Nhìn lại các công cụ của chính sách tiền tệ thời gian qua và một vài đề xuất
Gói hỗ trợ của Chính Phủ Việt Nam được định lượng là 1 tỷ USD (trên 17.000 tỷ
đồng) với cách làm rất sáng tạo, rất linh hoạt, rất “made in Việt Nam”. Phần lớn
tiền hỗ trợ không được chi trực tiếp mà được hỗ trợ gián tiếp thông qua h ỗ trợ lãi
suất.
1. Điều hành chính sách tiền tệ 2008-2009 - những thành công lớn
Theo nhận định của nhiều chuyên gia tài chính trong và ngoài nước, của giới ngân
hàng cũng như công luận nói chung, việc điều hành chính sách tiền tệ trong hai
năm qua đã thực sự thành công. NHNN đã có những quyết định hết sức nhanh
nhậy, kịp thời trong điều hành lãi suất, tỷ giá, và những liệu pháp đó đã nhanh
chóng có tác động điều tiết rõ rệt đối với thị trường. Có thểđiểm lại một số ví dụ.
- Về lãi suất
Sau hơn hai năm giữổn định ở mức 8,25%/năm, lãi suất cơ bản (LSCB) đã được
NHNN điều chỉnh tăng lên mức 8,75% từ 01/02/2008 và nhảy vọt lên mức 12% từ
19/05/08. Chưa đầy 1 tháng sau đó, từ ngày 11/06/09, LSCB đã được đẩy lên mức
đỉnh - 14%. Cùng với LSCB, lãi suất tái chiết khấu (LSTCK), lãi suất tái cấp vốn
(LSTCV) cũng liên tiếp được điều chỉnh tăng với đỉnh tương ứng là 13% và 15%
áp dụng trong khoảng thời gian từ 11/06/08-20/10/08. Tỷ lệ dự trữ bắt buộc đối
với các TCTD cũng được điều chỉnh tăng trong khi lãi suất DTBB bịđiều chỉnh
giảm. NHNN còn phát hành trên 20.000 tỷđồng tín phiếu bắt buộc đối với các
NHTM.
10 trang |
Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1903 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Nhìn lại các công cụ của chính sách tiền tệ thời gian qua và một vài đề xuất, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Nhìn lại các công cụ của chính sách tiền tệ
thời gian qua và một vài đề xuất
Gói hỗ trợ của Chính Phủ Việt Nam được định lượng là 1 tỷ USD (trên 17.000 tỷ
đồng) với cách làm rất sáng tạo, rất linh hoạt, rất “made in Việt Nam”. Phần lớn
tiền hỗ trợ không được chi trực tiếp mà được hỗ trợ gián tiếp thông qua hỗ trợ lãi
suất.
1. Điều hành chính sách tiền tệ 2008-2009 - những thành công lớn
Theo nhận định của nhiều chuyên gia tài chính trong và ngoài nước, của giới ngân
hàng cũng như công luận nói chung, việc điều hành chính sách tiền tệ trong hai
năm qua đã thực sự thành công. NHNN đã có những quyết định hết sức nhanh
nhậy, kịp thời trong điều hành lãi suất, tỷ giá,… và những liệu pháp đó đã nhanh
chóng có tác động điều tiết rõ rệt đối với thị trường. Có thể điểm lại một số ví dụ.
- Về lãi suất
Sau hơn hai năm giữ ổn định ở mức 8,25%/năm, lãi suất cơ bản (LSCB) đã được
NHNN điều chỉnh tăng lên mức 8,75% từ 01/02/2008 và nhảy vọt lên mức 12% từ
19/05/08. Chưa đầy 1 tháng sau đó, từ ngày 11/06/09, LSCB đã được đẩy lên mức
đỉnh - 14%. Cùng với LSCB, lãi suất tái chiết khấu (LSTCK), lãi suất tái cấp vốn
(LSTCV) cũng liên tiếp được điều chỉnh tăng với đỉnh tương ứng là 13% và 15%
áp dụng trong khoảng thời gian từ 11/06/08-20/10/08. Tỷ lệ dự trữ bắt buộc đối
với các TCTD cũng được điều chỉnh tăng trong khi lãi suất DTBB bị điều chỉnh
giảm. NHNN còn phát hành trên 20.000 tỷ đồng tín phiếu bắt buộc đối với các
NHTM.
