Những khó khăn và giải pháp khắc phục nhằm giảm nghèo cho người dân ở khu vực miền núi tỉnh Thái Nguyên

* Đối với các hộ nông dân - Thành lập các HTX chăn nuôi để tạo ra các lợi thế khi quy mô chăn nuôi lớn. Đàm phán được với các nhà cung cấp về giống, thuốc thú y và đặc biệt là thức ăn chăn nuôi trong các khâu cung cấp và thanh toán. - Thành lập các HTX làm dịch vụ về xây dựng, giao thông, hàn xì, nghề mộc, giúp việc gia đình. để tạo ra các việc làm phi nông nghiệp trong khi nông nhàn. Giải quyết được các lao động dư thừa khi chưa đến vụ trồng lúa. Gia tăng thu nhập và cải thiện đời sống sinh hoạt cho các hộ. - Mạnh dạn vay vốn để đầu tư cho chăn nuôi ngay tại hộ nếu hộ không muốn tham gia vào các HTX chăn nuôi. Tuy nhiên, hộ vẫn có thể được hưởng lợi khi thông qua các HTX chăn nuôi để mua con giống, thức ăn và ngay cả trong khâu tiêu thụ để không bị tư thương ép giá. - Đầu tư cho con cái học hành để các em được trang bị các kiến thức, ứng xử trong đời sống xã hội. Đó là điều kiện cần để có thể làm việc tại các cơ quan nhà nước, các công ty tư nhân, công ty nước ngoài.

pdf9 trang | Chia sẻ: linhmy2pp | Ngày: 25/03/2022 | Lượt xem: 353 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Những khó khăn và giải pháp khắc phục nhằm giảm nghèo cho người dân ở khu vực miền núi tỉnh Thái Nguyên, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
[Type the company name] | Error! No text of specified style in document. 120 NHỮNG KHÓ KHĂN VÀ GIẢI PHÁP KHẮC PHỤC NHẰM GIẢM NGHÈO CHO NGƯỜI DÂN Ở KHU VỰC MIỀN NÚI TỈNH THÁI NGUYÊN Nguyễn Anh Tú* - Đại học Thái Nguyên Đề tài nghiên cứu giải quyết những khó khăn nhằm cải thiện điều kiện sống của các hộ dân nghèo khu vực miền núi tỉnh Thái Nguyên thông qua việc tìm ra các khó khăn đối với các nguồn lực khan hiếm cho sự phát triển kinh tế của hộ. Nghiên cứu phát hiện ra một số nguyên nhân chủ yếu dẫn đến tình trạng đói nghèo của các hộ dân đang sinh sống ở khu vực miền núi tỉnh Thái Nguyên nhƣ: Thiếu đất sản xuất nông nghiệp, thiếu các phƣơng thức phát triển kinh tế, thiếu các thông tin khuyến nông, thiếu vốn sản xuất nông nghiệp. Ngoài ra, các lao động tại địa phƣơng không có các nguồn thu nhập khác ngoài nông nghiệp, do đó gặp rất nhiều khó khăn trong việc cải thiện thu nhập, nâng cao mức sống cả về vật chất, văn hoá, xã hội. Vì vậy, chúng tôi tiến hành nghiên cứu đề tài nhằm tìm ra những khó khăn của nhóm hộ nghèo, từ đó đƣa ra các giải pháp nhằm giảm nghèo, tăng thu nhập cho hộ nghèo. Từ khoá: Giải pháp, kinh tế, lao động, nông nghiệp, sản xuất ĐẶT VẤN ĐỀ Thái Nguyên là một tỉnh trung du miền núi phía Bắc. Trong những năm qua tình hình kinh tế - xã hội đã có nhiều tiến bộ đáng kể. Tuy nhiên, ở khu vực miền núi cao của tỉnh, đời sống của ngƣời dân vẫn còn nhiều khó khăn, thu nhập thấp... Do vậy, xoá đói giảm nghèo vẫn là một công tác đòi hỏi Tỉnh Thái Nguyên phải tiến hành thƣờng xuyên, liên tục. Hiện nay, đời sống của ngƣời dân khu vực miền núi còn gặp nhiều khó khăn, sản xuất phát triển chậm, số hộ nghèo đói còn khá cao so với toàn tỉnh. Xuất phát từ những lý do trên chúng tôi tiến hành nghiên cứu đề tài “Những khó khăn và giải pháp khắc phục nhằm giảm nghèo cho người dân ở khu vực miền núi tỉnh Thái Nguyên”. MỤC ĐÍCH, NỘI DUNG VÀ PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU Mục đích của nghiên cứu: Nhằm tìm ra các khó khăn chính trong phát triển kinh tế mà ngƣời dân sống tại khu vực miền núi tỉnh Thái Nguyên gặp phải. Nội