Đối chiếu biện pháp tu từ ngoa dụ trong thành ngữ Tiếng hán và Tiếng việt - Nguyễn Thị Khánh Vân

4. KẾT LUẬN Qua những phân tích cho thấy, biện pháp tu từ ngoa dụ được sử dụng khá nhiều trong thành ngữ tiếng Hán và tiếng Việt. Từ việc khảo sát 100 câu thành ngữ ngoa dụ tiếng Hán và 100 câu thành ngữ ngoa dụ tiếng Việt, bài báo đã đưa ra được những kết quả nghiên cứu bước đầu về sự tương đồng và khác biệt trên bình diện cấu trúc và đặc điểm ngữ nghĩa. Điểm khác biệt lớn nhất đó là các tầng nét ngữ nghĩa trong thành ngữ ngoa dụ tiếng Hán và tiếng Việt. Nếu như thành ngữ tiếng Việt thường dùng những từ ngữ chỉ bộ phận cơ thể bên trong, những con số nhỏ hay những hiện tượng thiên nhiên gắn với việc đồng áng để diễn tả ước muốn, tình cảm nội tâm của con người thì ngược lại, đa số thành ngữ tiếng Hán luôn vận dụng những từ ngữ chỉ các bộ phận cơ thể bên ngoài, những con số lớn hay những hiện tượng thiên nhiên hùng vĩ để thể hiện sức mạnh siêu nhiên của con người. Tuy chưa thật toàn diện nhưng có thể xem đó là cơ sở để chúng tôi tiếp tục nghiên cứu những nội dung trên với cấp độ sâu hơn. Từ đó có thể tìm ra những nội dung mới tiếp theo trong thành ngữ tiếng Hán, tiếng Việt nói chung cũng như thành ngữ sử dụng biện pháp tu từ ngoa dụ trong tiếng Hán và tiếng Việt nói riêng.

pdf8 trang | Chia sẻ: thucuc2301 | Lượt xem: 629 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đối chiếu biện pháp tu từ ngoa dụ trong thành ngữ Tiếng hán và Tiếng việt - Nguyễn Thị Khánh Vân, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tạp chí Khoa học và Giáo dục, Trường Đại học Sư phạm Huế ISSN 1859-1612, Số 02(34)/2015: tr. 80-87 ĐỐI CHIẾU BIỆN PHÁP TU TỪ NGOA DỤ TRONG THÀNH NGỮ TIẾNG HÁN VÀ TIẾNG VIỆT NGUYỄN THỊ KHÁNH VÂN Trường Đại học Ngoại ngữ - Đại học Huế Tóm tắt: Qua khảo sát 200 câu thành ngữ sử dụng biện pháp tu từ ngoa dụ, bài báo đã đối chiếu và đưa ra một số nhận xét về sự tương đồng và khác biệt của biện pháp tu từ ngoa dụ trong thành ngữ tiếng Hán và tiếng Việt trên các bình diện kết cấu, đặc điểm ngữ nghĩa nhằm giúp cho việc vận dụng trong nghiên cứu, giảng dạy và học tập tiếng Trung được tốt hơn. Từ khóa: thành ngữ, tu từ, ngoa dụ 1. ĐẶT VẤN ĐỀ Ngôn ngữ là tài sản lâu đời và vô cùng quý báu của mỗi dân tộc. Mọi tinh hoa về văn hóa, kinh nghiệm trong lao động sản xuất của mỗi đất nước đều được đúc kết và tái hiện thông qua ngôn ngữ. Sự độc đáo của ngôn ngữ không chỉ thể hiện thông qua tầng nghĩa của từng con chữ mà còn được thể hiện qua cách phối hợp sử dụng các phương tiện ngôn ngữ hay nói đúng hơn là các biện pháp tu từ. Có rất nhiều biện pháp tu từ, có thể kể đến như biện pháp tu từ so sánh, ẩn dụ, ngoa dụ, đối xứng trong đó biện pháp tu từ ngoa dụ thường được nhắc đến như là đỉnh cao của việc sử dụng ngôn từ nhằm tạo ra tác dụng gợi hình, gợi cảm, nhấn mạnh, nổi bật ý nghĩa của lời nói. Hiện nay có rất nhiều công trình nghiên