Hình 1: Diễn biến LSCB của Việt Nam thời gian qua
Nguồn: NHNN Việt Nam
Chính sách tiền tệ thắt chặt với hàng loạt các động thái quyết liệt trên đã tạo ra
một lực hút mạnh thu hút tiền từ lưu thông đồng thời làm giảm mạnh cấp tín dụng
từ các NHTM ra thị trường. Và kết quả là lạm phát đã bị chặn đứng và đẩy lùi từ
đỉnh điểm 3,91%/tháng (tương đương 25,2%/năm) trong tháng 5 xuống các mức
thấp hơn trong quý 3 và thậm chí âm trong các tháng cuối năm. Tỷ lệ lạm phát cả
năm 2008 chỉ còn là 19,89%.
Sau khi đã thực hiện thành công vai trò kiềm chế lạm phát, NHNN đã từng bước
nới lỏng chính sách tiền tệ và lãi suất vẫn là một công cụ hết sức quan trọng.
LSCB đã hạ dần từ đỉnh 14% xuống 13% (từ 21/10/08), 12% (từ 05/11/08) và liên
tiếp được điều chỉnh tới 3 lần trong vòng 1 tháng cuối năm 2008 (11% từ
21/11/08, 10% từ 05/12/08, 8,5% từ 22/12/08) trước khi giữ ổn định ở mức 7% (từ
01/02/09) như hiện nay. Cùng với LSCB, LSTCK, LSTCV cũng được điều chỉnh
giảm; các NHTM được bán tín phiếu bắt buộc trước hạn; Tỷ lệ dự trữ bắt buộc
được nới lỏng dần đi kèm với việc điều chỉnh lãi suất DTBB. Các công cụ trên đã
tác động mạnh tới thị trường, làm tăng dần mức cung tiền cho nền kinh tế. Tăng
trưởng tín dụng 2008 đạt ~ 23% (bằng gần ½ mức tăng của năm 2007), riêng 6
tháng đầu năm 2009 đạt ~ 17,1%, tăng ~ 17,8% so với cùng kỳ 2008. Tăng trưởng
tín dụng đã góp phần chặn đà suy giảm, ổn định kinh tế vĩ mô.
- Về tỷ giá
Diễn biến tỷ giá ngoại tệ của Việt Nam từ đầu năm 2008 đến nay là hết sức phức
tạp. Trong quý 1/2008, có những lúc tỷ giá USD liên ngân hàng xuống dưới
16.000 và tỷ giá thị trường tự do thậm chí còn thấp hơn trong ngân hàng. Nhưng
chỉ qua đầu quý 2, tỷ giá lại tăng đến chóng mặt, có lúc đã lên tới 19.500.
NHNN đã quyết định nới biên độ dao động từ +1% lên +2% (từ ngày 26/06/08)
đồng thời triển khai hàng loạt các biện pháp khác: kiểm soát chặt các đại lý thu đổi
ngoại tệ, tăng cường truyền thông, công bố dự trữ ngoại hối của Việt Nam (điều
chưa hề có tiền lệ tại Việt Nam),… Nhờ đó, tỷ giá đã dần dịu lại và duy trì ở mức
~ 16.500 cho đến hết quý 3/08.
Từ cuối năm 2008 đến nay, suy thoái kinh tế đã tác động mạnh đến nguồn cung
ngoại tệ của Việt Nam; cộng thêm tâm lý găm giữ ngoại tệ của dân cư và các
thành phần kinh tế đã dẫn đến tình trạng khan hiếm ngoại tệ, làm cho tỷ giá ngoại
tệ luôn nóng, phố biến ở mức ~ 18.000. NHNN đã thêm hai lần điều chỉnh biên độ
dao động tỷ giá (+3% từ 06/11/08 và +5% từ 23/03/09) và triển khai một số công
cụ can thiệp khác. Vì vậy, tỷ giá ngoại tệ đang dần ổn định, nhu cầu ngoại tệ trong
thanh toán những mặt hàng thiết yếu được đáp ứng cơ bản đầy đủ.