dung chính của nghiên cứu: Tổng hợp phân tích sự khác biệt về nguồn lực giữa hai nhóm hộ nghèo - nhóm hộ không nghèo và các khó khăn gặp phải trong sản xuất nông nghiệp. Phương pháp thu thập số liệu sơ cấp: Số liệu sơ cấp đƣợc thu thập từ phỏng vấn các chủ  Tel: 0923.05.1368; Email: anhtukhtc@gmail.com hộ. Mẫu điều tra đƣợc chọn theo phƣơng pháp ngẫu nhiên với 200 hộ (xã Điềm Mặc và xã Cúc Đƣờng thuộc huyện Định Hoá, xã Quy Kỳ và xã Dân Tiến thuộc huyện Võ Nhai; Mỗi xã chọn ra 50 hộ để điều tra ,trong đó có 35 hộ nghèo và 15 hộ không nghèo. Phương pháp xử lý thông tin: Phần mềm thống kê SPSS 15 đƣợc sử dụng để phân tích sự tƣơng quan giữa các chỉ tiêu và kiểm định kết quả nghiên cứu. NHỮNG KHÓ KHĂN TRONG QUÁ TRÌNH PHÁT TRIỂN KINH TẾ HỘ Với nhóm thông tin tìm hiểu thực trạng hộ đang gặp những khó khăn gì trong phát triển kinh tế, chúng tôi đƣa ra 05 nhân tố chính bao gồm: Vốn, đất đai, khuyến nông, lao động và nguồn nƣớc tƣới tiêu để phỏng vấn các hộ điều tra. Tóm lƣợc chung các khó khăn của cả hai nhóm hộ điều tra đƣợc tác giả trình bày thông qua bảng 1. Đối với tiêu chí đất trồng lúa, có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê theo kiểm định Pearson Chi-Square ở mức xác suất 95%. Cụ thể nhóm hộ nghèo có đến 55% số hộ khi đƣợc hỏi đã trả lời họ gặp nhiều khó khăn về đất trồng lúa và mong muốn có thêm đất hơn nữa để canh tác. Trong khi với cùng câu hỏi đó chỉ có 40% số hộ thuộc nhóm hộ không nghèo có chung quan điểm trên. Không có sự khác biệt về nhu cầu cần thêm lao động giữa hai nhóm hộ theo kiểm định Pearson Chi-Square ở mức xác suất 95%. Nguyễn Anh Tú Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 73(11): 120 - 126 [Type the company name] | Error! No text of specified style in document. 121 Bảng 1. Các khó khăn trong phát triển kinh tế hộ Tiêu chí Tỷ lệ % số hộ gặp khó khăn Kiểm định Pearson Chi- Square Nhóm hộ nghèo Nhóm hộ không nghèo Vốn 80,71 76,67 - Đất trồng lúa 55,0 40,0 * Khoa học kỹ thuật 30,71 30,0 - Lao động 20,71 31,67 - Nguồn nƣớc 48,57 48,33 - Nguồn: Số liệu điều tra của tác giả năm 2009 Ghi chú: *, **: Khác biệt theo kiểm định Pearson Chi-Square có ý nghĩa thống kê tại các mức xác suất 95%, 99%. Các yếu tố khác nhƣ: Nhu cầu vay thêm vốn, thông tin khoa học kỹ thuật để phục vụ cho sản xuất, nguồn nƣớc tƣới tiêu cho cây lúa không thấy có sự khác biệt giữa hai nhóm hộ đang nghiên cứu. Tuy vậy, thông qua bảng số liệu trên chúng ta nhận thấy nhu cầu vay vốn để phát triển sản xuất kinh doanh của cả hai nhóm hộ đều ở mức rất cao. Có đến 80,71% số hộ thuộc nhóm hộ nghèo và 76,67% thuộc nhóm hộ không nghèo có nhu cầu vay vốn chủ yếu để phát triển chăn nuôi. Cách sắp xếp số liệu về các nhu cầu để phát triển kinh tế của nhóm hộ nghèo theo thứ tự giảm dần để thấy đƣợc đâu là yếu tố mà hộ đang gặp khó khăn nhất. Để giải quyết các khó khăn trong phát triển kinh tế, thông qua điều tra tác giả thu thập đƣợc các phƣơng án giải quyết các khó khăn thực tế của hai nhóm hộ trong phần phân tích sau đây: Đối với tiêu chí đất trồng lúa Tổng hợp số liệu điều tra thực địa cho thấy có 55% sộ hộ thuộc nhóm hộ nghèo và 40% số hộ thuộc nhóm hộ không nghèo trong mẫu nghiên cứu trả lời rằng họ nhận thấy đất sản xuất nông nghiệp của gia đình nhà mình là rất ít. Họ mong muốn có thêm ruộng đất để canh tác. Diện tích đất sản xuất lúa trung bình của nhóm hộ nghèo là 4,24 sào/hộ và 4,68 sào/hộ đối với nhóm hộ không nghèo. Để giải quyết vấn đề trên, các hộ đƣợc hỏi đã đƣa ra