cứu biện pháp tu từ ngoa dụ trong các lĩnh vực đời sống hàng ngày, trong ngôn ngữ chính luận, trong ca dao hay văn thơ trữ tình; song chưa có công trình nghiên cứu về biện pháp tu từ ngoa dụ trong thành ngữ giữa tiếng Hán và tiếng Việt theo phương pháp đối chiếu. Vì vậy, trong phạm vi nghiên cứu của bài báo này, chúng tôi tập trung “Đối chiếu sự tương đồng và khác biệt của biện pháp tu từ ngoa dụ trong thành ngữ tiếng Hán và tiếng Việt” trên bình diện cấu trúc và đặc điểm ngữ nghĩa. 2. BIỆN PHÁP TU TỪ NGOA DỤ TRONG TIẾNG HÁN VÀ TIẾNG VIỆT 2.1. Biện pháp tu từ ngoa dụ trong tiếng Hán Trong tiếng Hán, biện pháp này gọi là khoa trương, tức cố ý nói quá sự thật, miêu tả khuyếch đại hay thu nhỏ đối với người hay sự vật khách quan. Biện pháp khoa trương được phân thành 3 loại cơ bản: khuyếch đại, thúc tiểu và siêu tiền[7]. - Khoa trương khuyếch đại tức cố ý tả một sự vật bình thường trở nên lớn, nhiều, nhanh, cao, dài, mạnh. Ví dụ: 隔壁千家醉, Cách vách thiên gia túy, 开坛十里香 。 Khai hũ thập lí hương. (Vị rượu đậm đà đến mức khiến người ngàn nhà đều say, hương rượu thơm đến mức vừa mở hũ đã khiến người trong mười dặm đều ngửi thấy). Như vậy, sự thơm ngon của ĐỐI CHIẾU SỰ TƯƠNG ĐỒNG VÀ KHÁC BIỆT CỦA BIỆN PHÁP TU TỪ NGOA DỤ... 81 vị rượu và hương rượu ở đây được miêu tả một cách quá lời khi chưa uống mà đã có thể khiến người ngàn nhà đều say và người trong mười dặm đều ngửi thấy. - Khoa trương thúc tiểu tức cố ý tả một sự vật bình thường trở nên nhỏ, ít, chậm, thấp, ngắn, yếu. Ví dụ: 可是当兵一当三四年,打仗总打了百十回吧,身上一根汗毛也没碰断。刘白羽 《无敌三勇士》) Làm lính đã ba bốn năm rồi, chiến đấu đã hơn trăm trận rồi, trên người một sợi lông tơ cũng chưa hề đứt. (Lưu Bạch Vũ – Tam dũng sĩ vô địch) Cách miêu tả công cuộc đánh trận vô cùng gian nan, hàng trăm trận mà đến một sợi lông tơ cũng chưa hề đứt thì quả là vô cùng phi lý. - Khoa trương siêu tiền tức trong hai sự việc, cố ý nói sự việc xuất hiện sau thành sự việc xuất hiện trước hoặc đồng thời xuất hiện. 农民们都说:看见这样鲜绿的苗,就嗅出白面包的香味儿来了。 Người nông dân thường nói: trông thấy mạ xanh tươi như thế, đã ngửi thấy mùi thơm của bánh bao rồi. Cây mạ đang còn xanh, chưa phát triển thành cây lúa để gặt mà người nông dân đã ngửi thấy mùi thơm của bánh bao rồi. Đây chính là thủ pháp thể hiện cảm xúc liên tưởng của người nông dân khi nghĩ đến thành quả sau này. 2.2. Biện pháp tu từ ngoa dụ tiếng Việt Trong tiếng Việt, biện pháp này còn được gọi là phóng đại, khoa trương hay thậm xưng. Tác giả Cù Đình Tú trong “Phong cách học và đặc điểm tu từ Tiếng Việt” cho rằng: khoa trương là cách tu từ dùng sự cường điệu qui mô của đối tượng được miêu tả so với những biểu hiện bình thường nhằm mục đích nhấn mạnh ý và làm nổi rõ bản chất của hiện tượng [5]. Ví dụ: “Bông chi thơm lạ thơm lùng Thơm cây thơm rễ, người trồng cũng thơm.” (Ca dao) Trong “Phong cách học Tiếng Việt hiện đại”, tác giả cho rằng khoa trương hay phóng đại là biện pháp nói giảm