Những hoạt động của con người đã làm cho rất nhiều loài bị tuyệt chủng. Kể từ năm 1600 đến nay khoảng 21% các loài động vật và 1,3% các loài chim trên thế giới đã bị tuyệt chủng. Tốc độ tuyệt chủng của các loài trở nên ngày càng cao. Những loài còn sống sót thì cũng có nguy cơ đứng bên bờ của sự tuyệt chủng. Hơn 99% những sự tuyệt chủng thời cận đại là do con người gây ra .
Những loài sống trên các đảo đặc biệt rất dễ tuyệt chủng vì chúng chỉ sống được trên một hay một số ít hòn đảo. Mô hình sinh địa của đảo được sử dụng để dự báo rằng với tốc độ phá hủy nơi cư trú như hiện nay thì mỗi năm sẽ có 25.000 loài sẽ bị tuyệt chủng trong vòng 10 năm tới. Nhiều quần xã sinh học đang dần dần bị mai một bởi những sự tuyệt chủng cục bộ của loài.
31 trang |
Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 2641 | Lượt tải: 4
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Những mối đe doạ đối với đa dạng sinh học, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
nhân gây ra những sự tuyệt chủng khác do việc định cư ở Madagascar 500 năm trước công nguyên và đảo Chatham 1000 năm trước công nguyên. Sự định cư sớm của con người ở các đảo ngoài đại dương cũng đưa đến sự tuyệt chủng của 1/4 số loài chim đã tồn tại từ vài triệu năm trước đây .
Cuộc chiến giữa các loài bản địa và nhập nội
Vào thế kỷ 15 và 16, việc phổ cập toàn cầu văn hoá châu Âu cùng với các giống vật nuôi, cây trồng, cỏ dại, các dịch bệnh đã làm gia tăng việc huỷ diệt các loài động, thực vật trên các đảo và gây thêm sự đe doạ đối với các loài trên lục địa . Những thế kỷ sau đó, sự tăng trưởng của du lịch và thương mại xuyên đại dương đã dẫn đến việc lan truyền một số lượng lớn các loài đến các vùng mới trên trái đất và việc định cư của con người tại các đảo vốn không có người ở.
Từ năm 1840 đến 1880, hơn 60 loài thực vật đã được đưa vào Australia . Từ 1800 đến 1980, số lượng các loài côn trùng nhập nội và Mỹ tăng từ 36 lên tới 1200 loài .
Nhiều sự định cư của người châu Âu đã có tác động quan trọng đối với các loài động, thực vật bản địa .Ở Hawaii, các nhà thám hiểm châu Âu đặt chân đến đã mang theo các loài mèo, hai loài chuột mới, cú lợn, cầy ấn Độ nhỏ, và một số dịch bệnh của chim. Hai thế kỷ tiếp theo, sự phá huỷ nơi cư trú, dịch bệnh và việc săn bắn đã gây ra sự biến mất của 17 loài chim bản địa, làm suy giảm 31% tính đa dạng của khu hệ chim bản địa được xác định vào năm 400 trước công nguyên; nhiều loài giờ đang đứng ven bờ của sự tuyệt chủng.
Những người châu Âu đầu tiên đặt chân đến các đảo Mascarene không có người ở (Mauritius, Reunion và Rodrigues) vào đầu những năm 1500 đã đưa đến những đảo này lợn và khỉ. Vào giữa những năm 1600, người Hà Lan định cư trên các đảo, và trong 300 năm tiếp theo, 20 loài chim, gồm cả chim Dodo, và 8 loài bò sát đã biến mất. Tính nhạy cảm của các loài bản địa trên đảo được minh hoạ bởi sự huỷ diệt của chim hồng tước Stephen Island không biết bay, loài này đã bị con mèo duy nhất của người trông hải đăng ở một hòn đảo nhỏ ngoài khơi New Zealand săn đuổi đến tuyệt chủng
Các nguyên nhân trực tiếp và gián tiếp
Sự suy giảm đa dạng sinh học hiện nay có cả các nguyên nhân trực tiếp và gián tiếp. Các nguyên nhân trực tiếp bao gồm sự phá vỡ và mất nơi cư trú, sự xâm lấn của các sinh vật nhập nội, sự khai thác quá mức các nguồn tài nguyên sống, sự ô nhiễm, sự biến đổi khí hậu toàn cầu và các hoạt động nông nghiệp, công nghiệp, lâm nghiệp.
Nhưng đây không phải là bản chất của vấn đề. Kiệt quệ sự sống là một kết quả không thể tránh khỏi của các cách mà loài người đã và đang lạm dụng môi trường trong quá trình gia tăng sự thống trị của mình.
Khi con người nhận thức được sự phá huỷ của mình và sự phát triển không bền vững đang ngày càng tác động đến cuộc sống và tương lai của con người, thì việc nghiên cứu các hướng giải quyết sẽ phải tập trung vào chính loài người . Bản chất của sự khủng hoảng đa dạng sinh học là không nằm ngoài các khu rừng hay các thảo nguyên, mà gắn liền với cách mà chúng ta sống. Đó là sự gia tăng dân số loài người, là cách mà loài người ngày càng mở rộng nơi cư trú sinh thái của mình và sử dụng ngày càng nhiều năng suất sinh học của trái đất, là sự tiêu thụ không hợp lý và quá mức các nguồn tài nguyên thiên nhiên, liên tục giảm số lượng các sản phẩm thương mại có nguồn gốc từ nông nghiệp và ngư nghiệp, các hệ thống kinh tế thiếu sự định giá thích hợp cho môi trường, các cấu trúc xã hội không hợp lý, và những yếu kém trong hệ thống pháp lý và nhà nước. Đa dạng sinh học là một nguồn tài nguyên quan trọng cho phát triển bền vững, việc tìm kiếm những phương thức sống bền vững là rất cần thiết nếu muốn đa dạng sinh học được bảo tồn.
Các nguyên nhân suy giảm đa dạng sinh học
Loài có thể bị tiêu diệt do một loạt các ảnh hưởng và tác động của con người . Có thể chia thành 2 loại chính: trực tiếp (săn bắn, hái lượm, thuần hoá) và gián tiếp (phá huỷ và biến đổi nơi cư trú).
Săn bắn quá mức là một trong những nguyên nhân trực tiếp rõ ràng nhất gây nên sự tuyệt chủng của nhiều loài động vật, và ảnh hưởng đến một số loài thú lớn, nổi tiếng. Tuy nhiên, trong toàn bộ sự suy giảm đa dạng sinh học, chắc chắn nguyên nhân này không quan trọng bằng các nguyên nhân gián tiếp như phá huỷ và biến đổi nơi cư trú. Săn bắn chỉ ảnh hưởng chọn lọc đối với các loài đã hoặc đang là những nguồn tài nguyên có thể thu hoạch được, điều này rất quan trọng đối với quản lý các nguồn tài nguyên thiên nhiên.
Đa dạng di truyền, biểu hiện bởi sự khác biệt về gen di truyền giữa các quần thể riêng biệt của một loài hoang dã, có thể bị giảm sút do việc loài cùng chịu tác động của những nhân tố giống nhau . Đa dạng di truyền, biểu hiện qua các quần thể vật nuôi, cây trồng, có thể bị giảm sút do việc tạo ra một số lượng lớn; với mức độ đồng nhất cao .
Hầu như bất kỳ dạng hoạt động nào của con người cũng gây biến đổi môi trường tự nhiên. Sự biến đổi này sẽ tác động đến sự phong phú tương đối của loài và trong nhiều trường hợp đặc biệt sẽ dẫn đến sự tuyệt diệt. Kết quả này cũng có thể do nơi cư trú trở nên không thích hợp đối với loài (ví dụ, chặt sạch cây rừng hoặc ô nhiễm nước sông), hoặc do nơi cư trú bị phá vỡ. Ngoài ra còn có ảnh hưởng của sự chia cắt các quần thể loài liền kề trước đây thành các quần thể con nhỏ hơn. Nếu những quần thể này đủ nhỏ, cùng với sự thay đổi các tiến trình, sẽ đưa đến việc gia tăng xác suất tuyệt diệt trong một thời gian tương đối ngắn.
Một số nguyên nhân chính
Sự suy giảm đa dạng sinh học là một vấn đề đang được các nhà khoa học và các nhà hoạch định chính sách rất quan tâm. Các loài đang bị tuyệt chủng với tốc độ nhanh nhất được biết đến trong lịch sử địa chất và phần lớn những tuyệt chủng này là do các hoạt động của con người .
