Nhập môn Lịch sử xã hội học

Các tác giả đã phân tích những yếu tố làm kinh tế nông hộ tăng trưởng hay gặp trở ngại như: 1) đất đai. 2) vốn và lao động. 3) di cư và đi làm ăn xa. 4) các vấn đề cụ thể đối với nghề thủ công mây giang đan. 5) tác động đến môi trường sinh thái. Trong phần này, TS. Đặng Nguyên Anh và các đồng tác giả đã đi sâu phân tích 5 yếu tố điển hình trên địa bàn nghiên cứu. Các yếu tố này có tương tác lẫn nhau, thể hiện sống động mối liên kết nông thôn - đô thị đang diễn ra ở nông thôn đồng bằng sông Hồng hiện nay. Trong phần cuối của cuốn sách, các tác giả đã đưa ra kết luận và một số gợi ý chính sách nhằm hỗ trợ cho mô hình liên kết nông thôn - đô thị ngày càng năng động có hiệu quả cao hơn. Cuốn “Ly hương, bất ly nông, làm thủ công tại làng” là một công trình nghiên cứu bổ ích giúp tìm hiểu quá trình liên kết nông thôn - đô thị trên con đường công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp và nông thôn. Vai trò của đa dạng sinh kế cần được xem xét trong các chính sách phát triển nông thôn và xoá đói giảm nghèo hiện nay. Đây là một công trình đáng tham khảo và có ý nghĩa cho những ai quan tâm đến sự chuyển mình của nông thôn Đồng bằng sông Hồng hiện nay.

pdf5 trang | Chia sẻ: linhmy2pp | Ngày: 11/03/2022 | Lượt xem: 226 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Nhập môn Lịch sử xã hội học, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
122 Xã hội học số 1 (89), 2005Thông tin xã hội học Đọc sách Nhập môn lịch sử xã hội học 1 Lịch sử một ngành khoa học xã hội nói chung th−ờng đ−ợc viết theo một trong ba cách sau đây. Cách đầu tiên và lâu đời nhất đề cập đến bản thân các nhà nghiên cứu: Comte, Spencer, Marx, Simmel, Durkheim và Weber, v.v... Thứ hai, lấy đơn vị phân tích là các tr−ờng phái, chủ nghĩa mà thuật ngữ quốc tế tiếng Anh gọi là những “ism”; và lịch sử xã hội học là lịch sử của các học thuyết: chủ nghĩa Marx, tr−ờng phái Chicago, v.v... Và cuối cùng, cách thứ ba không bắt đầu từ tên tuổi hay học thuyết mà từ các ý t−ởng, khái niệm vốn là thành tố của học thuyết nh− cộng đồng, quyền uy, vị thế, cái thiêng, và tha hóa, v.v... “Nhập môn lịch sử xã hội học” của Bùi Quang Dũng không thuộc cách viết nào kể trên. Nét khác biệt của cuốn sách là ở đó. Trong một số tr−ờng hợp (các ch−ơng III, VI), tác giả cấu tạo ch−ơng theo tên tuổi nh− Marx và Weber. Trong tr−ờng hợp khác (ch−ơng II, V và VIII), sách dựa trên thực chứng luận, triết học duy tâm mới và tr−ờng phái Frankfurt. Còn ở các tr−ờng hợp khác nữa (ch−ơng IV, VII), đó là sự cố gắng kết hợp tên tuổi với học thuyết; kết quả là chúng ta có Durkheim và thực chứng luận, tr−ờng phái Chicago và Parsons. Làm nh− vậy tạo ra sự pha trộn về phong cách viết sử xã hội học. Giá nh− tác giả lý giải vì sao mình chọn nh− vậy thì ng−ời đọc sẽ bớt đi