hay nói quá sự thật nhằm diễn tả sự vật hiện tượng dưới cái nhìn châm biếm hoặc hi vọng khách quan [2]. Ví dụ: Lỗ mũi mười tám gánh lông Chồng yêu chồng bảo râu rồng trời cho (Ca dao) Ngoa dụ có thể là nêu một sự vật, hiện tượng trái quy luật, phi thực tế để làm tăng sự phủ định: “Bao giờ cây cải làm đình Gỗ lim thái ghém thì mình lấy ta.” (Ca dao) Ngoa dụ được sử dụng trong một hình thức cô đúc mà nói lên được những cảm xúc mạnh mẽ: “Đau lòng kẻ ở người đi, NGUYỄN THỊ KHÁNH VÂN 82 Lệ rơi thấm đá, tơ chia rũ tằm.” (Nguyễn Du – Truyện Kiều) Sử dụng hình thức đối lập: giọt “lệ” - một chất lỏng, mềm mà có thể ngấm được vào “đá” – một vật rắn và cứng, tạo nên hình ảnh, sự liên tưởng mạnh mẽ về một nỗi đau thâm trầm, không thể nói nên lời. Ngoa dụ dùng để nói cho vui, cười trong chốc lát. Ví dụ như: “Cô gái Sơn Tây, yếm thủng tay giần, Răng đen hạt nhót, chân đi cù lèo. Tóc rễ tre chải lược bờ cào, Xù xì da cóc, hắc lào tứ tung. Trên đầu chấy rận như sung” (Ca dao) Như vậy, ngoa dụ có thể được hiểu là một cách nói quá, cường điệu về quy mô, tính chất, mức độ của sự vật, hiện tượng được miêu tả nhằm làm nổi bật ý cần diễn đạt. Tuy phi lý nhưng vẫn có thể chấp nhận được bởi mục đích chính là nhằm biểu đạt, chuyển tải nhận thức cũng như cảm xúc của người nói và người viết. 3. SỰ TƯƠNG ĐỒNG VÀ KHÁC BIỆT CỦA BIỆN PHÁP TU TỪ NGOA DỤ TRONG THÀNH NGỮ TIẾNG HÁN VÀ TIẾNG VIỆT 3.1. Sự tương đồng 3.1.1. Tương đồng về cấu trúc Biện pháp tu từ ngoa dụ trong thành ngữ tiếng Hán và tiếng Việt có sự tương đồng khá lớn về mặt cấu trúc. Trong thành ngữ ngoa dụ thường xuất hiện hai sự vật, hiện tượng hay hành động trong một câu. Nếu như gọi A và B là những sự vật, hiện tượng hay hành động không cùng loại nhưng cùng tồn tại một dấu hiệu chung nào đó, ta có một số dạng cấu trúc mang nét tương đồng như sau: 3.1.1.1. Thành ngữ ngoa dụ sử dụng kết cấu từ so sánh Thành ngữ ngoa dụ trong tiếng Hán thường dùng các từ so sánh 如 (như) hoặc 若 (nhược), tạo thành biểu thức A 如 /若 B (A như B) Ví dụ: 日月如梭 (Nhật nguyệt như thoi) : Ngày tháng như thoi 泪如雨下 (Lệ như vũ hạ) : Nước mắt như mưa 口若悬河 (Khẩu nhược huyền hà) : Miệng như nước chảy xiết 寥若晨星 (Liêu nhược thần tinh) : Ít/ thưa như sao hôm Thành ngữ ngoa dụ trong tiếng Việt cũng thường dùng các từ so sánh như: như, bằng Ví dụ: Ngáy như sấm, Đẹp như tiên, Gan bằng sắt, Coi trời bằng vung 3.1.1.2. Thành ngữ ngoa dụ không sử dụng kết cấu từ so sánh Thành ngữ ngoa dụ tiếng Hán và tiếng Việt đều tồn tại loại thành ngữ mang ý so sánh nhưng không sử dụng từ ngữ so sánh để biểu thị. Ví dụ như: ĐỐI CHIẾU SỰ TƯƠNG ĐỒNG VÀ KHÁC BIỆT CỦA BIỆN PHÁP TU TỪ NGOA DỤ... 83 Trong tiếng Hán thường có các câu như: 人山人海 (Nhân sơn nhân hải): Người nhiều như núi cao biển lớn, 人声鼎沸 (Nhân thanh đỉnh phế): Tiếng Người như nước réo trong vạc. Trong tiếng Việt ta cũng thường gặp những câu như: Đau đứt ruột, Đau xé ruột. Nỗi đau ở đây được cường