Mất và phá huỷ nơi cư trú: thường là kết quả trực tiếp do các hoạt động của con người và sự tăng trưởng dân số, là nguyên nhân chính dẫn đến sự suy giảm loài, quần thể và hệ sinh thái
Sự thay đổi trong thành phần hệ sinh thái: chẳng hạn như mất hoặc suy giảm của một loài có thể dẫn đến sự suy giảm đa dạng sinh học. Ví dụ, nỗ lực loại trừ chó sói châu Mỹ ở miền nam California dẫn đến viêck giảm sút các quần thể chim hót trong vùng. Khi quần thể chó sói châu Mỹ giảm sút, quần thể con mồi của chúng, gấu trúc Mỹ, sẽ tăng lên. Do gấu trúc Mỹ ăn trứng chim, nên khi số lượng chó sói ít hơn thì số lượng gấu trúc ăn trứng chim lại nhiều lên, kết quả là số lượng chim hót sẽ ít đi .
Sự nhập nội các loài ngoại lai: có thể phá vỡ toàn bộ hệ sinh thái và ảnh hưởng đến các quần thể động vật hoặc thực vật bản địa . Những kẻ xâm chiếm này có thể ảnh hưởng bất lợi cho các loài bản địa do quá trình sử dụng các loài bản địa làm thức ăn, làm nhiễm độc chúng, cạnh tranh với chúng hoặc giao phối với chúng.
Khai thác quá mức (săn bắn quá mức, đánh cá quá mức, hoặc thu hoạch quá mức) một loài hoặc một quần thể có thể dẫn tới sự suy giảm của loài hoặc quần thể đó.
Gia tăng dân số: Đe dọa lớn nhất đối với đa dạng sinh học là số lượng và tốc độ gia tăng dân số của loài người . Ngày lại ngày, ngày càng nhiều nhiều đòi hỏi ngày càng nhiều không gian sống, tiêu thụ ngày càng nhiều tài nguyên và tạo ra ngày càng nhiều chất thải trong khi dân số thế giới liên tục gia tăng với tốc độ đáng báo động.
Ô nhiễm do con người gây ra có thể ảnh hưởng đến mọi cấp độ của đa dạng sinh học.
Biến đổi khí hậu toàn cầu có thể làm thay đổi các điều kiện môi trường. Các loài và các quần thể có thể bị suy giảm nều chúng không thể thích nghi được với những điều kiện mới hoặc sự di cư.
Gia tăng dân số
Đe dọa lớn nhất đối với đa dạng sinh học là số lượng và tốc độ gia tăng dân số của loài người . Ngày lại ngày, ngày càng nhiều người, đòi hỏi ngày càng nhiều không gian sống, tiêu thụ ngày càng nhiều tài nguyên và tạo ra ngày càng nhiều chất thải trong khi dân số thế giới liên tục gia tăng với tốc độ đáng báo động.
Sự gia tăng dân số loài người sẽ làm giảm đa dạng sinh học theo các hướng sau:
Gây biến đổi nơi cư trú do sự phát triển nông nghiệp, đô thị, công nghiệp, và khai thác quá mức các nguồn tài nguyên thiên nhiên.
Gây ô nhiễm đất, nước, và không khí
Khai thác quá mức các nguồn tài nguyên làm giảm cả về kích cỡ và đa dạng di truyền của các quần thể loài thương mại, chẳng hạn như cá.
Nhập nội các loài ngoại lai làm phá huỷe các nguồn tài nguyên đất, nước và đôi khi còn đem đến cả những dịch bệnh cùng với những loài này . Ngoài ra, chúng có thể cạnh tranh với những loài động, thực vật bản địa về thức ăn và nơi cư trú. Một số loài động vật, như mèo và cáo, còn trực tiếp tiêu diệt các loài bản địa .
Gây ra sự ấm toàn cầu do tăng phát thải lượng cacbon dioxit và các khí khác vào khí quyển, chúng làm biến đổi các hệ sinh thái tự nhiên ở mọi nơi . Một trong các nguyên nhân của việc tăng mức cacbon dioxit là do đốt các nhiên liệu có nguồn gốc cacbon như than, dầu và gas.
Ảnh hưởng của ô nhiễm môi trường đối với đa dạng sinh học
Có rất nhiều tài liệu về sự hiện diện và ảnh hưởng của các chất gây ô nhiễm trong môi trường, nhưng rất ít nói đến ảnh hưởng của chúng đối với đa dạng sinh học, ngoại trừ một vài nhóm chất gây ô nhiễm. Để giúp cho các nghiên cứu trong tương lai và cho việc hoạch định chính sách, một khung phân loại các hợp chất nguy hại theo mức độ tác động tương đối của chúng đối với đa dạng sinh học đã được đề xuất.
Khung này dựa cơ sở trên hệ thống phân loại đất đã có của Canada, cùng với các ảnh hưởng nguy cấp và bất lợi tại các vùng sinh thái . ảnh hưởng đối với đa dạng sinh học được sắp xếp theo 3 cấp độ đa dạng sinh học - di truyền, quần thể và hệ sinh thái . Những đặc tính quan trọng ảnh hưởng đến tác động của một chất gây ô nhiễm tại một vùng sinh thái là tính chọn lọc, phạm vi phát tán và tính bền của nó.
Các tác động về mặt di truyền của các chất gây ô nhiễm là khó đánh giá nhất, bởi lẽ có rất ít những nghiên cứu về các ảnh hưởng này trong các quần thể tự nhiên. Thuốc trừ sâu rõ ràng tạo ra những biến đổi về gen di truyền, chẳng hạn như sự xuất hiện của các giống thực vật và động vật có tính đề kháng. Sự phát triển của tính đề kháng này có thể phải trả giá bằng sự suy giảm tính đa dạng, do làm giảm khả năng đề kháng của sinh vật đối với các tác nhân khác.
Đối với các tác động của các chất gây ô nhiễm lên quần thể, điểm khó là phân biệt chúng với các thay đổi bất thường tự nhiên. Ngoại trừ với một vài loài chim và thú, có rất ít những hiểu biết để có thể phân biệt được giữa hai biến đổi trên. Ảnh hưởng đối với hệ sinh thái của các chất gây ô nhiễm là sự thay đổi hướng phát triển của hệ sinh thái khác với hướng phải theo .
Một minh hoạ cho việc sắp xếp các nhóm chất gây ô nhiễm theo ảnh hưởng của chúng đối với đa dạng sinh học: hydrocacbon (đặc biệt là dầu thô), chất hữu cơ bị halogen hoá (thuốc trừ sâu và các chất khác như các hợp chất PCB), nuclit phóng xạ, chất axit lắng đọng, kim loại, chất dinh dưỡng, thuốc trừ sâu phi clo hữu cơ. Trong số này, chất axit lắng đọng và chất dinh dưỡng được xếp vào loại đe doạ nguy hiểm nhất đối với mức vùng sinh thái .
Sự biến đối khí hậu
Thực vật và động vật rất nhạy cảm với thời tiết. Khi thời tiết biến đổi, các loài không thể sống sót được ở một số vùng và sẽ di cư đến các vùng mới . Nếu không có vị trí nào thích hợp, loài sẽ bị tuyệt chủng khi không thể thích nghi kịp.
Khí hậu trong quá khứ đã có những thay đổi rất đột ngột. Những phản ứng của các quần xã sinh vật trước những biến đổi này đã được tìm hiểu qua việc phân tích các vòng tuổi cây, lõi băng, các trầm tích của phấn hoa, than chì, động vật không xương sống và các nguyên tố hoá học. Một số các biến đổi thời tiết bất ngờ, xảy ra trong một vài thập kỷ hoặc thế kỷ, một số trong đó có liên quan đến những thời kỳ có sự tuyệt chủng hàng loạt.
Những sự chuyển dịch quan trọng về ranh giới giữa các rừng lãnh nguyên và rừng phương bắc, giữa vùng rừng và vùng đồng cỏ, giữa vùng Hồ Lớn - rừng St. Lawrence và vùng rừng phương bắc đã xảy ra từ thời kỳ băng hà trước đây . Những sự chuyển dịch này tương ứng với những biến đổi khí hậu và có thể được coi là sự biểu hiện của các trường hợp biến đổi khí hậu toàn cầu .