phần thắc mắc. Cái tốt tr−ớc hết của cuốn sách là tác giả phân biệt rõ ràng giữa t− t−ởng xã hội với xã hội học (tr. 8-9). Lập tr−ờng này khiến ng−ời đọc không thể lẫn lộn hai sự vật. Điều ấy đúng và cần thiết. Trong khi t− t−ởng xã hội xuất hiện cùng lịch sử nhân loại, thì xã hội học - với t− cách một khoa học lý thuyết và thực nghiệm - chỉ định hình từ cuối thế kỷ XIX ở Tây Âu. Nghĩa là lịch sử xã hội học bắt đầu từ khi ấy, tr−ớc tiên ở những nơi mà điều kiện kinh tế, chính trị, xã hội và khoa học đã chín muồi để nảy sinh một ngành khoa học mới. Một đặc điểm nổi bật nữa của cuốn sách là nhấn mạnh mối liên hệ giữa xã hội học với triết học - một điều khiến không ít ng−ời bất ngờ và nhíu mày băn khoăn vì theo họ, xã hội học không liên quan gì với triết học. Tác giả không giải 1 Bùi Quang Dũng: Nhập môn lịch sử xã hội học. Nxb Khoa học xã hội. Hà Nội - 2004. Bản quyền thuộc Viện Xó hội học. www.ios.org.vn Xã hội học 123 thích do đâu mình làm nh− thế, và lẽ ra tác giả nên làm điều này. Là một môn khoa học hết sức rộng lớn, triết học xem xét hàng loạt các vấn đề có liên quan với nhau về bản chất sự hiểu biết, lôgic, tính nhân quả, ngôn ngữ, v.v... mà nhiều khoa học khác (kẻ cả xã hội học) phải giải quyết. Xã hội học dễ gặp phải những vấn đề triết học trong lĩnh vực tri thức luận (quá trình hình thành khái niệm, quan hệ giữa lý thuyết và bằng chứng, vị trí của các giá trị, động cơ, bản chất của bằng chứng, v.v...) và đạo đức. Hơn thế nữa, triết học có quan hệ sâu xa và tác động mạnh mẽ đến xã hội học thông qua những tiên đề ngầm định mà nhiều nhà xã hội học coi là đ−ơng nhiên và dùng làm nền tảng cho t− duy, lý thuyết và đến cả ph−ơng pháp thu thập dữ liệu của mình. Vì coi chúng là đ−ơng nhiên, họ không nhận ra cơ sở triết học chi phối mình, cũng nh− không hiểu mối liên hệ giữa điều mình làm và gốc rễ triết học ngầm ẩn đằng sau đó. Việc tác giả tô đậm mối liên hệ giữa triết học với xã hội học là cần thiết, nhất là trong bối cảnh chủ nghĩa duy nghiệm đang nổi lên, khi có nhiều ng−ời chỉ làm xã hội học thực nghiệm mà không biết đến - và cho là không cần biết - những cơ sở triết học nào nằm đằng sau và chi phối ph−ơng pháp thu thập dữ liệu thực nghiệm của họ. Hiểu nh− vậy, phải nói rằng: các ph−ơng pháp thu thập dữ liệu định l−ợng theo mô hình Durkheim và chịu ảnh h−ởng thực chứng luận chỉ là một trong những cách tiếp cận (chứ không phải duy nhất) để có thông tin xã hội học. Bên cạnh nó ít nhất còn có xã hội học thấu hiểu của Weber, và cách tiếp cận dựa trên hành động xã hội này th−ờng làm tiên đề ngầm định cho các ph−ơng pháp định tính. Sách không chỉ gồm những giải trình, tóm tắt, nhận xét, bình luận, phân tích và lý giải các tác giả, các tr−ờng phái xã hội học, mà ở cuối còn cung cấp trích đoạn tác phẩm tiêu biểu của ba bậc thầy đ−ợc coi là cha đẻ của xã hội học: Marx, Durkheim và Weber. Nói cách khác, sách kết hợp “hai trong một” cả loại tài liệu giảng dạy (mà thuật ngữ tiếng Anh gọi là textbook) với loại tuyển tập bài đọc (reader). Nhờ vậy sinh viên và học viên không chỉ đ−ợc nghe nói về ba nhà xã hội học này, mà phần nào còn có thể đọc họ. M−ợn một câu nói quen thuộc (dù không thật khớp), tín đồ của môn xã hội học không chỉ biết Chúa qua lời thầy tu, mà còn đ−ợc đọc lời Chúa. Nh− tác giả đã l−ờng tr−ớc trong lời nói đầu, ng−ời đọc rất có thể đặt câu hỏi vì sao sách thiếu tên tuổi này, tr−ờng phái nọ, hay trong những gì đã có, sao không thấy phần này phần khác? Ví dụ sao tác giả không cung cấp thông tin tối thiểu về tiểu sử (năm sinh năm mất, v.v...) của các nhà xã hội học? Sao không nói đến cống hiến lớn của Durkheim vào việc khẳng định vị thế một khoa học độc lập của xã hội học: với ông, không chỉ đối t−ợng và ph−ơng pháp nghiên cứu riêng của nó đã trở nên rõ ràng và rạch ròi, mà về mặt thể chế nó còn có ghế giáo s− tại tr−ờng đại học và có cơ quan ngôn luận (tạp chí “Niên giám xã hội học”) của mình? Sao sách ít đề cập đến những nghiên cứu về tôn giáo của Durkheim và Weber? v.v... Nh−ng đây là một tài liệu nhập môn (nh− tiêu đề khiêm tốn của cuốn sách đã nói), không tham vọng sự đầy đủ, tỉ mỉ và sâu rộng, và trong khuôn khổ đó, những thiếu hụt là có thể hiểu đ−ợc. Bản quyền thuộc Viện Xó hội học. www.ios.org.vn Thông tin... 124 Tác giả ý thức đ−ợc yêu cầu đặt ra và thách thức đối với việc viết sử xã hội học là vừa phải trình bày rõ ràng những điểm chủ yếu của một tác giả hay học thuyết, vừa nêu lên đ−ợc mối liên hệ lịch sử của từng khuynh h−ớng (trang 7-8). Nói cách khác, viết lịch sử xã hội học không chỉ là tập hợp, sắp xếp các tác gia, các tr−ờng phái theo trình tự thời gian hoặc cạnh nhau về không gian, mà còn vạch ra mối liên hệ giữa họ. Cuốn sách đã cố gắng nắm bắt và nêu lên mối liên hệ giữa Comte với Saint-Simon (tr. 33), Durkheim với hai nhà học giả trên (tr. 73, 78), Marx và Weber (tr. 96, 110-111), Weber và Pareto (tr. 97), Weber và Durkheim (tr. 102, 106), Parsons và các tác giả tr−ớc đó (tr. 123). Tuy nhiên, mối liên hệ không chỉ là những điều giống và khác nhau có thể suy rút ra bằng phép so sánh, mà còn là sự tác động qua lại. Lịch sử một ngành khoa học, theo nhà triết học khoa học T. Kuhn, không chỉ diễn ra theo con đ−ờng tích lũy, tiệm tiến, trong đó mỗi sự tiến bộ đ−ợc xây dựng trên tất cả những gì có tr−ớc, mà còn thông qua những thay đổi sâu sắc, những “cuộc cách mạng”. Thực ra, sự tích lũy đóng vai trò nhất định trong tiến bộ khoa học, nh−ng những biến đổi lớn thì diễn ra do kết quả của cách mạng theo nghĩa sau đây. Một mô hình chuẩn trong ngành khoa học đó từng b−ớc đ−ợc xác lập, trở thành thống trị, nh−ng sau một thời gian, nó dần dần bộc lộ những