điệu hóa khiến cho cảm xúc nhân lên gấp bội, ví nỗi đau tựa như đứt ruột, xé ruột vậy. Tuy những câu thành ngữ trên không dùng từ so sánh nhưng sắc thái ngoa dụ trong câu vẫn không hề giảm. Ta vẫn nhận thấy như có sự ngầm so sánh ở đây đồng thời mức độ biểu cảm vẫn được thể hiện rất cao, khiến người nghe vẫn cảm nhận được sự đau rất lớn. 3.1.1.3. A và B đều là cụm chủ vị Ta có thể dễ dàng gặp dạng thành ngữ ngoa dụ loại này trong tiếng Hán, ví dụ: 地老天 荒(Địa lão thiên hoang), 天翻地覆”(Thiên phan địa phúc). Trong thực tế chưa ai từng thấy đất già trời hoang hay trời chuyển đất lật. Tương tự, thành ngữ ngoa dụ trong tiếng Việt cũng có một số câu như: Mình đồng da sắt, Non mòn biển cạn. Cơ thể con người luôn bằng da bằng thịt chứ không thể bằng kim loại đồng hay sắt được, hay núi không thể mòn và biển cũng không bao giờ cạn. Đây chỉ là cách nói quá về sự vật hiện tượng nhằm truyền tải ý nghĩa của lời nói. 3.1.1.4. A và B đều là cụm động tân (trong tiếng Hán) / động bổ (trong tiếng Việt) Một trong những dạng cấu trúc xuất hiện nhiều nhất trong thành ngữ ngoa dụ đó là dạng động từ kết hợp với tân ngữ ở tiếng Hán hay động từ kết hợp với bổ ngữ ở tiếng Việt. Ví dụ như: Thành ngữ tiếng Hán có các câu: 闭月羞花 (Bế nguyệt tu hoa): Trăng mờ hoa thẹn, 沉鱼落雁 (Trầm ngư lạc nhạn): Chim sa cá lặn. Trong thành ngữ tiếng Việt cũng thường có các câu như: Cháy ruột bầm gan, Đội mưa đội gió, Miệng ăn núi lở... 3.1.1.5. Thành ngữ ngoa dụ có sử dụng con số Trong thành ngữ tiếng Hán có một số như: 罪该万死 (Tội cái vạn tử): Tội đáng muôn chết, 十年树木,百年树人 (Thập niên thụ mục, bách niên thụ nhân): Mười năm trồng cây, trăm năm trồng người Ở đây từ “Vạn tử” cho thấy sự to lớn của tội ác, “Bách niên” cường điệu việc khó khăn “thụ nhân”. Tiếng Việt cũng có những thành ngữ tương tự như: Xa xôi nghìn trùng, trăm phát trăm trúng,... Có thể thấy, những con số “nghìn”, “trăm”, trong thành ngữ đa phần đều dùng để nói quá tính chất của sự vật. Ngoài ra, con số nhỏ cũng được dùng để khoa trương, ví dụ: (Nhất tự thiên kim): Một chữ ngàn vàng, 寸步不离 (Thốn bộ bất li): Một tấc không rời. Thành ngữ tiếng Việt cũng có câu: Một chữ ngàn vàng, Một bước khó nhích, Một tay che trời, ... 3.1.2. Tương đồng về đặc điểm ngữ nghĩa Xét 100 câu thành ngữ ngoa dụ tiếng Hán và 100 câu thành ngữ ngoa dụ tiếng Việt, ta thu được kết quả về đặc điểm ngữ nghĩa như sau: (Xem bảng sau) NGUYỄN THỊ KHÁNH VÂN 84 Bảng so sánh về tỉ lệ ngữ nghĩa của thành ngữ ngoa dụ tiếng Hán và tiếng Việt Đặc điểm ngữ nghĩa Tiếng Hán (100 câu) Tiếng Việt (100 câu) Số lượng Tỉ lệ (%) Số lượng Tỉ lệ (%) 1. Hoạt động, hành vi 38 38 43 43 2. Trạng thái tâm lý tình cảm 40 40 48 48 3. Khác 22 22 09 9 Các phạm trù ngữ nghĩa có các yếu tố ngoa dụ: - Bộ phận cơ thể 15 15 56 56 - Con số 20 20 04 4 - Hiện tượng tự nhiên 31 31 19 19 Qua bảng thống kê trên, ta có thể thấy, thành ngữ ngoa dụ tiếng Hán và tiếng Việt đều có khả năng biểu