Lửa là một sự xáo trộn có liên quan đến khí hậu, gây ra những biến đổi chính đối với các khu rừng ở phía bắc. Những trận cháy là công cụ để tạo nên hình dạng của thảm thực vật của vùng Quebec ở phía bắc, và những trận cháy này cũng có phần lớn nguyên nhân do khí hậu .
Khí hậu hiện nay, cùng sự thất thường và khắc nghiệt của nó, hiển nhiên có những ảnh hưởng đối với các hệ sinh thái . Ví dụ, mùa hè năm 1988, được chứng minh là một trong những trận hạn hán tồi tệ nhất trong lịch sử, đặc biệt ở các thảo nguyên của Canada, và số lượng chim nước đã giảm rất nhiều trong suốt thời kỳ khô hạn của những năm 1980. Gần đây, sự phóng xạ của các tia tử ngoại tăng lên do những biến đổi của tầng ô zôn trong tầng bình lưu đã được phát hiện, và đã có những chứng cứ ban đầu về gây tổn hại đối với mùa màng nông nghiệp, đối với thực vật, động vật ở các vùng đất ngập nước, các ao nông và các môi trường biển gần bờ.
Các nhà khoa học đã có những thống nhất chung về việc khí hậu toàn cầu sẽ ấm lên bởi sự tăng lên về nồng độ của các khí "nhà kính", như cacbon dioxit, metan, là kết quả các hoạt động của con người . Xu hướng ấm lên của khí hậu trong tương lai này làm gia tăng sự nghi ngờ về tính ổn định của nhiều quần xã sinh vật ở Canada và các hoạt động quản lý được tiến hành trong phạm vi tính biến thiên khí hậu hiện nay .
Các nghiên cứu trước mắt về các ảnh hưởng có thể của sự biến đổi khí hậu đối với các hệ sinh thái Canada đã đưa đến 2 kết luận chính. Thứ nhất, tốc độ dự đoán của quá trình ấm lên toàn cầu là tương đối nhanh, có thể so sánh với thời kỳ địa chất trước đây, kết quả gây thiệt hại trong phạm vi lớn đối các quần xã thực vật sinh trưởng chậm, không thể thích nghi trong cùng một khoảng thời gian. Ví dụ, vùng rừng phương bắc có thể mất đi một triệu cây số vuông. Thứ hai, cùng với sự ấm lên toàn cầu sẽ đưa đến sự thay đổi, thường là tăng, về tần số xuất hiện của những xáo trộn do khí hậu khắc nghiệt chẳng hạn như cháy, côn trùng, bệnh tật, hạn hán và sương giá. Các trường hợp này được cho rằng quan trọng hơn những biến đổi nhiệt độ trung bình toàn cầu trong những ảnh hưởng kết hợp đối với đa dạng sinh học.
Thay đổi khí hậu còn là phương tiện của sự phát tán các chất gây ô nhiễm. Sự ô nhiễm không khí một mình hoặc kết hợp với sự biến đổi khí hậu có khả năng gây ra những ảnh hưởng bất lợi cho đa dạng sinh học ở mọi cấp độ. Các ảnh hưởng này, không giống sự phá huỷ nơi cư trú, khó phát hiện, có mối tương quan với nhau và khó đánh giá. Axit lắng đọng là chất ô nhiễm không khí gây ra những biến đổi lớn nhất ở phạm vi rộng đối với đa dạng sinh học ở Canada . Những ảnh hưởng đối với đa dạng sinh học của những chất ô nhiễm không khí khác như ôzôn, nitrogen oxit, hợp chất hữu cơ dễ bay hơi, các hoá chất độc hại thường ít được biết đến.
4. Những hành động toàn diện để bảo tồn đa dạng sinh học
4.1 Xây dựng ngân hàng gen quốc gia
Công nghệ hiện nay cho phép bảo quản các loại hạt, mô của các loài cây, trừng, noãn và tinh trùng động vật ở nhiệt độ dưới 0 trong nhiều năm hoặc trong một vài trường hợp nhất định. Đây sẽ là sự lường trước sáng suốt thêm một khả năng thứ ba cho công tác bảo tồn và tạo nên ngân hàng gen cho các loài đặc sản hiếm.
Có một số nhu cầu rõ ràng là phải xác định một cơ quan có thẩm quyền nắm vai trò lãnh đạo trong lĩnh vực này, xây dựng một chiến lược bảo tồn ngân hàng gen quốc gia, chi phí hoạt động của chương trình và khuyến khích và theo dõi sự thực hiện một chiến lược như thế. Hoạt động này được mô tả trong dự án C1. Chương trình phải phối hợp chặt chẽ với những nỗ lực để tiến hành gây nuôi các loài hiếm, và không cần chuyển những nguồn tài nguyên từ những cố gắng bảo tồn nội vi . MOSTE đã có một cơ quan điều phối để bảo vệ tài nguyên gen di truyền. Một cơ quan tương tự cần có cho tài guyên động vật.
4.2 Bảo quản tính đa dạng sinh học trong nông nghiệp
Gia súc, hoa quả, rau và màu đã được xây dựng hàng trăm năm nay ở mọi miền của Việt Nam. Mỗi loài có một đặc thù riêng và ưu điểm riêng. Một số loài đã thích nghi với cuộc sống lạnh, khô, cao, đầm lầy hoặc các điều kiện địa phương đặc biệt khác, có một số loài rất cứng, một số loài khác sinh sản hoặc phát triển rất nhanh, một số loài vẫn còn trụ lại được đối với những loài sâu bệnh đặc biệt của địa phương, một số loài được chọn để đáp ứng những khẩu vị riêng. Nhìn chung, những loài đa dạng này là kết quả của kinh nghiệm chọn lựa trong ba nghìn năm thuần hoá ở Việt Nam. Chúng là những thành phần của đa dạng sinh học rất quan trọng đối với con người Việt Nam. Chúng rất quan trọng đối với sự tồn tại của loài người do cả đóng góp trực tiếp là lương thực, quần áo và nhiên liệu cũng như gián tiếp đóng góp vào nông nghiệp ổn định bằng việc sản xuất phân hoá học, kiểm soát bãi chăn thả và giúp cải tạo đất. Tuy nhiên, rất nhiều giống đang gặp nguy hiểm vì đang bị mất đi . Giống lợn bụng lang nổi tiếng của Việt Nam nay có vẻ thấy nhiều ở Anh và California hơn là ở trong những gia đình nông dân Việt Nam.
Để đáp ứng các nhu cầu bảo tồn những giống tăng gia truyền thống, được nhận biết ở Việt Nam. Những hoạt động nhằm vào duy trì cơ sở nuôi tạo hiện có cho đến khi chúng đóng góp vào đa dạng của các gia súc có thể được đánh giá. Một chính sách quốc gia đang được xây dựng và sẽ dấn đến kết quả là kế hoạch hành động cho chương trình này cũng đa dạng và in ấn áp phích và tập gấp xác định rõ ràng về những loài này (dự án P2 bao trùm vấn đề này).
Các vùng trọng điểm nơi cần phải kiểm soát kinh doanh là cảng Hồ Chí minh, Nha trang và Hải phòng, các sân bay quốc tế, các chợ ở thành phố Hồ Chí Minh, Buôn Ma Thuột và Hà Nội, cửa khẩu biên giới Lạng Sơn, Cao Bằng, Lào Cai và biên giới Lào và Campuchia (dự án P10).
4.4 Kiểm soát cháy rừng
Cần phải có các hoạt động sau đây phòng cháy rừng:
Đề ra luật và quy chế bảo vệ rừng;
Phát động chiến dịch truyền thông và các chương trình phổ cập;
Chương trình canh tác trên đất dốc để giảm du canh (chỉ làm sau khi nghiên cứu văn hoá xã hội kỹ càng);
Xây dựng các uỷ ban cấp làng, huyện, tỉnh chống cháy rừng gồm cả đội chữa cháy công cộng và tuần tra vào mùa cháy;
Dự báo cháy, trồng rừng hoặc vành đai xanh cản lửa, xây dựng hồ chứa nước, tháp canh lửa;
Tiến hành những biện pháp phòng cháy khác nhau như chuyển những vật dễ cháy đi nơi khác, dọn quang hoặc đốt trước những vành đai dễ cháy .