rất nhiều các ý kiến khác nhau. Tổng hợp các ý kiến chính của cả hai nhóm hộ nhƣ sau: Đối với những hộ đang gặp khó khăn về đất trồng lúa ở cả hai nhóm hộ, tỷ lệ lớn các hộ chọn phƣơng án giải quyết đó là không có nhiều đất trồng lúa thì sẽ đi làm thuê cho ngƣời khác hoặc làm thuê ở nơi khác. Tỷ lệ số hộ có ý định mua thêm đất chiếm từ 3% đến 4% cho thấy không dễ dàng để có thể mua thêm đất vì quỹ đất trồng lúa vốn đã rất hạn chế và không ai muốn bán nếu không có lý do đặc biệt. Chỉ có thể mua lại đƣợc đất khi có hộ nào có ý định đi xây dựng kinh tế ở nơi khác muốn bán nhà cửa, ruộng vƣờn. Có 6,7% số hộ thuộc nhóm hộ nghèo và 8,7% số hộ thuộc nhóm hộ không nghèo đƣa ra phƣơng án thuê lại ruộng đất của ngƣời khác. Lý do có thể thuê đƣợc đó là một số hộ không có lao động hoặc lao động của hộ đó lại chủ yếu đi làm việc ở các khu đô thị nên ở nhà chỉ toàn ngƣời già và trẻ em không thể tham gia các công việc đồng áng và giải pháp cho thuê đất là tối ƣu. Tỷ lệ 16% số hộ thuộc nhóm hộ nghèo và 26,1% số hộ thuộc nhóm hộ không nghèo không đƣa ra đƣợc ý kiến gì cho thấy sự bế tắc đối với tiêu chí đất trồng lúa. Nhƣ vậy, chúng ta có thể kết luận tiêu chí đất trồng lúa hầu nhƣ không thể đƣợc đáp ứng yêu cầu của các hộ. Đối với tiêu chí về lao động Nhƣ đã phân tích ở phần trên, số lƣợng lao động tham gia các hoạt động sản xuất nông nghiệp thuộc nhóm hộ nghèo là 86% và ở nhóm hộ không nghèo là 82%. Chỉ có 11,4% số lƣợng lao động thuộc nhóm hộ nghèo và 19% số lƣợng lao động thuộc nhóm hộ không nghèo có thêm nghề phụ nhƣ: Thợ xây, thợ mộc, hàn xì, lắp đặt điện nƣớc... Số còn lại đều trả lời sẽ thất nghiệp ngay sau khi kết thúc các công việc đồng ruộng. Có đến 89% số ý kiến cho rằng họ cần tìm thêm các công việc khác để kiếm thêm thu nhập khi nông nhàn. Tuy vậy, khi vào lúc chính vụ, tình trạng thiếu lao động để thu hái hay chuẩn bị đồng ruộng cho vụ sản xuất mới vẫn xuất hiện. Qua số liệu điều tra cho thấy: có 20,71% sộ hộ thuộc nhóm hộ nghèo và 31,67% số hộ thuộc nhóm hộ không nghèo có nhu cầu về lao động lúc chính vụ: Đối với nhóm hộ nghèo, khả năng hợp tác trong sản xuất nông nghiệp rất cao đƣợc thể Nguyễn Anh Tú Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 73(11): 120 - 126 [Type the company name] | Error! No text of specified style in document. 122 hiện ở hoạt động “đổi công” khi chính vụ. Với tỷ lệ 86% số hộ đƣợc hỏi trả lời họ đổi công với hàng xóm bởi những khó khăn về kinh tế không cho phép họ bỏ chi phí ra để thuê ngƣời làm. Tỷ lệ 68% số hộ thuộc nhóm hộ không nghèo cũng có cùng phƣơng án nhƣ trên đã thể hiện sự hợp tác về lao động tại các khu vực nông thôn là rất tốt. Tuy nhiên, lý do cốt yếu vẫn là do khả năng thanh toán đối với các khoản chi phí trong sản xuất. Tỷ lệ nhóm hộ không nghèo sẵn sàng thuê ngƣời khác làm là 32% so với tỷ lệ 14% ở nhóm hộ nghèo đã giải thích đƣợc nhận định trên của tác giả. Đối với tiêu chí về nguồn vốn Vốn để phát triển sản xuất, chăn nuôi là yếu tố rất quan trọng đối với nông hộ. Qua thực tế điều tra cho thấy có đến 80,71% số hộ thuộc nhóm hộ nghèo và 76,67% số hộ thuộc nhóm hộ không nghèo đang thiếu vốn để phát triển sản xuất, đặc biệt là cho chăn nuôi gia súc. Tiến hành tìm hiểu các ngồn vốn mà hộ có thể vay tại địa phƣơng thông qua phỏng vấn, chúng tôi đã có những ghi nhận, tổng hợp các ý kiến đó nhƣ sau: Có sự khác biệt rất lớn đối với cách ứng xử của hai nhóm hộ đối với tiêu chí vốn. 64,3% số hộ trong nhóm hộ nghèo cho biết họ có thể tiếp