thị nhiều tầng ngữ nghĩa như nhau, chủ yếu cùng biểu hiện qua 2 phạm trù ngữ nghĩa chính: thành ngữ ngoa dụ biểu thị hoạt động, hành vi như: 死去活 来 (Tử khứ hoạt lai): chết đi sống lại, 胆大包天 (Gan đại bao thiên): gan to ôm trời, Trẻ không tha, già không thương hay Giấu voi ruộng rạ; và thành ngữ ngoa dụ biểu thị trạng thái tâm lý tình cảm như: 十万火急 (Thập vạn hỏa cấp): vô cùng khẩn cấp, 千钧 一发 (Thiên cân nhất phát): ngàn cân treo sợi tóc, Nóng lòng sốt ruột, Tay đứt ruột xót. Ngoài ra còn có ngữ nghĩa của các yếu tố trong thành ngữ ngoa dụ đó là: yếu tố chỉ bộ phận cơ thể, ví dụ:, 一手遮天 (Nhất thủ già thiên): một tay che trời, 一目了然 (Nhất mục liễu nhiên): Liếc qua hiểu liền, Bầm gan tím ruột, Gan đồng dạ sắt; yếu tố chỉ con số như: 三头六臂 (Tam đầu lục tí): ba đầu sáu tay, 千艰万难 (Thiên gian vạn nan): Muôn phần khó khăn, Ba bề bốn biển, Năm thê bảy thiếp; yếu tố chỉ các hiện tượng thiên nhiên như: 山穷水尽 (Sơn cùng thủy tận): Núi dừng nước cạn, 翻江倒海 (Phiên giang đảo hải): Lật sông đổ bể, Ăn gió nằm sương, Sông cạn đá mòn. Trong đó loại thành ngữ biểu thị trạng thái tâm lý tình cảm trong mỗi ngôn ngữ chiếm tỉ lệ nhiều nhất (tiếng Hán: 40%, tiếng Việt 48%), rồi đến thành ngữ biểu thị hoạt động, hành vi (tiếng Hán 38%, tiếng Việt 43%), và sau cùng là những thành ngữ khác (tiếng Hán 22%, tiếng Việt 9%). 3.2. Sự khác biệt 3.2.1. Sự khác biệt về cấu trúc Bên cạnh sự tương đồng bao giờ cũng tồn tại sự khác biệt. Tuy vậy, sự khác biệt về cấu trúc của hai loại thành ngữ ngoa dụ Hán và Việt thực tế không nhiều bởi cơ chế để tạo ra biện pháp ngoa dụ thông thường là phóng đại sự thật. Theo kết quả khảo sát có thể nhận thấy sự khác biệt về cấu trúc của loại thành ngữ ngoa dụ này trong tiếng Hán và tiếng Việt đó là: thành ngữ ngoa dụ trong tiếng Việt phần lớn sử dụng những từ ngữ vốn mang ý nghĩa phóng đại, có khả năng thay thế các phó từ rất, quá, lắm mà lại có thể kết hợp biểu thị sự đánh giá chủ quan và đồng thời gây tác động mạnh. Ví dụ như: vô cùng khẩn cấp, quý hơn vàng, Thành ngữ ngoa dụ dùng những từ ngữ phóng đại (bao gồm cả đặc trưng, quán ngữ) phần lớn mang nội dung miêu tả các tác động trực tiếp tới tâm ĐỐI CHIẾU SỰ TƯƠNG ĐỒNG VÀ KHÁC BIỆT CỦA BIỆN PHÁP TU TỪ NGOA DỤ... 85 lí, tình cảm và bộ phận cơ thể con người. Ví dụ: bầm gan tím ruột, sôi gan nổi mật, sốt ruột sốt gan, Đối với hình thức sử dụng yếu tố từ ngữ phóng đại như thế này, chúng tôi chưa khảo sát thấy trong thành ngữ ngoa dụ tiếng Hán. 3.2.2. Sự khác biệt về đặc điểm ngữ nghĩa Từ kết quả khảo sát bảng trên, ta có thể thấy, thành ngữ ngoa dụ biểu thị trạng thái tâm lý tình cảm của tiếng Việt nhiều hơn trong tiếng Hán (8 câu, chiếm 8%); thành ngữ ngoa dụ biểu thị hoạt động, hành vi trong tiếng Việt cũng nhiều hơn trong tiếng Hán (5 câu, chiếm 5%) nhưng các thành ngữ khác trong tiếng Việt lại ít hơn trong tiếng Hán (13 câu, chiếm 13%); đáng chú ý là thành ngữ ngoa dụ có yếu tố chỉ bộ phận cơ thể của tiếng Việt chiếm số lượng nhiều hơn trong tiếng Hán rất nhiều (41 câu, chiếm 41%); ngược lại, thành ngữ ngoa dụ có yếu tố chỉ con số của tiếng Việt lại ít hơn trong tiếng Hán (16 câu, chiếm 16%) và thành ngữ có yếu tố chỉ hiện tượng thiên nhiên trong tiếng Việt cũng ít hơn trong tiếng Hán (12 câu, chiếm 12%). Qua khảo sát cho thấy, thành ngữ ngoa dụ có yếu tố chỉ bộ phận cơ thể trong tiếng Việt chiếm tỉ lệ rất lớn, những bộ phận cơ thể thường dùng phải kể đến: đầu, cổ, vai, chân, tay, gan, ruột, bụng, dạ, lòng, xương, cốt, tủy, mật, mặt, da, mồm, miệng, tóc, trong đó: gan, ruột, dạ là những bộ phận có tần số xuất hiện nhiều nhất: gan (26 lần), ruột (20 lần), dạ (11 lần). Điều này cho thấy người Việt thường mượn những bộ phận bên trong cơ thể để tạo nên những thành ngữ ngoa dụ thể hiện sâu hơn những suy nghĩ hay trạng thái tinh thần của mình. Những suy nghĩ hay trạng thái tinh thần ở đây thường vượt quá sức tượng tượng, vượt quá sức chịu đựng của con người. Ví dụ như thể hiện sự đau đớn, xót xa tột độ: Xé ruột xé gan, Đứt ruột đứt gan, Đứt ruột cháy gan; thể hiện sự căm phẫn, uất ức đến tột cùng: Thâm/Bầm gan tím ruột, Tím ruột tím gan, Sôi gan nổi mật; hay thể hiện tâm trạng quá lo lắng, bồn chồn, bị giày vò trong lòng: Cháy ruột cháy gan, Cháy gan cháy ruột, Cháy lòng cháy ruột, Nát ruột nát gan, Nẫu ruột nẫu gan; khi thể hiện tâm địa độc ác, nham hiểm, tàn nhẫn, không có lương tâm: Lòng lang dạ sói, Lòng lang dạ thú, Mặt người dạ thú, Mặt người dạ sói; thể hiện sự cứng rắn, kiên định, không gì lay chuyển được: Lòng gang dạ đá, Lòng lim dạ sắt Ngược lại, thành ngữ ngoa dụ tiếng Hán chỉ sử dụng một số ít từ ngữ chỉ bộ phận cơ thể như: tay, vai, đầu, cánh tay, tai, mắt, chân, long mày, miệng để diễn tả tài năng ngoài sức tưởng tượng của con người. Ví dụ như: 一手遮天 (Nhất thủ giá thiên): một tay che trời, 三头六臂 (Tam đầu lục tí): ba đầu sáu tay, 只手遮天 (Chi thủ giá thiên): cánh tay lấp trời, 一目了然 (Nhất mục liễu nhiên): Liếc mắt hiểu liền, 不胫而走 (Bất kinh dĩ tẩu): không chân mà chạy Qua đây cho thấy con người luôn có mong muốn có được một thế lực siêu nhiên để làm chủ cuộc sống, để khuất phục thiên nhiên. Từ đó nhận thấy: nếu như thành ngữ ngoa dụ tiếng Việt chú trọng sử dụng những bộ phận bên trong cơ thể thì thành ngữ ngoa dụ trong tiếng Hán lại thích dùng những bộ phận bên ngoài cơ thể. Nếu như ý nghĩa của thành ngữ ngoa dụ trong tiếng Việt là muốn diễn tả nội tâm sâu xa của con người thì thành ngữ ngoa dụ trong tiếng Hán lại nói đến sức mạnh siêu phàm của con người. Đây chính là những nét khác biệt chính của thành ngữ ngoa dụ tiếng Hán và tiếng Việt. NGUYỄN THỊ KHÁNH VÂN 86 Xét thành ngữ ngoa dụ có yếu tố chỉ con số, trong tiếng Việt ngoài những con số lớn thể hiện qua các thành ngữ như: trăm đắng nghìn cay, trăm công nghìn việc, muôn hình vạn trạng, hằng hà sa số, thường là những con số nhỏ kết hợp với nhau như: số 