điểm yếu và thiếu sót, rồi rơi vào khủng hoảng, cho đến khi bị mô hình chuẩn khác bác bỏ và thay thế. Mặc dù Kuhn chủ yếu nói đến các khoa học tự nhiên, nh−ng theo nhiều nhà nghiên cứu (trong đó có T. Bottomore, R. Nisbet và G. Ritzer), cách tiếp cận của Kuhn áp dụng đ−ợc vào xã hội học, và xã hội học là một ngành khoa học có nhiều mô hình chuẩn. Vậy ý kiến của cuốn sách đối với quan điểm này ra sao? Tác giả có tán đồng hay không? Nếu có, thì những mô hình chuẩn trong lịch sử xã hội học là gì? Quan hệ và sự tác động qua lại giữa các mô hình chuẩn trong lịch sử xã hội học là nh− thế nào? Đây là điều độc giả chờ đợi ở các nhà viết sử xã hội học. Hi vọng lần xuất bản sau, những câu hỏi này sẽ đ−ợc đặt ra và đ−ợc giải đáp. Hơn nữa, khi xem xét một hiện t−ợng, một sự vật, xã hội học th−ờng đặt đối t−ợng vào bối cảnh của nó, và đã có tác gia (nh− L. Coser) vận dụng chính cách tiếp cận của bản thân xã hội học vào viết sử của ngành, nghĩa là vào phân tích, diễn giải sự phát triển của các ý t−ởng xã hội học. Lối viết sử này gắn tác phẩm của mỗi nhà xã hội học với tiểu sử, cuộc đời họ, với vị trí của họ trong cơ cấu xã hội, cũng nh− công chúng và những nhóm quy chiếu của họ. Cách viết đó gắn những ý t−ởng của Weber hay Durkheim với bối cảnh riêng trong tiểu sử từng ng−ời, lịch sử và cơ cấu xã hội, điều này giúp cho ta không những hiểu các nhân tố bên ngoài chi phối ý t−ởng của các nhà xã hội học, mà còn chú ý tới những tiên đề ngầm định của họ. Trong “Nhập môn lịch sử xã hội học”, ở một chỗ ta có bắt gặp mấy dòng nói qua đến điều đó: đấy là đoạn mở đầu ch−ơng về Weber (tr. 95), nh−ng nó quá vắn tắt, và quan trọng hơn, cách tiếp cận này ch−a đ−ợc áp dụng nh− một nguyên tắc chỉ đạo lối viết của sách. Tuy thế, “Nhập môn lịch sử xã hội học” là một cuốn sách cần thiết và bổ ích. Mai Huy Bích Bản quyền thuộc Viện Xó hội học. www.ios.org.vn Xã hội học 125 Ly h−ơng, bất ly nông, làm thủ công tại làng1 Sản xuất nông nghiệp, làm nghề phi nông và di chuyển phân công lại lao động là một mô hình điển hình của nông thôn đồng bằng Bắc Bộ hiện nay. Trong điều kiện của nền kinh tế mở cửa nông hộ đã biết kết hợp các nguồn thu nhập từ các hoạt động kinh tế khác nhau, phong phú và đa dạng. Sự lựa chọn nghề phi nông nghiệp, nông nghiệp, hoặc đi làm ăn xa và gửi tiền về cho gia đình đề đầu t− vào sản xuất, cung cấp thông tin thị tr−ờng và kỹ năng nghề nghiệp cho những ng−ời ở nhà đã và đang làm thay đổi đáng kể cuộc sống ở nông thôn hiện nay. Công trình nghiên cứu “Ly h−ơng, bất ly nông, làm thủ công tại làng” của các tác giả Đặng Nguyên Anh, Cecilia Tacoli, Hoàng Xuân Thành không chỉ tập trung vào vấn đề đi làm ăn xa mà còn đi sâu vào phân tích nền kinh tế hộ của gia đình nông thôn. Trong cuốn sách này các tác giả đã phân tích cụ thể sự đa dạng sinh kế của các hộ gia