cận đƣợc với nguồn vốn vay để phát triển sản xuất, chăn nuôi từ các tổ chức tín dụng nông thôn trong khi đó tỷ lệ này ở nhóm hộ không nghèo chiếm tới 80%. Tuy nhiên, nhƣ đã phân tích ở phần trƣớc chỉ có 38,6% số hộ nghèo và 51,7% số hộ trong nhóm hộ không nghèo đã vay vốn trong năm 2009. Nhƣ vậy, tỷ lệ số hộ thuộc nhóm hộ nghèo mạnh dạn đứng ra vay vốn để phát triển sản xuất chiếm tỷ lệ không nhiều và thấp hơn khá nhiều so với nhóm hộ không nghèo. Ngoài ra, đối với nhóm hộ nghèo, tỷ lệ vay từ họ hàng chiếm tỷ lệ 21,4%. Các trƣờng hợp này đƣợc ghi nhận chủ yếu là ngƣời trong cùng gia đình, dòng tộc cho nhau vay ngắn hạn và ngƣời vay không phải trả tiền lãi. Tuy nhiên, số lƣợng vốn vay lại không đƣợc nhiều và không đáp ứng đƣợc nhu cầu vay vốn của hộ. Chỉ có 10% số hộ thuộc nhóm hộ không nghèo vay của họ hàng. Hộ vay ngắn hạn để thanh toán các chi phi nhƣ: thức ăn cho chăn nuôi, trả lãi ngân hàng,... và sẽ trả lại ngay sau khi xuất bán. Một số lƣợng nhỏ số hộ thuộc cả hai nhóm chọn phƣơng án mua chịu của ngƣời cung cấp. Tuy nhiên, họ sẽ phải trả thêm lãi suất và đƣợc cộng luôn vào giá đối với các khoản nợ đó. Có nghĩa là nếu hộ mua và thanh toán ngay sẽ đƣợc mua với mức giá thấp hơn so với thanh toán chậm. Do đó, số lƣợng hộ chọn phƣơng án này là không nhiều. Vay của tƣ nhân và phải trả lãi cao hơn rất nhiều so với ngân hàng tuy không phổ biến nhƣng vẫn có số liệu ghi nhận đƣợc. Cụ thể là có 2,9% số hộ thuộc nhóm hộ nghèo và 3,3% số hộ thuộc nhóm hộ không nghèo hiện đã vay của tƣ nhân. Lựa chọn này chỉ đƣợc các hộ lựa chọn khi không có thêm phƣơng án nào để huy động vốn cho các khoản phải thanh toán ngay lập tức. Nếu không có, hộ sẽ mất đi cơ hội kinh doanh. Đối với tiêu chí về thông tin khoa học kỹ thuật Theo số liệu điều tra, tổng hợp ở cả hai nhóm hộ ta thấy có trên 91% trả lời rằng họ chƣa hề đƣợc tham gia các lớp tập huấn khuyến nông tại địa phƣơng. Đa phần nguyện vọng của các hộ đƣợc phỏng vấn mong muốn họ đƣợc tham dự các lớp tập huấn khuyến nông thƣờng xuyên để có thêm các kỹ năng trong sản xuất và có đƣợc các thông tin hữu ích về các loại giống cây, con giống mới. Khi đƣợc hỏi hộ mong muốn lựa chọn tham gia hình thức khuyến nông nào, kết quả trả lời đƣợc chúng tôi tổng hợp đƣợc nhƣ sau: Khi đƣợc hỏi nếu thiếu thông tin khoa học kỹ thuật phục vụ cho sản xuất kinh doanh nông nghiệp của hộ, tỷ lệ hộ mong muốn đƣợc tham gia các lớp tập huấn khuyến nông, khuyến lâm đƣợc tổ chức tại địa phƣơng chiếm tỷ lệ cao nhất. Cụ thể trong nhóm hộ nghèo chiếm 60,6% và 50% tỷ lệ thuộc nhóm hộ không nghèo. Phƣơng pháp này dễ tổ chức, số lƣợng hộ tham gia tập huấn cũng đông hơn. Thông thƣờng, cán bộ khuyến nông cơ sở sẽ tập huấn cho bà con tại các nhà văn hoá thôn, bản theo sự phân công của Phòng Khuyến nông huyện. Nguyễn Anh Tú Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 73(11): 120 - 126 [Type the company name] | Error! No text of specified style in document. 123 Có đến 40% số lƣợng hộ thuộc nhóm hộ không nghèo muốn đƣợc đi tham quan các mô hình trình diễn trong trồng trọt và chăn nuôi để đƣợc tận mắt chứng kiến và học tập làm theo các mô hình đó. Tỷ lệ này ở nhóm hộ nghèo chỉ chiếm 25,6%. Điều đó cho thấy sự ham học hỏi về thực nghiệm đối với các mô hình sản xuất kinh doanh giỏi của nhóm hộ không nghèo cao hơn rất nhiều so với nhóm hộ nghèo trong mẫu nghiên cứu. Có rất ít số lƣợng hộ tham khảo thông tin khoa học kỹ thuật qua sách, báo vì các nguyên nhân nhƣ không có thói quen