Những quy chế cụ thể và đào tạo áp dụng kỹ thuật chữa cháy .
Chương trình khá thành công và diện tích rừng bị cháy trong những năm qua ít hơn nhiều những năm trước. BAP không cần đề xuất thêm dự án bổ sung.
Mỗi tỉnh cần phải thành lập kế hoạch chống cháy riêng của mình phù hợp với điều kiện và tài nguyên của địa phương. Việc bảo vệ cuộc sống của nhân dân và đội chống cháy phải được ưu tiên và kế hoạch phải có dự phòng để xử lý nhanh những người bị nạn.
4.5 Khôi phục sinh cảnh tự nhiên
Trong những khu vực mà sinh cảnh quan trọng đối với bảo tồn đa dạng sinh học bị mất, hay ở nơi nào những mối liên kết sinh kết phải được phục hồi, thì phải thực hiện một chương trình phục hồi sinh cảnh thiên nhiên.
Những hành động sau phải được thực hiện:
i) Xác định khu vực:
Công tác này phải được quyết định bởi việc xem xét về phương diện sinh học và những vấn đề về dân số học như mật độ dân cư, những khu vực dân tộc hay những ranh giới hành chính. Đặc tính của thảm thực vật và khu hệ động vật và khu vực gần diện tích có tầm quan trọng về sinh học hàng đầu bao gồm những khu rừng đặc dụng cũng cần phải được xem xét.
Được đề xuất rằng những mảng tối thiểu cỡ 500 ha được coi là mảng nhỏ đòi hỏi được đầu tư quản lý nhiều hơn. Tuy nhiên giới hạn này có thể thay đổi theo điều kiện thực hiện của địa phương.
Để thiết kế việc sử dụng đất trong tương, cần phải có những quyết định theo những tiêu chuẩn sau:
Điều kiện thảm thực vật.
Điều kiện thổ nhưỡng: Phải được xác định đặc điểm tốt hay xấu tuỳ thuộc vào đất có bị xuống cấp hay không do đã từng bị làm cho bạc màu .
Tính dễ tiếp cận khu vực: Mức độ gần của khu vực tiếp cận với những trung tâm dân cư.
Mức độ tập trung của những diện tích rừng bị phá, xuống cấp hay đất trồng: Nếu mảng tường trên 60% toàn bộ diện tích thì nó sẽ được quản lý sâu về phương diện kinh tế.
ii) Đối với từng khu vực quản lý có những hành động thích hợp quyết định bởi:
Xác định tính chất của những hệ thống đất và xác định tiềm năng sử dụng đất.
Chọn lựa những đất thích hợp nhất sử dụng những giải pháp tiềm năng khác nhau trên cơ sở những nhân tố và hạn chết về kinh tế, tổ chức và xã hội .
Một số phương pháp sử dụng đất hữu hiệu là:
Rừng được quản lý
Cây lớn ngắn ngày và rừng trồng lâu dài
Tổ hợp nông lâm kết hợp
Khai thác rừng có quản lý dẫn đến việc hình thành rừng nguyên sinh tự nhiên hoặc bán tự nhiên.
Những khu không được xử lý cũng có thể mang lại hiệu quả trong một phương diện, ví dụ bãi cỏ chăn thả gia súc.
Tiếp theo việc thiết kế việc sử dụng đất thích hợp, một bản đề xuất và kế hoạch phát triển cần được xây dựng để thực hiện.
iii) Những giải pháp quản lý nguyên tắc hiện có là:
Không xử lý
Sản lượng tăng thông qua việc xử lý việc khai thác rút ngắn chu kỳ không hiệu quả.
Sản lượng tăng thông qua phát triển và sử dụng lâm sản ngoài gỗ.
Chuyển sang trồng rừng và nông lâm kết hợp.
iv) Sự can thiệp cơ bản của kỹ thuật liên quan đến:
Cải thiện đất đã khai thác thông qua những can thiệp về lâm sinh và những biện pháp khác.
Phát triển những cây hữu ích trên đất thoái hoá và đất trồng thông qua việc trồng tăng cường và khai thác chọn.
Cần phải tiến hành nghiên cứu chọn những loài sẽ túc đẩy việc hình thành thảm thực vật hữu ích (dự án C4). Có vè là phương pháp được thông qua chính là phương pháp quan tâm đến thành công "tự nhiên". Vì vậy cần phải được xem xét việc lựa chọn những loài thích hợp cần được thúc đẩy trước khi xem xét xác định loài cụ thể. Một khi đã xác định loài lựa chọn, những loài địa phương có thể được chọn theo cho có hiệu quả hay vì những giá trị khác do dân địa phương chỉ định.
Việc thực hiện những hoạt động phục hổi cần phải:
Dân địa phương tham gia và mang lại lợi ích cho họ
Những nghĩa vụ nhiều mặt cải thiện đất kết hợp với những quyền lợi chủ đất được khai thác chúng và những đất khác theo thực tiến điều hoà.
Tạo điều kiện đóng góp nhiều tài liệu và những đầu tư khác phù hợp với phương thức tốt nhất tạo thuận tiện thiết kế sử dụng đất.
4.6 Chương trình giảm sát đang dạng sinh học
Một chương trình kiểm tra đa dạng sinh học cần được quyết định xem có áp dụng những quy chế và phương thức quản lý tiên tiến tác động tích cực đến bảo tồn đa dạng sinh học hay không. Chương trình kiểm tra bao gồm bảy nhân tố chính sau:
Giám sát môi trường sống
Viện đều tra quy hoạch (FIPI) sẽ tiếp tục giám sát những thay đổi hàng năm về độ che phủ rừng và mật độ rừng trên toàn đất nước bằng phương pháp điều tra viễn thám. Chương trình điều tra viễn thảm này kiểm chứng lại hàng loạt điều tra trên mặt đất của hơn 5000 khu vực điều tra phương vị trên toàn quốc. Để công việc này thành công. Viện điều tra quy hoạch rừng cần phải hợp tác và phối hợp với rất nhiều bộ và cơ quan điều tra các lĩnh vực có liên quan.
Giám sát các điều kiện trên mặt đất
Mỗi khu bảo tồn chính sẽ tiến hành một chương trình điều tra riêng theo chỉ đạo quốc gia . Một chương trình điều tra rừng trên 5000 khu vực mẫu đang được triển khai và phải được tiếp tục. Loại hình giám sát này vì thế là một bộ phận của những dự án rừng đặc dụng cá thể được trình bày trong BAP trong chương 3.2.
Giám sát về các loài chỉ thị
Việc điều tra các loài cụ thể phải được tiếp tục tiến hành về tình trạng và phân bố của các loài chủ yếu và bức xúc. Những điều tra như thế sẽ được phối hợp giữa Bộ Lâm nghiệp và Viện điều tra quy hoạch rừng nhưng sẽ được tiến hành bởi các nhà khoa học. Một danh mục những yếu tố điều tra phải được xây dựng.
Giám sát các dữ liệu
Một chương trình cần phải được vạch ra cùng với rất nhiều loại thông tin khác nhau và kết quả phân tích dữ liệu cho một cái nhìn sâu vào xu hướng và những chỉ dẫn về quản lý. Vì vậy cần phải xây dựng trung tâm dữ liệu đa dạng sinh học (dự án C 6) đảm bảo duy trì cơ sở dữ liệu về tổng thể các loài, môi trường sống, vị trí gắn với việc lập bản đồ và khả năng của hệ thống thông tin địa lý. Một bộ phận đặc biệt có thể là cơ sở dữ liệu đa dạng sinh học biển như mô tả trong dự án C7.
Trung tâm này sẽ bao gồm một mạng lưới gắn những cơ sở hiện có tại Viện Điều tra quy hoạch rừng, Bộ ài chính, Viện sinh thái và tài nguyên sinh học và một văn phòng điều phối mới phải được thành lập trong Bộ Khoa học, Công nghệ và Môi trường.
Ba dự án quốc tế sẽ là phương tiện giúp đõ xây dựng mạng lưới này - việc đào tạo hệ thống thông tin địa lý trong khuôn khổ dự án GEF; được hỗ trợ thông qua dự án của ngân hàng thế giới xem xét lại hệ thống các khu vực bảo vệ của khu vực IndoưMalayan; và vùng RAS/93/102 với bộ phận chung dữ liệu xuyên biên giới của nó.