- Hỗ trợ lãi suất
Đầu năm 2009, Chính Phủ đã đưa ra gói kích cầu bao gồm các nhóm giải pháp cơ
bản: (i)Với doanh nghiệp: giảm, giãn thuế TNDN, hỗ trợ lãi suất ở mức 4%; Với
dân cư: trợ cấp người nghèo, giãn/miễn thuế TNCN, giảm VAT, đào tạo lao động;
(3) Về phía Chính Phủ: tăng đầu tư cơ sở hạ tầng, tăng chi tiêu công, đẩy mạnh
xúc tiến thương mại để tăng xuất khẩu.
Nổi bật và có tác động rõ rệt nhất là chính sách hỗ trợ lãi suất mà ở đó vai trò của
hệ thống ngân hàng và các công cụ chính sách tiền tệ một lần nữa lại được phát
huy mạnh mẽ.
Đến hết tháng 7/2009, tổng dư nợ cho vay HTLS của toàn hệ thống ngân hàng đã
đạt 389.107 tỷ đồng, trong đó dư nợ đối với các doanh nghiệp nhà nước là 61.048
tỷ đồng, doanh nghiệp ngoài quốc doanh là 259.454 tỷ đồng và với hộ kinh doanh
là 68.605 tỷ đồng.
Để đối phó với suy thoái, Chính Phủ của hầu hết các nước đều đưa ra các gói hỗ
trợ lên tới hàng ngàn tỷ USD với cách thức chủ yếu là hỗ trợ trực tiếp: mua tài sản
xấu, sở hữu vốn của các tập đoàn tài chính và tập đoàn công nghiệp lớn; chi tiền
cho người nộp thuế, người tiêu dùng; thưởng tiền cho người hủy xe cũ, mua xe
mới,… Gói hỗ trợ của Chính Phủ Việt Nam được định lượng là 1 tỷ USD (trên
17.000 tỷ đồng) với cách làm rất sáng tạo, rất linh hoạt, rất “made in Việt Nam”.
Phần lớn tiền hỗ trợ không được chi trực tiếp mà được hỗ trợ gián tiếp thông qua
hỗ trợ lãi suất. Bằng cách này chúng ta đã kích thích tăng trưởng mạnh tín dụng,
giúp các doanh nghiệp có được nguồn vốn giá rẻ nên giảm được giá thành sản
phảm, duy trì ổn định sản xuất, kích thích được nhu cầu trong nước,…
Cũng đã có nhiều ý kiến trái chiều về chính sách hỗ trợ lãi suất của Chính Phủ
rằng can thiệp như vậy sẽ làm méo mó hoạt động của các NHTM, làm như vậy
thực chất là kích cung chứ không phải kích cầu, nên hạ lãi suất thay vì “trợ giá”
qua lãi suất, nên hỗ trợ trực tiếp cho doanh nghiệp và người dân, …. Và công bằng
mà nói, chính sách này cũng đã gây ra một số tác động không mong muốn như:
làm thay đổi cung cầu vốn ngoại tệ và VND (nhu cầu vay vốn VND tăng mạnh,
một số khách hàng trả nợ trước hạn, trả nợ vay ngoại tệ chuyển sang vay bằng
VND,…); tạo sức ép cho tỷ giá,…
Tuy nhiên, sau hơn nửa năm thực hiện hỗ trợ lãi suất, thực tệ ngày càng minh
chứng cho tính đúng đắn của công cụ này. Thứ nhất, số tiền hỗ trợ của Chính Phủ
có quy mô không lớn, sẽ không có tác dụng đáng kể nếu chi hỗ trợ trực tiếp cho
doanh nghiệp và dân cư; chưa kể quá trình thực hiện có thể phát sinh nhiều tiêu
cực. Thứ hai, nếu hạ lãi suất chúng ta có thể bị rơi vào “bẫy thanh khoản”[3], các
NHTM không huy động được và cũng không cho vay được. Và rõ ràng là nếu
không tăng được tín dụng cho nền kinh tế thì việc kích cầu chẳng có ý nghĩa gì.
