảnh trăng đầu mùa “khuyết còng, mỏng tang”, những kiếp người mà tạo hoá đã không
ban cho hai từ “lành lặn” đã đến trong sự liên tưởng của Nguyễn Ngọc Tư (Vài ba trăng
khuyết). Và từ một cái cửa sau nhà mình, nơi gắn liền với hình ảnh của những người
thân, Nguyễn Ngọc Tư cũng liên tưởng tới một “cửa sau” với những khuất tất trong xã
hội. Ở đó, có “một đám người chen nhau đứng đằng sau cánh cửa, quà trên tay chất
vượt mặt, gõ cửa bằng chân” [5, tr. 98].
Cũng trong Cửa sau, Nguyễn Ngọc Tư đã đối lập giữa một cửa sau đẹp đẽ thân thương,
ở đó có chị gái ngồi giặt áo, ba dội nước tắm từ cái lu nước nhỏ bên cửa, bà nội ngồi
trên cái đôn cửa nhìn khắc khoải ra phía mộ ông, mộ các chú, má ngồi nhặt rau, bó
rau..., với cái “cửa sau” vô hình của những trò gian dối, xấu xa trong xã hội “làm nhà
nước thất thoát hàng tỉ tỉ đồng, mồ hôi nhân dân đổ xuống nhiều hơn... cửa sau làm
người ta không trọng nhau, không thương nhau, không tin nhau” [5, tr 98]. Ở Nhớ ơi
nguội bớt cho nhờ với ... là sự đối lập giữa một quá khứ rất ngọt ngào, đầm ấm cùng
anh chồng “mủ mỉ ít nói hay cười yêu chiều vợ con” với thực tại xám ngoét của một
người đàn bà bị chồng phụ rẫy khi một ngày nọ “cơn lốc mang tên Bội Bạc cuốn anh ta
đi mất” [6, tr. 142]...
Tản văn Nguyễn Ngọc Tư cũng mang đậm chất điện ảnh. Bến cũ, Chút tình sông nước,
Bên sông... là những gam màu thật tươi, những cận cảnh bất ngờ, nhiều chi tiết làm
người đọc thẫn thờ trong cái nhìn của một nhà điện ảnh. Bên cạnh đó, nhiều sáng tác
của chị nghe như một bản nhạc, như một bài vọng cổ cất lên rồi kết thúc nó bằng một
nốt trầm, một sự lửng lơ.
NGUYỄN THỊ QUỲNH NHƯ
46
4. Trong đời sống văn học hôm nay, cùng với sự sôi động của đời sống báo chí, khi độc
giả có xu hướng đọc nhanh, đọc nhiều thì tản văn được chú ý là điều tất nhiên. Với
Nguyễn Ngọc Tư, đây là một địa hạt khác trên con đường văn chương của chị. Không
ồn ào, phô trương, không màu mè, tô vẽ, tản văn Nguyễn Ngọc Tư đã đi vào lòng người
đọc bằng tất cả sự nhẹ nhàng, tinh tế, bằng chất “quặng” của một tâm hồn nhân hậu, ấm
áp và thấm đẫm tình người.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1] Lê Trà My (2006). Tản văn, một thể loại của văn xuôi hiện đại. Nghiên cứu văn học
(3).
[2] Hoàng Ngọc Hiến (1998). Năm bài giảng về thể loại. NXB Giáo dục, Hà Nội.
[3] Nguyễn Ngọc Tư (2007). Ngày mai của những ngày mai. NXB Phụ nữ.
[4] Nguyễn Ngọc Tư (2008). Sống chậm thời @ (in chung với Lê Thiếu Nhơn). NXB
Phụ nữ.
[5] Nguyễn Ngọc Tư (2009). Tạp văn Nguyễn Ngọc Tư. NXB Trẻ.
[6] Nguyễn Ngọc Tư (2009). Yêu người ngóng núi. NXB Trẻ.
Title: EXCELLENT FEATURES IN LITERATURE DISSIPATION OF NGUYEN NGOC TU
Abstract: Along with short stories, Nguyen Ngoc Tu also expressed in power dissipation text
editor. With this category, Nguyen Ngoc Tu was also confirmed that style. Hiking is an
independent literary genre, including prose writings brief, implicitly discuss social issues and
human beings. There, political as well as feelings of writers to express directly. With this type
of order, reflecting the author has implemented multi-dimensional, while they can show up
experimental meditations, philosophical issues of life perhaps, perhaps people. With Nguyen
Ngoc Tu, who added a reading I always wondered, thinking, first tormented life. On the mode
of expression, Nguyen Ngoc Tu was using a flexible method of player opposition, comparison,
association with a combination of different types of music, painting, cinema, and theater ...
order to increase efficiency in the transfer of emotional writer.
NGUYỄN THỊ QUỲNH NHƯ
Trường THCS Hải Trường - Hải Lăng - Quảng Trị.
ĐT: 0905.193441. Email: quynhnhuhl@gmail.com.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 18_270_nguyenthiquynhnhu_08_nguyen_thi_quynh_nhu_464_2021118.pdf