đọc sách, báo. Hơn nữa, cũng không dễ để có đƣợc các tài liệu đó tại các vùng nông thôn. Thu thập đƣợc các thông tin khoa học trực tiếp từ các cán bộ khuyên nông cơ sở chỉ chiếm một tỷ lệ rất nhỏ ở cả hai nhóm hộ. Bởi lẽ cán bộ khuyến nông không thể đi đến từng hộ để truyền đạt đƣợc mà phải thông qua các lớp tập huấn chung với sự tham gia của nhiều hộ dân. Đối với tiêu chí nguồn nước tưới cho cây trồng Qua tìm hiểu về nguồn nƣớc tƣới tiêu cho cây lúa tại địa bàn nghiên cứu, chung tôi nhận thấy có 48,57% sộ hộ thuộc nhóm hộ nghèo và 48,33% số hộ thuộc nhóm hộ không nghèo trả lời nguồn nƣớc chƣa đáp ứng đƣợc nhu cầu cho phát triển sản xuất cây lúa. Nguồn nƣớc vẫn còn phụ thuộc khá nhiều vào điều kiện tự nhiên. Do hệ thống thuỷ nông còn kém phát triển và chƣa đƣợc đầu tƣ thoả đáng, cộng thêm với điều kiện khó khăn về địa hình địa vật đã gây khó khăn ít nhiều đến công tác tƣới tiêu và làm ảnh hƣởng không nhỏ đến năng suất cũng nhƣ khả năng thâm canh của các hộ. Với đại đa số các hộ ở cả hai nhóm đều mong muốn Chính quyền làm các công trình thủy lợi để phục vụ nƣớc tƣới, tiêu cho các diện tích canh tác, đặc biệt là đối với cây lúa. Các giải pháp khác tuy có đƣợc đƣa ra nhƣng không có tính khả thi cao bởi có rất ít các ý kiến khác nhƣ: Bơm nƣớc từ sông suối, đợi trời mƣa có nƣớc thì cấy, khoan giếng cạnh ruộng đều rất khó thực hiện. Do địa hình cũng nhƣ sự phân tán của các khu vực canh tác nên việc đầu tƣ cho hệ thống thuỷ lợi luôn là vấn đề hết sức khó khăn bởi chi phí xây dựng là rất cao và bản thân địa phƣơng cũng không có nguồn kinh phí này. Do vậy, đối với sự phụ thuộc vào nguồn nƣớc tại địa bàn nghiên cứu trƣớc mắt vẫn chƣa có biện pháp khắc phục hữu hiệu. Kết luận Thông qua nghiên cứu chúng tôi nhận thấy có một số nguyên nhân chủ yếu dẫn đến tình trạng đói nghèo của các hộ dân đang sinh sống ở khu vực miền núi tỉnh Thái Nguyên nhƣ sau: Thiếu đất đai sản xuất nông nghiệp: Với sự hạn chế về quỹ đất dành cho thâm canh cây lúa bình quân/hộ nhƣ đã phân tích ở trên và do điều kiện địa hình đồi núi chia cắt nên việc phát triển sản xuất nông nghiệp từ cây lúa là không khả thi. Không thể gia tăng diện tích trồng lúa cây lúa từ việc chuyển đổi mục đích sử dụng đất. Cây lúa chỉ giúp giữ vững an ninh lƣơng thực cho hộ trong điều kiện thời tiết thuận lợi. Không thể tạo ra sản phẩm hàng hoá từ cây lúa vì sản phẩm làm ra chỉ đủ để đáp ứng nhu cầu lƣơng thực của hộ. Thiếu phương thức làm kinh tế: Qua tìm hiểu chúng tôi thấy hầu hết các hộ đều có nhu cầu vay vốn để phát triển sản xuất - chăn nuôi. Tuy số lƣợng vốn và nguồn vốn vay để cho các hộ có điều kiện tiếp cận là khá dồi dào. Nhƣng trong nhóm hộ nghèo có đến 61,4% tổng số hộ không dám vay vốn. Nguyên nhân do hộ không có phƣơng hƣớng kinh doanh cũng nhƣ không mạnh dạn vay vốn để phát triển chăn nuôi, trồng trọt... nên đã không vay vốn để làm kinh tế. Lao động không có nguồn thu nhập khác: Ngoài thời gian tham gia các hoạt động sản xuất nông nghiệp, lao động tại địa phƣơng đa phần là không có nghề phụ để tạo ra thu nhập. Nhƣ phân tích ta thấy chỉ có 11,4% số lao động trong nhóm hộ nghèo và 19% số lƣợng lao động trong nhóm hộ không nghèo ngoài tham gia các hoạt động sản xuất nông nghiệp trong thời điểm chính vụ còn có thêm một số nghề phụ để tạo ra thu nhập. Số lao động còn lại chiếm đại đa số và không có hoạt động gì khác để có thêm thu nhập. Thiếu thông tin khuyến nông: Có trên 90% số hộ nghèo và không nghèo đều thiếu các thông tin khuyến nông. Họ có rất ít các thông tin về Nguyễn Anh Tú Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 73(11): 120 - 126 [Type the company name] | Error! No text of specified style in document. 