Giám sát về quản lý
Cần phải Giám sát kỹ hơn và đánh giá về hiệu quả quản lý. Mỗi luận chứng kinh tế kỹ thuật phải bao gồm một chương trình phù hợp cho việc Giám sát như thế và xem xét lại quá trình khi nào những thủ tục hành chính được xem xét lại và sửa đổi nếu cần thiết.
Trong hầu hết mọi trường hợp, hình thức Giám sát mạnh nhất phải được thiết kế trên cơ sở tuần tra định kỳ và báo cáo chức năng của lực lượng kiểm lâm. Kiểm lâm phải thường xuyên tuần tra khảo sát và các mẫu báo cáo phải được lập để ghi chép lại ba loại thông tin chính - thông tin về điều kiện sống, thông tin về sự phong phú và vị trí của các loài động vật hoang dại và thông tin về mức độ hoạt động của con người .
Giám sát về trữ lượng cá
Trong khi Ban bảo vệ tài nguyên thuỷ sản tiến hành điều tra về sản lượng đánh bắt cả toàn diện ở quy mô địa phương, thì sẽ có hiệu quả hơn nếu các nhà khoa học cũng tích cực tham gia vào việc điều tra về ngư nghiệp, tập trung vào các loài bị khai thác quá mức hoặc bị suy giảm và tại các khu vực dễ bị thương tổn nơi làm ngư nghiệp rất dễ tác động bất lợi do khai thác quá độ hoặc làm suy giảm môi trường. Điều này phải được gắn với Cơ sở dữ liệu đa dạng sinh học biển được đề xuất xây dựng dự án C7.
Giám sát về các thông số vật chất
Cục môi trường quốc gia trong Bộ Khoa học, Công nghệ và Môi trường sẽ điều phối một chương trình Giám sát quốc gia để Giám sát về các biểu hiện vật chất của môi trường. Một chương trình như vậy phải gồm:
Giám sát khí hậu gồm những dự báo địa cầu, mức độ CO2, khí nhà kính, mưa a xít.
Ô nhiễm không khí - bụi và khí.
Nước tải phù sa ra sông và vừng nước ven biển.
Ô nhiễm nước - kim loại, chất độc, dẫn điện.
Các mô hình dòng chảy, mạch nước ngầm.
Các phòng ban và tổ chức khác nhau phải tham gia vào việc làm mẫu và thu thập dữ liệu nhưng những thông tin như thế phải được tập hợp lại để phân tích tại trung tâm quy hoạch dữ liệu môi trường trong tương lai Bộ Khoa học, Công nghệ và Môi trường. Chương trình này không phải là một bộ phận của BAP, nhưng kiểm soát ô nhiễm được bao trùm trong dự án P4.
4.7 Chương trình nghiên cứu
Uỷ Ban khoa học kỹ thuật nhà nước (nay là MOSTE) đã có một số tiến bộ trong việc nghiên cứu về đa dạng sinh học và bảo tồn đa dạng sinh học. Từ năm 1980 đến nay, hai kế hoạch 5 năm đã ưu tiên một số đề tài đa dạng sinh học trong phạm vi các Bộ Lâm nghiệp, Bộ Nông nghiệp và công nghiệp thực phẩm, Bộ Hải sản, Bộ Y tế do nhu cầu của những Bộ này về các nguồn tài nguyên sinh học và Bộ Khoa học, Công nghệ và Môi trường cũng vậy .
Các hệ sinh thái quan trọng đã được nghiên cứu: - hệ sinh thái rừng ngập mặn (Minh hải), hệ sinh thái rừng Khộp, (cao nguyên miền trung), phân loại thảm thực vật, khôi phục tổ chức một số rừng, đặc điểm sinh thái của một số loài cá. Từ năm 1987, một số viện nghiên cứu khoa học đã tham gia vào việc bảo vệ chung và giám sát các hệ sinh thái suốt cả nước. Một hệ sinh thái tự nhiên chưa được nghiên cứu cụ thể là những cảnh quan hệ núi đá vôi của Việt Nam. Dự án C 18 tập trung hệ núi đã vôi tại Kẻ Bàng thuộc tỉnh Quảng Bình.
Từ năm 1991, khoa học biển và việc sử dụng tài nguyên biển đã được hai hai viện hải dương học Hải Phòng (HIO) và Nha Trang (IOOC) nghiên cứu . Cũng có những dự án nhỏ hơn cấp tỉnh về những vấn đề sản xuất và sử dụng một số loài cụ thể. Những dự án các khu bảo vệ biển đang được bắt đầu xuất hiện ở quy mô địa phương.
Các hoạt động nghiên cứu này do nhà nước và một số tổ chức quốc tế cấp vốn, nhưng vẫn còn thiếu hụt trong nhiều lĩnh vực vì vậy kết quả là nghiên cứu không tập trung vào một số tổ chức tổng thể để áp dụng chung. Các kết quả nghiên cứu như thế phân tán và thường không được cung cấp cho những nhà quản lý đa dạng sinh học, những người cần tài liệu này .
Nghiên cứu tại chỗ chắc chắn sẽ được tiếp tục nhưng ngoài ra ra Bộ Khoa học, Công nghệ và Môi trường cùng với Bộ Lâm nghiệp và Công nghiệp thực phẩm, Bộ Hải sản, Bộ Y tế và các tổ chức khoa học và trường đại học khái phải đề ra một kế hoạch nghiên cứu với các đề tài dự án được cho là ưu tiên nhất. Khi thảo BAP, các ưu tiên nghiên cứu được thấy là:
Các hệ sinh thái nước và đất liền.
Các đặc điểm sinh học động vật biển và động vật rừng.
Bảo tồn nguồn gen
Nghiên cứu có lựa chọn và sử dụng trong nước một số loài hoang dại có giá trị kinh tế cao .
Dân tộc thiểu số
Chiến dịch truyền thông thành công.
Những vấn đề xã hội
Thành công của những dự án vi mô của Việt Nam về mức độ xã hội và kỹ thuật.
4.8 Nhu cầu bảo tồn ngoại vi
Giá trị bảo tồn duy nhất của việc duy trì một loài bằng hình thức nuôi nhốt với mục đích của một chương trình gây nuôi ngoại vi là việc thả lại nguồn dự trữ gây nuôi nhốt vào sinh cảnh tự nhiên của loài .
Vì vậy, bảo tồn ngoại vi chỉ có thể là một bộ phận của cả một chiến lược bảo tồn, khi mà việc gây nuôi gắn với bảo tồn sinh cảnh tự nhiên. DO chỉ trong môi trường hoang dại, một loài mới có thể tiếp tục phát triển thông qua quá trình chọn lọc tự nhiên, hoàn thành vai trò sinh thái tự nhiên của chúng và duy trì tính thích ứng về gen của chúng. Năm 1992, việc xem xét lại của Hội đồng nghiên cứu quốc gia đã nói rằng một số loài bị đe doạ tuyệt chủng do sự phá huỷ sinh cảnh và thiếu hiểu biết về sinh học cơ sở của chúng, cũng như chi phí (về tiền, năng lực và mối quan tâm thường xuyên của con người) tham gia vào việc duy trì loài ngoài sinh cảnh của chúng, bảo tồn nội vi là thực tế nhất, hiệu quả đáng giá và độc lập với tính rộng lớn của thành viên. Vì thế bảo tồn ngoại vi chỉ nên tiến hành như "khả năng cuối cùng".
Trong khi chấp nhận rằng bảo tồn ngoại vi có ích đối với quản lý khủng hoảng, vấn đề nảy sinh là xác định loài nào cần được xem xét ở Việt Nam 7 điểm khởi đầu có thể xem xét nhóm được biết đáp ứng ba tiêu chí:
Rằng nhóm có tính đặc hữu hạn chế trong phạm vi dưới 50.000 km2 (như được xác định bởi Terborgh and Winter (1983).
Rằng nhóm bị đe doạ nghiêm trọng như được định nghĩa bởi Mace et at. (1993).
Rằng bảo tồn nội vi thất bại làm cho quẩn thể suy giảm.
Chương trình nuôi dưỡng
Việc lập sổ sinh bạ của các cá thể của các loài hiếm đang nuôi nhốt là rất quan trọng để những giống thích hợp nhất có thể đạt được. Việc này có thể cần nghiên cứu các nguồn DNA để giám sát tính đa dạng gen trong quần thể nuôi nhốt (dự án C9).