3, số 4, số 6, số 8 để nhấn mạnh sự phi lí. Thông qua sự kết hợp phi lí đó để chỉ thần thánh khó tin, hay thể hiện sự luống cuống, hấp tấp, khó thành, ví dụ như: ba chân bôn cẳng, Ba đầu sáu tay, Ba chân tám cẳng, Ngược lại, thành ngữ ngoa dụ trong tiếng Hán vừa dùng những con số nhỏ vừa dùng những con số lớn như: số 1, số 3, số 4, số 10, trăm, nghìn, vạn. Trong đó, con số hàng trăm, nghìn, vạn được sử dụng nhiều nhất, thông qua những con số lớn ấy, người dân Trung Hoa muốn tăng thêm sự phi lí, có thể là sự vĩnh cửu về mặt thời gian, ví dụ như: thể hiện quan hệ hữu nghị bền vững có câu 万古长青 (Vạn cổ trường thanh), hay thể hiện sự trường thọ có câu 长命百岁(Trường mệnh bách tuế), thể hiện sự chính xác đến khó tin như: 百发百中 (Bách phát bách trúng), hoặc là sự thể hiện tột độ của sự việc nói đến, ví dụ như vô cùng nguy hiểm: 千艰万险 (Thiên nạn vạn hiểm); vô cùng khó khăn: 千艰万难 (Thiên nan vạn nạn), Những con số được sử dụng ở đây thường là những con số rất lớn, điều này có tác dụng dễ dàng phóng đại sự thật, nhằm đạt được mục đích của biện pháp ngoa dụ. Đối với thành ngữ ngoa dụ có yếu tố chỉ hiện tượng thiên nhiên, ta thấy rõ thành ngữ trong tiếng Hán nhiều hơn trong tiếng Việt. Điều này có thể lí giải bởi diện tích lãnh thổ Trung Quốc rộng lớn, kéo dài từ dải cận nhiệt đới đến ôn đới, do đó những hiện tượng thiên nhiên được phản ánh trong thành ngữ trở nên phong phú là điều dễ hiểu. Những hiện tượng thường dùng đó là: sông, núi, biển, trời, đất, mây, mưa, trong đó yếu tố trời và núi được sử dụng nhiều nhất: trời (12 lần), núi (12 lần). Trời và núi đều là những yếu tố thể hiện những hiện tượng thiên nhiên to lớn, hùng vĩ nên rất phù hợp để con người vận dụng thể hiện sức mạnh phi thường của con người như: 改天换地 (Cải thiên hóa địa): thay trời đổi đất, 举鼎拔山 (Cử đỉnh bạt sơn): nhấc đỉnh dời núi, 怒气冲天 (Nộ khí xung thiên): tức giận ngất trời, 怒气冲云 (Nộ khí xung vân): tức giận lên mây, 翻江倒海 (Phiên giang đáo hải): lật sông đổ bể, 顶天立地 (Đỉnh thiên lập địa): dựng trời lập đất, Trong khi đó, thành ngữ ngoa dụ trong tiếng Việt cũng sử dụng những từ ngữ chỉ hiện tượng thiên nhiên nhưng phần lớn là: đất, gió, sương, mưa, sóng, biển, đất, trời, sông, núi, trong đó đất, trời, gió, sương là những yếu tố được sử dụng nhiều hơn cả bởi đây là những yếu tố rất quan trọng đối với công việc đồng áng của người nông dân. Những yếu tố thuận lợi của đất, trời, gió, sương đều là điều mà nông dân muôn đời mong muốn. Do vậy những yếu tố thiên nhiên này đã đi vào thành ngữ ngoa dụ Việt, cho thấy sự vất vả, khó khăn vô cùng của người nông dân trong cuộc sống: Ăn đất nằm sương, Ăn gió nằm mưa, Ăn gió nằm sương, Gối đất nằm sương, Gội gió tắm mưa, Nước mắt như mưa; bên cạnh đó người dân cũng mượn những yếu tố trời, đất để thể hiện sức mạnh, sự vùng dậy vượt qua gian khổ của cuộc sống: Đội trời đạp đất, Đạp đất đội trời , Dời non lấp biển, Vá trời lấp biển v.v Như vậy, ngoài