124 tiến bộ khoa học kỹ thuật phục vụ cho sản xuất nông nghiệp nhƣ: Giống mới, quy trình chăm sóc, bảo vệ... nên phân tích cho thấy các hộ thuộc nhóm hộ nghèo có thu nhập trung bình từ lúa thấp hơn nhiều so với nhóm hộ không nghèo. Các hộ thuộc nhóm hộ không nghèo đã áp dụng nhiều hơn các yếu tố nhƣ: giống mới, phân bón, thuốc BVTV nên đã thu đƣợc hiệu quả sản xuất cao hơn so với nhóm nhóm hộ nghèo trong mẫu nghiên cứu. MỘT SỐ KIẾN NGHỊ GIẢI PHÁP GIẢM NGHÈO * Thành lập cơ quan chuyên trách đối với mục tiêu xoá đói giảm nghèo và bảo vệ môi trường nông thôn Xây dựng các chƣơng trình thiết thực đối với nhóm hộ nghèo, coi đó là một giải pháp có tính bền vững góp phần xoá đói giảm nghèo, tỉnh Thái Nguyên cần thiết phải thành lập một cơ quan độc lập để xây dựng các chƣơng trình hỗ trợ để phát triển kinh tế - xã hội cho các khu vực nông thôn, miền núi, vùng sâu, vùng xa từ nguồn vốn ngân sách của tỉnh và kết hợp triển khai tốt các chƣơng trình mục tiêu quốc gia trong nhiệm vụ xoá đói giảm nghèo của Chính phủ. Tăng hiệu quả hoạt động của các trạm khuyến, nông khuyến lâm hiện nay. UBND tỉnh cần có các cuộc xúc tiến hợp tác với các tổ chức nƣớc ngoài nhƣ GTZ, tổ chức phi chính phủ nhƣ Plan, Care... để kêu gọi sự giúp đỡ về kinh nghiệm tổ chức, quản lý và đặc biệt là về tài chính và các phƣơng pháp tiếp cận. Đó là điều kiện rất thuận lợi để nâng cao mức sống của ngƣời dân khi tham gia dự án. Bảo vệ và gìn giữ môi trƣờng thông qua các dự án nhƣ trồng rừng, xây dựng hệ thống nƣớc sạch nông thôn, xoá nhà dột nát, xây dựng nhà vệ sinh bán tự hoại... Hiện nay, có rất nhiều các tổ chức phi Chính phủ đang hoạt động tại Việt Nam với các mục tiêu nhƣ: Bảo vệ và phát triển rừng bền vững, chăm sóc. * Chính sách vốn - Tạo điều kiện thuận lợi cho các hộ nghèo vay vốn phát triển trồng trọt, chăn nuôi, phát triển các ngành nghề tự do nhƣ mộc, hàn xì... Nhu cầu vay vốn của nhóm hộ nghèo là rất cao nhƣ phân tích ở phần trƣớc. Tuy vậy số hộ nghèo đã tiếp cận đƣợc với nguồn vốn vây từ ngân hàng rất thấp. Có nhiều ghi nhận rằng hộ không biết vay vốn để làm gì hoặc vay vốn về sợ làm ăn thua lỗ lại không trả đƣợc ngân hàng. - Ngoài việc ƣu tiên về số lƣợng vốn vay, ƣu đãi về lãi suất, cần có các bƣớc kiểm tra, tƣ vấn giúp đỡ để các hộ nghèo vay vốn sử dụng đúng mục đích của vốn vay và sử dụng hiệu quả nguồn vốn vay đó. Tránh tình trạng hộ nghèo vay vốn nhƣng làm ăn không hiệu quả hoặc không sử dụng đúng mục đích vay vốn dẫn đến tình trạng thua lỗ và thêm nợ nần. - Phối hợp với các tổ chức tại địa phƣơng nhƣ hội nông dân, hội phụ nữ để hƣớng dẫn quy trình vay vốn. Động thái này giúp cho các hội viên mạnh dạn đứng ra vay vốn để phát triển chăn nuôi... * Chính sách khuyến nông, khuyến lâm Để cho đại bộ phận ngƣời dân miền núi đƣợc tiếp cận với những tiến bộ khoa học kỹ thuật mới trong trồng trọt và chăn nuôi thì công tác khuyến nông cần phải đƣợc đặc biệt coi trọng. Chính vì vậy đòi hỏi tỉnh phải có ngân sách phân bổ cho việc tổ chức các khoá tập huấn đào tạo cho ngƣời dân thông qua việc mời các chuyên gia trong và ngoài nƣớc, kết hợp với các trƣờng Đại học trong tỉnh, các doanh nghiệp đến để tập huấn cho ngƣời dân. Tổ chức cho các thành viên tiêu biểu đi thăm quan, học hỏi các cách làm ăn ở các địa phƣơng khác. Hỗ trợ kinh phí đi lại, ăn nghỉ cho các thành viên tham gia trong chuyến đi. Xây dựng các mô hình trình diễn để ngƣời dân đƣợc tận mắt chứng kiến để học tập làm theo. Các mô hình trình diễn bao gồm: Chăn nuôi lợn, chăn nuôi gia cầm, các mô hình canh tác lúa giống mới, mô hình trồng rau sạch, giết mổ gia súc gia cầm, trồng hoa tƣơi, kinh tế vƣờn - ao - chuồng, kinh tế vƣờn - rừng... sẽ thật sự hữu ích để thay đổi nhận thức cũng nhƣ cung cách làm ăn cho ngƣời dân vốn chỉ làm quen với sản xuất tự cung tự cấp. * Nhóm giải pháp đối với các hộ gia đình Đối với các hộ gia đình, nhất là những hộ nghèo, để phát triển sản xuất nhằm cải thiện cơ hội việc làm, nâng cao thu nhập các hộ cần: - Thay đổi tƣ duy trong phát triển sản xuất, từ chỗ coi nông dân chỉ biết cấy lúa, trồng rau, Nguyễn Anh Tú Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 73(11): 120 - 126 [Type the company name] | Error! No text of specified style in document. 125 con trâu, cái cày và đặc biệt sản xuất là để phục vụ cho nhu cầu của hộ nay có khao khát làm kinh tế để thoát nghèo. Sản xuất ngoài phục vụ cho nhu cầu tiêu dùng của hộ còn với mục đích là để bán để thu tiền lợi nhuận và tái đầu tƣ cho các chu kỳ tiếp theo. - Mạnh dạn vay vốn để đầu tƣ giống lúa mới, phân bón, thuốc bảo vệ thực vật. Bên cạnh đó phát triển chăn nuôi lợn, gia cầm cũng đòi hỏi vốn đầu tƣ mà bản thân hộ không thể đáp ứng đƣợc. Đối với nhứng hộ có diện tích rừng lớn cũng nên đầu tƣ cây giống, phân bón để phát triển trồng rừng sản xuất. - Tích cực tham gia các lớp tập huấn khuyến nông, khuyến lâm do địa phƣơng tổ chức. Tham gia học hỏi từ các mô hình trình diễn. Trao đổi thông tin, kinh nghiệm để các hội viên cùng tham gia. - Tham gia các tổ chức hợp tác về lao động để cùng tạo ra cơ hội việc làm và trợ giúp nhau khi cần để không làm gián đoạn công việc. Ngoài việc trợ giúp về việc làm, các thành viên còn trợ giúp nhau trong các công việc gia đình, lúc chính vụ... CÁC KIẾN NGHỊ * Đối với tỉnh Thái Nguyên - Chuyển dịch cơ cấu kinh tế và tạo ra các cơ hội việc làm phi nông nghiệp từ các hoạt động nghề tự do là một hƣớng đi đúng đắn để phát triển kinh tế hộ nông dân. Để làm đƣợc điều đó cần có sự quan tâm đúng mức của các cấp chính quyền địa phƣơng. Hỗ trợ thành lập các HTX chăn nuôi, HTX làm dịch vụ... để tạo ra các ngành nghề phi nông nghiệp, giải quyết công ăn việc làm cho lao động địa phƣơng, ổn định và nâng cao đời sống kinh tế, văn hoá tinh thần cho ngƣời dân. Tạo điều kiện về đất đai trong quy hoạch vùng chăn nuôi tập chung cho các HTX chăn nuôi để thuận lợi cho công việc quản lý, bảo vệ, chăm sóc thú y, xử lý phân... để bảo vệ môi trƣờng tự nhiên. - Xây dựng và ban hành các quy định, trách nhiệm cụ thể cho các ban ngành, các cấp chính quyền cơ sở trong việc quản lý, hỗ trợ phát triển kinh tế nhằm từng bƣớc xoá đói giảm nghèo, bảo vệ môi trƣờng và định hƣớng cho các HTX chăn nuôi, HTX làm dịch vụ tiếp cận với các nguồn vốn, kỹ thuật, con giống, thị trƣờng đầu vào, thị trƣờng đầu ra, việc làm... - Xây dựng các đề án hỗ trợ về mô hình chăn nuôi HTX, HTX dịch vụ để trợ giúp về vốn, khoa học kỹ thuật và công nghệ mới, công nghệ thông tin, hệ thống hạch toán kế toán. Mở các lớp khuyến nông, khuyến lâm để cho ngƣời dân có điều kiện tiếp cận với các thành tựu khoa học mới trong trồng trọt và chăn nuôi để phát triển kinh tế hộ. - Đầu tƣ hệ thống thuỷ lợi để phục vụ tƣới tiêu cho các diện tích lúa tập trung. Giúp ngƣời dân tăng khả năng canh tác từ một