Thứ ba, hỗ trợ lãi suất qua tín dụng sẽ khuyến khích thúc đẩy sản xuất, kích thích
tiêu dùng và vẫn đảm bảo các NHTM vẫn huy động được. Thứ 4, số tiền hỗ trợ
qua tín dụng được khuyếch đại lên nhiều lần (~ 32 lần) tạo ra một nguồn vốn lớn
cho đầu tư và tiêu dùng xã hội.
2. Nền kinh tế thế giới đã chạm đáy và kinh tế Việt Nam đã đến thời kỳ “hậu
suy giảm”?
Dù còn nhiều ý kiến trái chiều nhưng phần lớn các nhà kinh tế đều thống nhất
nhận định, khủng hoảng kinh tế thế giới đã đang đi qua giai đoạn tồi tệ nhất và có
nhiều dấu hiệu phục hồi vào cuối năm 2009, đầu năm 2010. Tất nhiên, mô hình
phục hồi dạng chữ U, chữ L hay chữ W còn chưa ngã ngũ và còn tùy thuộc vào
từng nền kinh tế.
Thông tin từ các Bộ Tài Chính, Bộ Công thương, Tổng cục Thống kê cho biết giá
trị sản xuất công nghiệp tháng 7 tăng 2,3% so với tháng 6 và 7,6% so với cùng kỳ
2008. Như vậy ngoại trừ tháng 1 tăng trưởng âm, 6 tháng còn lại đều có tốc độ
tăng trưởng dương và tính chung 7 tháng, giá trị sản xuất công nghiệp đã tăng
5,1%. GDP 7 tháng đầu năm tăng 4,4% và dự báo cả năm sẽ đạt mức trên 5%.
Tổng mức bán lẻ hàng hóa dịch vụ và doanh thu dịch vụ tiêu dùng 7 tháng tăng
18,1% so với cùng kỳ 2008. CPI tháng 7 tăng 0,52% so với tháng 6, thấp hơn mức
tăng của tháng trước (0,55%) đưa CPI 7 tháng đầu năm về mức 1 con số (9,25%).
Kim ngạch xuất khẩu tháng 7 tăng 0,3% so với tháng 6. Tổng kim ngạch xuất
khẩu, nhập khẩu 7 tháng đạt tương ứng 32,4 tỷ USD và 35,4 tỷ USD giảm 13,4%
và 34% so với cùng kỳ 2008. Mức nhập siêu 7 tháng ~ 3 tỷ USD (~ 10% tổng kim
ngạch XNK, thấp hơn mức 40,8% cùng kỳ 2008). FDI cam kết đạt trên 9 tỷ USD
với mức giải ngân ~ 4,5 tỷ USD.
Theo nhận định của nhiều chuyên gia kinh tế, kinh tế Việt Nam sẽ phục hồi nhanh
trong cuối năm 2009 và đầu 2010.
3. Những nguy cơ và một vài đề xuất cho cho thời gian tới
Nền kinh tế Việt Nam đang có dấu hiệu dần ổn định và tăng trưởng trở lại. Tuy
nhiên, vẫn còn tiềm ẩn nhiều nguy cơ. Tốc độ tăng trưởng GDP còn thấp; tình
trạng nhập siêu và thâm hụt cán cân thanh toán chậm được cải thiện; mức thâm hụt
ngân sách cao; lạm phát có nguy cơ tăng do giá cả một số mặt hàng nhất là nguyên
nhiên liệu đầu vào đang tăng và sẽ tiếp tục tăng khi kinh tế hồi phục.
Về lĩnh vực tài chính tiền tệ, cuộc đua lãi suất của các NHTM đang có xu hướng
nóng dần lên, một số NHTM bắt đầu gặp khó khăn về thanh khoản; Tăng trưởng
tín dụng có dấu hiệu “nóng”; Tình trang khan hiếm ngoại tệ chưa được giải quyết
triệt để, tỷ giá ngoại tệ còn diễn biến phức tạp. Như vậy, có thể thấy nền kinh tế
Việt Nam đã tạm qua giai đoạn suy giảm và đang bắt đầu hồi phục với không ít
khó khăn và nhiều nguy cơ đòi hỏi phải những nhà hoạch định chính sách tiền tệ
phải đối mặt để ngăn chặn.
Điều tiết mức cung tiền là nội dung cơ bản và cũng là quan trọng nhất của chính
sách tiền tệ. Thông qua các công cự khác nhau như lãi suất, tỷ giá, dự trữ bắt buộc,
nghiệp vụ thị trường mở,… NHNN tác động điều tiết mức cung tiền nhằm ổn định
tiền tệ, tác động vào nên kinh tế hướng đến các mục tiêu kinh tế vĩ mô. Vai trò to
lớn và ngày càng rõ rệt của các công cụ thực thi chính sách tiền tệ là thực tế hoàn
toàn không thể phủ nhận. Từ giác độ NHTM, xin nêu ra một số đề xuất.
Thứ nhất, ngoại trừ điều kiện bất khả kháng, nên tiếp tục duy trì lãi suất cơ bản
như thời gian qua.
Trong thời gian qua, lãi suất cơ bản đã thực sự trở thành công cụ quan trọng trong
điều hành chính sách tiền tệ, chỉ báo nhạy bén của thị trường tiền tệ. Mỗi thay đổi
của công cụ này đã gần như ngay lập tức có tác động điều tiết rõ rệt đối với thị
trường.
Tính đến thời điểm hiện nay đã là hơn 6 tháng NHNN giữ lãi suất cơ bản ở mức
7%. Điều này một mặt cho thấy sự ổn định của thị trường tiện tệ. Mặt khác, mức
lãi suất thấp có tác dụng tích cực trong kích thích đầu tư, giảm khó khăn cho các
doanh nghiệp, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế vĩ mô - yếu tố rất cần thiết trong giai
đoạn “hậu suy thoái”. Vì vậy, lãi suất cơ bản nên tiếp tục giữ ổn định ở mức như
hiện nay.
Thứ hai, nên xem xét thu hẹp phạm vi hỗ trợ lãi suất, tiến tời dừng thực hiện hỗ
trợ lãi suất.
Gần đây NHNN đang có hướng hạn chế dần mức cung tiền với các biện pháp:
khống chế tăng trưởng dư nợ tín dụng của các NHTM Nhà nước, giảm lãi suất
DTBB (xuống còn 1,2% từ 17/07/09), giảm tỷ lệ cho vay trung dài hạn trên tổng
nguồn vốn ngắn hạn từ 40% xuống còn 30% (Thông tư 15/2009/TT-NHNN ngày
10/08/2009).
Trước hết phải nói rằng, hạn chế mức cung tiền trong thời điểm hiện nay là một
động thái đúng đắn khi tín dụng có xu hướng tăng nóng và cần thiết để ngăn chặn
nguy cơ lạm phát. Áp lực tăng giá trong năm 2009 có thể còn thấp nhưng chắc
chắn sang năm 2010 sẽ lớn hơn do các nền kinh tế bắt đầu phục hồi, nhu cầu đầu
vào lớn đẩy giá cả của nguyên nhiên liệu tăng cao.
NHNN nên xem xét đề xuất với Chính Phủ giảm dần, tiến tới ngừng hỗ trợ lãi
suất. Tiếp tục duy trì hỗ trợ lãi suất một mặt sẽ tạo sức ép gia tăng lạm phát, mặt
khác có thể dẫn đến việc sử dụng vốn thiếu hiệu quả gây tác động không tốt cho
nền kinh tế và hệ lụy xấu cho các NHTM. Dừng hỗ trợ lãi suất cũng sẽ trực tiếp
giảm áp lực bội chi ngân sách, giảm áp lực lạm phát.
Tính đến hết tháng 7 năm 2009, tổng dư nợ tín dụng của toàn hệ thống đã tăng
22,76% so với cuối năm 2008. Thời gian qua, dư nợ tín dụng tăng mạnh không thể
nói là không có lý do từ hiệu ứng của chính sách “hỗ trợ lãi suất”. Từ nay đến hết
năm, nếu dừng hỗ trợ lãi suất, dư nợ tín dụng vẫn có thể tăng 28-30%.