Cần phải theo những nguyên tắc sau khi thực hiện chương trình nuôi nhốt:
Hạn chế nghiêm ngặt bắt vật nuôi từ nguồn hoang dã.
Nuôi nhốt chỉ là một phần trong kế hoạch sinh tồn của cả loài .
Mục tiêu lâu dài luôn luôn là xây dựng những quy mô quần thể để trả lại cho thiên nhiên.
Phải duy trì sổ sinh bạ và các cặp được chọn theo hướng đa dạng tối đa gen của quần thể nuôi nhốt.
Quy chế và việc kiểm soát phải được áp dụng để tách bảo tồn ra khỏi các hoạt động thương mại .
Chiến lược quốc gia về vườn động vật
Các tiêu chuyển vườn thú ở Việt Nam rất tồi . Cũng thiếu bảo vệ những con thú được trưng bày trước quần chúng được giáo dục kém thường đến trêu chọc động vật, dùng que cù ném chúng, ném đồ vật vào chúng và cho chúng ăn những thức ăn nguy hiểm.
Mức độ chết ở hai vườn thú ở Việt Nam rất cao và tốc độ sinh sản của bất kỳ các loài là rất chậm. Điều này có nghĩa là vườn thú phải tiếp tục tìm kiếm thêm động vật về nuôi để duy trì bộ sưu tập trưng bày và mạng lưới săn trộm và bán thú hoang. Cả hai vườn thú Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh cũng như một số bộ sưu tập làm giảm sút nghiêm trọng một số loài quý hiếm trong nguồn tài nguyên quốc gia và là một mối đe doạ lớn đối với công tác bảo tổn.
Chiến lược về vườn thú khẩn thiết phải làm cho vườn thú có sức mạnh tích cực chứ không phải tiêu cực đối với bảo tồn. Chiến lược vườn thú cần phải được ưu tiên nhằm trợ giúp cho vườn thú phần nào tự hỗ trợ được về quỹ động vật của họ. Việc này cần quan tâm cải thiện nhà cửa và chuồng trại và phương tiện gây nuôi sinh sản, các tiêu chuẩn về chăm sóc và các điều kiện cho động vật. Các vườn thú cũng cần phải được khuyến khích nhận vai trò giáo dục quần chúng nhận thức được rằng động vật rất quý, thú vị và đang cần bảo vệ; hơn là chỉ trưng bày như một thực thể của tạo hoá để chơi và trêu chọc.
Chiến lược quản lý và phát triển cho vườn thú này ở Việt Nam được mô tả trong dự án C 10.
Chiến lược quốc gia về vườn bách thảo
Mục tiêu cơ bản của chiến lược cần phải tiến hành để đảm bảo xây dựng cho các quần thể ngoại vi của tất cả các loài có nguy cơ bị tuyệt chủng ở Việt Nam. Việc soạn thảo Sách đỏ vừa qua các loài thực vật cung cấp những mô tả và phân bố của loài . Để an toàn, các quần thể như thế cần phải tách để nếu xảy ra bão hoặc cháy ở một vườn thì bị huỷ hoại toàn bộ dự trữ của một loài .
Một mục tiêu khác cũng cần phải làm là có biện pháp phát triển tốt hơn các loài hiếm như là dùng mô, hom, v.v... các phương thức chuyên chở và bảo quản tốt hơn dự trữ và các văn bản quy chế phải được thẻo để các vườn bách thảo trong nước và quốc tế có thể dễ dàng trao đổi nguồn gen.
Quy chế về chăn nuôi các loài hoang dại
Một số loài hoang dại được nuôi nhằm mục đích thương mại ở quy mô lớn tại Việt Nam. Các ví dụ bao gồm cả khỉ dành cho nghiên cứu y sinh, hươu Sika lấy nhung làm thuốc, chồn lấy tuyến xạ làm thuốc và chất đinh hương, trăn và cá sấu lấy da, ba ba và ếch làm thức ăn.
Một số loài đang bị đe doạ bởi bị thu thập để chân nuôi và cần có quy chế để kiểm soát và Giám sát tình hình tốt hơn. Các trại nuôi thường được dùng như tấm bình phong cho việc chào bán những con thú hoang bắt được và dán nhãn là sản phẩm nuôi nhốt.
Cần phải thông qua những nguyên tắc chỉ đạo bao gồm:
Không được bắt động vật hoang dã về chăn nuôi ngoại trừ có giấy phép của cơ quan lâm nghiệp địa phương. Giấy phép đó không được cấp trừ khi loài đang được quan tâm được coi là "không nguy hiểm" trong thiên nhiên và quần thể hoang phải được Giám sát.
Các giấy phép chỉ được cấp cho những đơn vị hoặc cá nhân ngay thẳng, những người này được ghi nhận nuôi thành công và vẫn duy trì các phương tiện để cán bộ lâm nghiệp địa phương kiểm tra công khai và đáp ứng những chuẩn do Bộ Lâm nghiệp đưa ra .
Giấy phép sẽ bị thu hồi đối với những đơn vị, cá nhân bị phát hiện vi phạm luật bằng hình thức treo nhầm biển cho vật nuôi (loài hay đã giải thích là sản phẩm vật nuôi nhưng thực chất động vật hoang bắt về), mua hoặc bán động vật không có giấy phép, kinh doanh loài bị cấm.
Ngoài ra, cần phải quan tâm để có những chuẩn hợp lý về những phúc lợi của động vật và chấm dứt những bạc đãi đối với động vật.
Dự án C12 cho ý kiến hướng dẫn cho những dự án chăn nuôi các loài hoang dại .
4.9 Chương trình giáo dục và truyền thông
Chương trình soạn thảo để dùng cho các khoá học cho học sinh tiểu học và trong học và là một phần trong chương trình của các trường đại học và chuyên nghiệp đã được thảo nhưng vẫn chưa có chỉ đạo về tính bắt buộc hoặc chưa được rộng rãi trong cả nước. Bộ Giáo dục và Đào tạo cần phải có quyết nghị về việc này . Khuyến nghị là cần phải xem xét lại những tác độc và thành công của các khoá hiện tại; để điều chỉnh chúng trên cơ sở này cùng với sự phối hợp những tài liệu mới lấy từ những khoá tương tự thực hiện tại các nước châu á khác (như Ấn Độ v.v...) và cuối cùng phải có tính nghĩa vụ đối với tất cả các trường và viện đào tạo trong cả nước. Cần phải có giáo dục bắt buộc về đang dạng sinh học trong chương trình giáo dục môi trường.
Các chiến dịch truyền thông
Nâng cao nhận thức cho quần chúng rõ ràng được ưu tiên cao nhưng vẫn chưa được bất cứ tổ chức cụ thể nào thực hiện và chưa có một chương trình hay ngân sách cụ thể nào cho công tác này . Bộ Khoa học, Công nghệ và Môi trường phải nắm vai trò lãnh đạo trong việc xây dựng một bộ phận tuyên truyền với chức năng cụ thể về tiến hành tiếp chiến dịch nâng cao nhận thức cho dân ở mọi cấp về vấn đề đa dạng sinh học và môi trường. Một chiến dịch như thế phải sử dụng mọi biện pháp để đến được với dân, báo chí, tranh ảnh thông tin công cộng, đài, vô tiến truyền hình và các sự kiện và phương thức truyền thông đặc biệt.
Ngoài ra, chiến dịch phải phối hợp với các hoạt động phổ cập khác như phổ cập lâm nghiệp và chương trình truyền thống về sức khoẻ (sinh đẻ có kế hoạch).
UNDP đang hỗ trợ cho việc xây dựng trung tâm tài nguyên để chuẩn bị và thực hiện những chương trình truyền thông BAP sẽ cộng tác cùng những trung tâm này trong việc xây dựng chương trình quốc gia để nâng cao nhận thức theo chuyên đề về đa dạng sinh học (dự án C 14). Một lĩnh vực đặc biệt cần thực hiện công tác truyền thông là đa dạng sinh học biển, và công tác truyền thông này có thể là một dự án riêng (dự án C 16). Ngoài ra, được đề xuất xây dựng 3 trung tâm truyền thông tại ba nơi để dạy những nhà ra quyết định và cán bộ nhà nước về đa dạng sinh học (dự án C 15).