sự giống nhau trong việc thể hiện sức mạnh phi thường của con người nhỏ bé trước thiên nhiên, thành ngữ ngoa dụ trong tiếng Việt còn phản ánh sự gian khó, vất vả trong cuộc sống của người dân. Điều này chưa khảo sát ĐỐI CHIẾU SỰ TƯƠNG ĐỒNG VÀ KHÁC BIỆT CỦA BIỆN PHÁP TU TỪ NGOA DỤ... 87 thấy trong thành ngữ ngoa dụ tiếng Hán. Đây chính là nét khác biệt về mặt ngữ nghĩa đáng chú ý của thành ngữ ngoa dụ giữa hai ngôn ngữ Hán và Việt. 4. KẾT LUẬN Qua những phân tích cho thấy, biện pháp tu từ ngoa dụ được sử dụng khá nhiều trong thành ngữ tiếng Hán và tiếng Việt. Từ việc khảo sát 100 câu thành ngữ ngoa dụ tiếng Hán và 100 câu thành ngữ ngoa dụ tiếng Việt, bài báo đã đưa ra được những kết quả nghiên cứu bước đầu về sự tương đồng và khác biệt trên bình diện cấu trúc và đặc điểm ngữ nghĩa. Điểm khác biệt lớn nhất đó là các tầng nét ngữ nghĩa trong thành ngữ ngoa dụ tiếng Hán và tiếng Việt. Nếu như thành ngữ tiếng Việt thường dùng những từ ngữ chỉ bộ phận cơ thể bên trong, những con số nhỏ hay những hiện tượng thiên nhiên gắn với việc đồng áng để diễn tả ước muốn, tình cảm nội tâm của con người thì ngược lại, đa số thành ngữ tiếng Hán luôn vận dụng những từ ngữ chỉ các bộ phận cơ thể bên ngoài, những con số lớn hay những hiện tượng thiên nhiên hùng vĩ để thể hiện sức mạnh siêu nhiên của con người. Tuy chưa thật toàn diện nhưng có thể xem đó là cơ sở để chúng tôi tiếp tục nghiên cứu những nội dung trên với cấp độ sâu hơn. Từ đó có thể tìm ra những nội dung mới tiếp theo trong thành ngữ tiếng Hán, tiếng Việt nói chung cũng như thành ngữ sử dụng biện pháp tu từ ngoa dụ trong tiếng Hán và tiếng Việt nói riêng. TÀI LIỆU THAM KHẢO [1] Võ Bình, Lê Anh Hiền (1983). Phong cách học – Thực hành tiếng Việt. NXB Giáo dục, Hà Nội. [2] Hữu Đạt (2001). Phong cách học Tiếng Việt hiện đại. NXB Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội. [3] Nguyễn Lực, Lương Văn Đang (1978). Từ điển Thành ngữ Tiếng Việt. NXB Khoa học Xã hội, Hà Nội. [4] Hoàng Văn Hành (2004). Thành ngữ học tiếng Việt. NXB Khoa học Xã hội, Hà Nội. [5] Cù Đình Tú (2007). Phong cách học và đặc điểm tu từ tiếng Việt. NXB Giáo dục, Hà Nội. [6] 周斌 (2004).《成语大辞典》,商务印书馆国际有限公司、北京。 [7] 凌耀章 (2007).《学生修辞手法词典》,四川辞书出版社、四川出版集团。 Title: COMPARING THE SIMILARITIES AND DIFFERENCES OF HYPERBOLE BETWEEN CHINESE AND VIETNAMESE IDIOMS Abstract: Through surveying two hundred idioms using hyperbole , the article gives some comments on the similarities and differences of the hyperbole used in the idioms of Chinese and Vietnamese in term of structural aspects, semantic features in order to apply in researching, teaching and learning Chinese better. Keywords: idioms, rhetoric, hyperbole ThS. NGUYỄN THỊ KHÁNH VÂN Khoa Tiếng Trung, Trường Đại học Ngoại ngữ - Đại học Huế

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdf27_442_nguyenthikhanhvan_13_le_thi_khanh_van_1206_2020370.pdf
Tài liệu liên quan