Trong cơn bão khủng hoảng tài chính thời gian qua, các NHTM Việt Nam vẫn trụ
vững nhờ đảm bảo tính an toàn trong hoạt động. An toàn hoạt động của các
NHTM là nhân tố hết sức quan trọng đảm bảo tính an toàn của hệ thống, đảm bảo
an toàn tiền tệ và ổn định kinh tế vĩ mô. Vì vậy, thời gian tới các NHTM cần đặc
biệt chú trọng để duy trì an toàn hoạt động mà một trong các biện pháp là phải
đảm bảo sự cân đối cần thiết theo kỳ hạn còn lại của các khoản mục tài sản và
công nợ, đảm bảo tỷ lệ sử dụng vốn huy động ngắn hạn cho vay trung dài hạn theo
quy định của NHNN.
Thứ ba, các NHTM cần phối hợp chặt chẽ và tăng cường đồng thuận.
Mỗi NHTM có một mục tiêu, chiến lược hoạt động riêng. Các NHTM là đối thủ
cạnh tranh của nhau nhưng cũng đồng thời là đồng minh của nhau trong những
“trận tuyến chung”: chống lạm phát, chống suy giảm kinh tế,… Và sự tương hỗ,
phối hợp hành động giữa các NHTM với nhau trong những giai đoạn khó khăn
chung là hết sức cần thiết và quan trọng. Vai trò của Hiệp Hội Ngân hàng trong
việc tăng cường sự phối hợp và đồng thuận của các NHTM cần được đẩy mạnh
hơn nữa.
Việc đồng thuận trong huy động vốn đặc biệt là ngoại tệ sẽ tạo thuận lợi cho cả
nền kinh tế và phù hợp với mặt bằng thế giới. Đồng thuận trong áp dụng tỷ giá
mua bán ngoại tệ sẽ làm giảm áp lực căng thẳng về ngoại tệ.
Thứ tư, nên tăng cường cơ chế thông tin đại chúng về các vấn đề liên quan đến
chính sách tiền tệ.
Thực tế cho thấy, những biến động của thị trường tiền tệ, đặc biệt là diễn biến tỷ
giá ngoại tệ chịu sự tác động khá lớn của yếu tố tâm lý. Vì vậy, thời gian tới
NHNN cần tăng cường hơn nữa công tác thông tin đại chúng, định hướng dư
luận,… Nên xem xét chủ động và định kỳ công bố thông tin về dự trữ ngoại hối
như các quốc gia khác vẫn làm.
Thứ năm, cần tăng cường kiểm tra giám sát và xử lý nghiêm các sai phạm trong
việc thực hiện các quy định liên quan đến chính sách tiền tệ: vi phạm về biên độ tỷ
giá, về trần lãi suất, trong cho vay hỗ trợ lãi suất, vi phạm của các đại lý thu đổi
ngoại tệ,…
Thời gian qua công tác này đã được NHNN hết sức chú trọng. Tuy nhiên để đảm
bảo tính nghiêm minh của pháp luật, tạo ra sự cạnh tranh bình đẳng giữa các
NHTM và đặc biệt là để các công cụ của chính sách tiền tệ thực sự phát huy tác
dụng tích cực, cần phải xiết chặt hơn các chế tài đi đôi với tăng cường công tác
kiểm tra của các cơ quan chức năng cũng như phát huy cơ chế giám sát chéo, cơ
chế giám sát của cộng đồng, công luận,…
Nền kinh tế thế giới đang vượt qua suy thoái và dần hồi phục. Kinh tế Việt Nam
cũng đang bước vào thời kỳ “hậu suy giảm”. Với những công cụ hữu hiệu và sự
điều hành linh hoạt của NHNN, chắc chắn chính sách tiền tệ sẽ là động lực tạo đà
thúc đẩy nền kinh tế Việt Nam nhanh chóng phục hồi và tiếp tục phát triển bền
vững.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Nhìn lại các công cụ của chính sách tiền tệ thời gian qua và một vài đề xuất.pdf