4.10 Vấn đề kinh tế xã hội của chương trình đa dạng sinh học
Tất cả các hình thức phát triển vẫn còn đạt được những tác động về kinh tế xã hội . Vấn đề quan trọng là phải xem xét những tác độ nào ảnh hưởng đến chương trình đa dạng sinh học sẽ có trong các điều kiện kinh tế xã hội của đất nước và lường trước những tác động ngược trở lại để có biện pháp khắc phục.
Vấn đề cốt yếu của Chương trình đa dạng sinh học là thiết kế để sao mang lại lợi ích lâu dài và lâu bền cho nhân dân Việt Nam nhưng không cần thiết phải đảm bảo về lợi ích cân bằng và có thể thiếu hụt về thu nhập hoặc khả năng thu thập cho một số nhóm người, đặc biệt là trong thời gian ngắn.
Khi toàn bộ chương trình thành công sẽ tạo được cơ sở do được dân nông thôn sống gần các sinh cảnh tự nhiên chấp nhận và hỗ trợ, điều này rất quan trọng để đảm bảo rằng những nhóm này sẽ cảm thấy được lợi nhiều hơn là mất. Điều này trở nên trách nhiệm của nhà nước thu thuế của khu vực kinh tế phát triển trong môi trường mới để trả cho những chi phí về bảo vệ chất lượng môi trường và những lợi ích lâu dài của quốc gia, tuy nhiên những thuế thu như thế có thể không phổ biến.
Các cộng đồng nông thôn địa phương quanh các khu vực có dự án bảo tồn sẽ có những lợi ích lâu dài có giá trị như:
Cảnh quan hấp dẫn và khí hậu tốt lành
Rừng để khai thác củi và các lâm sản khác
Nguồn nước sạch và an toàn
Quần thể cá phong phú để khai thác
Khả năng công ăn việc làm
Các ngành công nghiệp phụ (hướng dẫn du lịch, nhà nghỉ, cung ứng thực phẩm, đồ lưu niệm, v.v...)
Khả năng bảo quản những truyền thống tốt đẹp.
Nhưng họ có thể có những hạn chế khó chịu như kiểm soát săn bắn, hạn chế khai phá đất mới, mất khả năng khai thác gỗ, v.v..
Vì vậy, điều quan trọng là sử dụng các kiến thức chung làm cho họ tin tưởng và hoan nghênh những lợi ích trên và hiểu rằng cần phải mất những cở thích đó. Hơn nữa, nhà nước cần phải năng động hơn trong việc hỗ trợ dân về hình thức dự án xây dựng vùng đệm để cáng đáng được những thiếu hụt trong thu nhập trước mắt mà những cộng đồng địa phương này có thể phải trả qua . Giúp đỡ vùng đệm như thế rõ ràng phải là một phần trong tổng thể chương trình bảo vệ đa dạng sinh học và phải có những phúc lợi xã hội như trường học được cải thiện, trạm xá, hệ thống thuỷ lợi, giếng nước, điện, giống, dịch vụ thú vệ sinh, giúp bảo vệ mùa màng khỏi động vật hoang dại và đầu tư cho nông lâm nghiệp kết hợp.
Thái độ một số Bộ lưỡng lự đầu tư vào bên trong "đất lâm nghiệp" phải được khắc phục. Nhiều đất lâm nghiệp có nhiều dân sống và phải được mở ra để đầu tư kinh tế hỗ trợ xã hội, không thể chỉ bỏ mặc cho vấn đề khó khăn lâm nghiệp.
Để giúp dân làn hiểu về khái niệm của đa dạng sinh học và giúp họ xây dựng những hành động bảo tồn thích hợp, BAP đề xuất tổ chức những uỷ ban đa dạng sinh học là sẽ hướng dẫn cho những bước động viên ban đầu .
4.11 Phát triển hợp tác quốc tế
Việt Nam đã phải trải qua một thời gian bị cô lập quốc tế và mức hợp tác và hỗ quốc tế đã rất thấp. Tuy nhiên với việc bỏ cấm vận về kinh tế và uy tín Việt Nam tăng lên thu hút thêm nhiều trợ giúp, hợp tác và đầu tư quốc tế. Điều quan trọng là qui mô hợp tác quốc tế sẽ tăng lên trong lĩnh vực môi trường nếu việc bảo vệ môi trường có thể sánh kịp với đà phát triển.
Việt Nam sẽ tiếp tục tham gia vào các công ước và thoả thuận quốc tế về đa dạng sinh học, phát triển vườn quốc gia (đất và biển); tăng cường điều tra và bảo tồn vùng biên giới; và xây dựng một diễn đàn về hợp tác khu vực và các vấn đề đa dạng sinh học (dự án P 10).
Một điểu cũng quan trọng nữa là việc tăng mức độ hợp tác quốc tế cần phải được phối hợp nhịp nhàng, và nhà nước phải liên lạc với UNDP để tổ chức những hội đàm thường kỳ và hội đàm tập trung vào chủ đề với các nhà tài trợ đang hoạt động trong lĩnh vực môi trường.
Phần lớn những quỹ tín dụng lớn như Ngân hàng thế giới, Ngân hàng phát triển châu á cũng như các tổ chức đa năng khác như UNDP và những chương trình viện trợ song phương hiện nay đang tiến hành bảo vệ môi trường sâu rộng hơn. Những chương trình của họ cam kết dành nhiều mối quan tâm hơn nữa vào môi trường và trong danh mục dự án của họ có một tỷ lệ cao hơn những dự án bảo vệ môi trường Việt Nam có thể vận dụng xu hướng này để có được sự hợp tác quốc tế nhiều hơn để thực hiện nhiều lĩnh vực của Kế hoạch hành động da dạng sinh học.
Một điều cũng sáng suốt đối với Việt Nam đưa Kế hoạch hành động đa dạng sinh học của mình tiếp cận chặt chẽ với rất nhiều chương trình khác đang được xây dựng theo Công ước đa dạng sinh học của Liên hiệp quốc và những chương trình khác của UNDP.
Đề cương những dự án ưu tiên
Trong thời gian soạn thảo kế hoạch hành động đa dạng sinh học, có hơn 50 đề cương dự án được hoàn thành bao trùm toàn bộ các khía cạnh của kế hoạch. Toàn bộ những phác thảo dự án được nêu trong những trang tiếp theo . Mặc dù nhiều dự án đã được đề xuất và xem xét, chỉ có những nét đặc trưng mang ính khẩn cấp và tính ưu tiên cao mới được liệt kê nên dự án chưa được thảo thành văn kiện đầy đủ.
Chương đề cương các dự án bắt đầu bằng một bảng thống kê cho thấy mối quan hệ và giai đoạn thực hiện của toàn bộ động vật đã được thảo . Tiếp theo đó là mô tả tóm tắt cùng với quy mô để cấp vốn. Để dễ dàng so sánh, các dự án được liệt kê cùng các quy mô lớn, vừa và nhỏ:
L, dự án lớn trên 10 triệu USD
M, dự án vừa từ 1 triệu đến 10 triệu USD
S, dự án quy mô nhỏ đến 1 triệu USD
Phân hạng dự án
Những dự án được chuẩn bị bởi những chương trình chính sách (P), những chương trình quản lý và bảo tồn tại hiện trường (M) và những hành động toàn diện (C). Việc soạn thảo này dựa trên cơ sở những luận cứ giới thiệu từ chương 2 đến chương 4 của văn kiện BAP. Những chương trình chính sách được giới thiệu, như nêu trong Bảng 6 ở những trang sau, bởi những phương thức phân loại rộng:
Công cụ chính sách Tăng cường bảo tồn đa dạng sinh học trong toàn bộ tổ chức và quy chế nhà nước.
Sự tham gia và những thành viên tham gia được mở rộng Mở rộng phạm vi cho các tổ cức và nhân dân tham gia vào công tác bảo tồn tính đa dạng sinh học.
Những phương thức truyền thống sử dụng những kỹ năng và kiến thức truyền thống trong văn hoá và xã hội Việt Nam.
Những vấn đề biển Mở rộng phạm vi bảo tồn tính đa dạng sinh học vượt ra ngoài phạm vi đất liền.
Đa dạng sinh học vùng Kết nối những vấn đề đa dạng sinh học quốc gia với những chương trình bảo tồn của những nước láng giềng và khu vực.