vụ lúa lên hai vụ lúa. Trƣớc đây, bà con chủ yếu chỉ cấy đƣợc một vụ lúa, vụ còn lại không cấy đƣợc vì không có nƣớc. - Phát triển trồng rừng sản xuất với các giống nhƣ: Bạch Đàn, keo Tai tƣợng... trên những diện tích đồi, núi không có khả năng tƣới nƣớc để sản xuất nông nghiệp. Hỗ trợ ngƣời dân tiền mua cây giống, phân bón, nhân công và chi phí bảo vệ trong coi. Đó chính là biện pháp tốt để kết hợp các mục tiêu kinh tế và bảo vệ môi trƣờng. * Đối với các hộ nông dân - Thành lập các HTX chăn nuôi để tạo ra các lợi thế khi quy mô chăn nuôi lớn. Đàm phán đƣợc với các nhà cung cấp về giống, thuốc thú y và đặc biệt là thức ăn chăn nuôi trong các khâu cung cấp và thanh toán. - Thành lập các HTX làm dịch vụ về xây dựng, giao thông, hàn xì, nghề mộc, giúp việc gia đình... để tạo ra các việc làm phi nông nghiệp trong khi nông nhàn. Giải quyết đƣợc các lao động dƣ thừa khi chƣa đến vụ trồng lúa. Gia tăng thu nhập và cải thiện đời sống sinh hoạt cho các hộ. - Mạnh dạn vay vốn để đầu tƣ cho chăn nuôi ngay tại hộ nếu hộ không muốn tham gia vào các HTX chăn nuôi. Tuy nhiên, hộ vẫn có thể đƣợc hƣởng lợi khi thông qua các HTX chăn nuôi để mua con giống, thức ăn và ngay cả trong khâu tiêu thụ để không bị tƣ thƣơng ép giá. Nguyễn Anh Tú Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 73(11): 120 - 126 [Type the company name] | Error! No text of specified style in document. 126 - Đầu tƣ cho con cái học hành để các em đƣợc trang bị các kiến thức, ứng xử trong đời sống xã hội. Đó là điều kiện cần để có thể làm việc tại các cơ quan nhà nƣớc, các công ty tƣ nhân, công ty nƣớc ngoài... TÀI LIỆU THAM KHẢO [1]. Nguyễn Thành Công (năm 2006), Thực trạng và giải pháp xoá đói giảm nghèo cho đồng bào dân tộc vùng núi cao tỉnh Thái Nguyên. [2]. Đỗ Anh Tài (năm 2007) Thực trạng và giải pháp phát triển ngành nghề tiểu thủ công nghiệp nhằm tăng thu nhập cho hộ nghèo trên địa bàn huyện Định Hoá tỉnh Thái Nguyên.. SUMMARY SOCIAL AND ECONOMIC SOLUTIONS TO POVERTY REDUCTION FOR POOR MOUNTAINOUS AREAS IN THAI NGUYEN PROVINCE Nguyen Anh Tu  - Thai Nguyen University The main objective of the study is aimed to improve the living conditions of poor households in mountainous areas in Thai Nguyen province through finding out difficulties for scarce resources for the economic development of the households. Research uncovered a number of major causes leading to poverty of the households living in these mountainous areas, such as: lack of agricultural land, lack of economic development modes, lack of agricultural information, and lack of capital for agricultural production. In addition, the local labors have no incomes other than agriculture, so encountered many difficulties in improving incomes, raising living standards in all material, cultural and social aspect. So we researched the subject to find out the difficulties of poor households, which offer solutions to reduce poverty, increase income for poor households. Keywords: solution, economics, labor, agriculture, manufacturing Nguyễn Anh Tú Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 73(11): 120 - 126 [Type the company name] | Error! No text of specified style in document. 127 Nguyễn Anh Tú Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 73(11): 120 - 126 [Type the company name] | Error! No text of specified style in document. 128

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfnhung_kho_khan_va_giai_phap_khac_phuc_nham_giam_ngheo_cho_ng.pdf