Việc quản lý và những dự án bảo tồn, xương sống của bảo tồn đa dạn sinh học, được nêu trong năm nhóm có quan hệ qua lại . Bảo tồn và quản lý Cải thiện việc thực hiện ở những khu rừng đặc dụng như một phương pháp cơ bản để duy trì tính đa dạng sinh học.
Xây dựng các khu rừng đặc dụng Lấp những chỗ "trống" và mở rộng các khu bảo vệ các hệ sinh thái thông qua việc xây dựng những khu rừng đặc dụng mới .
Vùng đệm và những dự án cộng đồng Thu hút các cộng đồng nông thôn tham gia trực tiếp vào bảo tồn đa dạng sinh học thông qua những phương thức tham gia vào việc quản lý những khu rừng đặc dụng và sử dụng các nguồn tài nguyên một cách bền vững.
Phục hồi Nuôi dưỡng sự tái tạo tự nhiên của những hệ sinh thái quan trọng.
Nhân tố con người Phát triển năng lực cho những người bảo tồn chuyên trách, những ngưởi ra quyết định và quần chúng nhân dân thông qua việc đào tạo, phổ cập và nghiên cứu cơ bản.
Những hoạt động toàn diện cũng được đề xuất, thực hiện chương trình bảo tồn đa dạng sinh học rộng lớn đề xuất trong BAP. Những dự án được giới thiệu theo bốn nhóm:
Bảo tồn ngoại vi và những phương pháp khoa học Nhìn xa trông rộng là một phương pháp quan trọng để bảo quản các loài và tính đa dạng sinh học bằng kỹ thuật.
Những biện pháp truyền thống Thăm dò và kiểm tra những biện pháp truyền thống để duy trì và bảo quản tính đa dạng sinh học về mặt kinh tế.
Cơ sở dữ liệu và những giám sát về môi trường sống Một công cụ cơ bản để đánh giá diễn thế của tình trạng đa dạng sinh thái quốc gia .
Truyền thông Hỗ trợ bảo tồn đa dạng sinh học thông qua quần chúng đã được giáo dục có nhận thức về môi trường.
IV. PHƯƠNG HƯỚNG VÀ CHƯƠNG TRÌNH HÀNH ÐỘNG VỀ BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG Ở VIỆT NAM
1. Dân số
Dân số nước ta gia tăng quá nhanh với tỉ lệ gia tăng hằng năm là 2,1%, cao hơn mức trung bình toàn thế giới (1,7%). Mỗi năm có thêm 1,5 triệu nhân khẩu. Ðiều này gây một áp lực thực sự to lớn cho vấn đề sản xuất lương thực, tài nguyên và môi trường. Cho nên, nhất thiết phải giảm đà gia tăng dân số để trong vài thập niên tới dân số có thể đạt được mức ổn định.
2. Sản xuất lương thực
Trong 50 năm qua, nông nghiệp nước ta phát triển chậm về sản lượng lương thực, năng suất cây trồng và bình quân lương thực tính theo đầu người còn ở khoảng hơn 300 kg, tức còn rất thấp, và là mối đe dọa thường xuyên của mọi người.
Cho nên trong thời gian tới, cần gia tăng sản lượng lương thực bằng cách giải phóng sức sản xuất nông nghiệp, khai thác và sử dụng hợp lý tiềm năng đất đai, sức lao động, vốn và kinh nghiệm sản xuất của nông dân.
Cần cân nhắc kỷ việc khai khẩn đất mới, phá rừng trồng lúa, sao cho có hiệu quả kinh tế đồng thời bảo vệ môi trường.
3. Trồng rừng và bảo vệ sinh học
TOP
Trong mấy chục năm qua, rừng và đa dạng sinh học của nước ta bị tàn phá nghiêm trọng. Năm 1943, rừng che phủ 44% tổng diện tích, đến nay chỉ còn 20 đến 28% tức là rất thấp so với mức an toàn sinh thái (bằng hay trên 1/3 tổng diện tích). Hàng năm có từ 160-200 ngàn ha rừng bị mất đi. Rừng bị mất kéo theo sự giảm đa dạng sinh học vốn rất phong phú và đa dạng. Nhiều loài đã và đang bị tuyệt chủng. Trong 4 thập niên qua, có ít nhất là 200 loài chim và 120 loài thú bị diệt vong (Báo cáo của CHXHCNVN, 1992).
Biện pháp bảo vệ rừng và đa dạng sinh học là cấp thiết sống còn của đất nước. Chúng ta cần thực hiện các biện pháp trước mắt và lâu dài như sau:
- Cấm phá rừng nguyên sinh, rừng đầu nguồn.
- Ổn định dân số, giảm nghèo đói cho dân vùng rừng núi và các vùng nông thôn.
- Có chính sách giao đất, giao rừng bảo đảm lợi ích nông dân và lợi ích quốc gia
- Trồng lại rừng và cây phân tán ở tất cả các nơi.
- Kiểm soát việc săn bắt, buôn bán và tiêu thụ động vật hoang dã.
- Cấm các phương tiện đánh bắt có tính cách hủy diệt sự sống (chất độc, bom mìn, điện, lười diệt chủng...).
- Củng cố và mở rộng các vườn quốc gia, các khu bảo tồn tài nguyên.
4. Phòng chống ô nhiễm
TOP
Môi trường nước, không khí và đất đã bị ô nhiễm, có khi đến mức trầm trọng cả ở thành thị lẫn nông thôn. Rác thải, nước thải và khí thải ở các đô thị là vấn đề phức tạp nhất. Ở nông thôn, tập quán ở theo kinh rạch, không đủ điều kiện vệ sinh, lạm dụng phân bón và nông dược làm cho môi trường nông thôn cũng ô nhiễm, đặc biệt là khan hiếm nước sạch. Ðiều đáng nói là nước ta chưa có hệ thống sử lý chất thải, cho nên những thứ dơ bẩn điều vứt trực tiếp ra môi trường.
Ðể từng bước cải thiện tình trạng ô nhiễm môi trường cần có các biện pháp sau đây:
- Nâng cao dân trí, làm cho mọi người thấy rằng môi trường xung quanh và các công trình công cộng là của chúng ta, chớ không phải của chúng nó.
- Các tiêu chuẩn quốc gia và địa phương về chất thải phải được mọi người tuân thủ. Do đó, nhà máy, xí nghiệp phải tự giảm thiếu chất thải bằng qui trình công nghệ và xây dựng hệ thống xử lý chất thải của cơ sở.
- Khuyến khích công nghệ sạch (sử dụng phân hữu cơ thay thế một phần phân hóa học, biện pháp quản lý tổng hợp dịch hại (IPM) ở nông thôn; công nghệ ít chất ô nhiễm trong công nghiệp...).
- Xây dựng nhà máy xử lý chất thải sinh hoạt.
5. Quản lý và qui hoạch môi trường
- Thành lập Bộ Khoa học - Công nghệ - Môi trường và các Sở Khoa học - Công nghệ - Môi trường ở các tỉnh.
- Xây dựng chính sách và pháp luật về môi trường.
- Ban hành tiêu chuẩn môi trường và cách đánh giá tác đông môi trường.
- Xây dựng hệ thống quan trắc (monitoring system) quốc gia.
- Ðẩy mạnh nghiên cứu về môi trường nhằm giải quyết các vấn đề cấp bách, đồng thời hướng tới việc phát triển bền vững.
- Tăng cường hợp tác quốc tế và khu vực trong việc bảo vệ và qui hoạch môi trường.
6. Tăng cường các biện pháp hỗ trợ : giáo dục, đào tạo...
TOP
- Nâng cao dân trí tổng quát và cải thiện điều kiện sống của quần chúng.
- Ðưa chương trình giáo dục về môi trường, tình yêu thiên nhiên vào các lớp học chính khóa và ngoại khóa (du khảo, tham quan).
- Sử dụng các phương tiện thông tin đại chúng.
- Ðào tạo đội ngũ cán bộ có kiến thức cơ bản về khoa học môi trường và có khả năng đề xuất các ý kiến xử lý và bảo vệ môi trường.
Tất cả chương trình hành động trên có thể làm cơ sở để chúng ta phát triển, đồng thời sử dụng và bảo vệ tài nguyên và môi trường của mỗi địa phương, quốc gia và góp phần bảo vệ trái đất, cái nôi của sự sống
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Những mối đe doạ đối với đa dạng sinh học.doc