đình cũng nh− những cơ hội và thách thức mà họ đang trải qua trong thời kinh tế mở. Từ đó, các tác giả đ−a ra kết luận và một số gợi ý chính sách nhằm khai thác tạo điều kiện để mô hình ly h−ơng, bất ly nông, làm thủ công tại làng có tác động hiệu quả hơn. Đ−ợc xây dựng trên một h−ớng tiếp cận lý thuyết mới, trong phần đầu của cuốn sách, các tác giả đã trình bày khái niệm về mối liên kết nông thôn- đô thị, đ−ợc phản ánh bằng mối quan hệ dân số, l−u thông hàng hóa, tiền tệ và thông tin. Trong bối cảnh đô thị hóa và công nghiệp hóa nông thôn hiện nay, các luồng di chuyển dân số, lao động, hàng hóa, tiền, vốn, thông tin, lối sống đang diễn ra mạnh mẽ, liên kết chặt chẽ giữa hai khu vực nông thôn và đô thị. Mối liên kết trên hiện có vai trò quan trọng trong sự nghiệp xoá đói giảm nghèo của nông thôn, thông qua các hoạt động đa dạng hóa và kết hợp các nguồn thu nhập từ các hoạt động nông nghiệp và phi nông nghiệp trên một không gian không còn bó hẹp nh− tr−ớc. Tiếp theo phần giới thiệu là phần mô tả khung cảnh và địa bàn nghiên cứu tại địa bàn 2 xã Hoàng Đông và xã Tiên Nội thuộc huyện Duy Tiên, tỉnh Hà Nam. Lý do lựa chọn địa bàn nghiên cứu là do Hà Nam là một tỉnh có nhiều ng−ời lao động đi làm ăn xa, có nhiều ngành nghề phi nông nghiệp truyền thống, phát triển khá đa dạng, thu hút đ−ợc lao động tại chỗ của địa ph−ơng. Có thể nhận thấy thu nhập chính của nhiều nông hộ hiện nay từ các hoạt động phi nông nghiệp. Ng−ời nông dân th−ờng xuyên ra các trung tâm đô thị để mua bán và trao đổi sản phẩm. Ngoài ra, những thành viên đi làm ăn xa không chỉ ra thành phố mà còn đến những tỉnh thành khác cũng nh− những vùng lân cận trong huyện và tỉnh để kiếm việc tăng thu nhập trong tháng nông nhàn. 1 Đặng Nguyên Anh, Cecilia Tacoli, Hoàng Xuân Thành: Ly h−ơng, bất ly nông, làm thủ công tại làng. Nxb Thế giới. Hà Nội - 2004. Bản quyền thuộc Viện Xó hội học. www.ios.org.vn Thông tin... 126 Các tác giả đã sử dụng ph−ơng pháp so sánh giữa hai mô hình kinh tế của điểm nghiên cứu trên bình diện mô hình ngành nghề thủ công tại gia đình, làm nông nghiệp chăn nuôi và đặc biệt là đi làm ăn xa. Trong kết quả nghiên cứu này các tác giả đã sử dụng kỹ thuật thu thập thông tin nh− phỏng vấn bảng hỏi hộ gia đình, thảo luận nhóm tập trung, phỏng vấn chuyên gia, đại diện hộ gia đình và một số cán bộ lãnh đạo chủ chốt ở các cấp khảo sát. Ngoài ra, các tác giả còn sử dụng ph−ơng pháp phân tích chuỗi sản phẩm thị tr−ờng đối với nghề mây giang đan (là một trong những ngành nghề đặc thù của Duy Tiên, Hà Nam). Kết quả cho thấy từ sự đa dạng hóa ngành nghề, ng−ời nông dân đã có điều kiện tiếp cận thị tr−ờng bên ngoài, thậm chí thị tr−ờng hàng mây giang đan ngoài n−ớc để tiêu thụ những sản phẩm mà họ làm ra. Đầu ra của sản phẩm đ−ợc hệ thống đại lý t− nhân (đ−ợc gọi là các “Cai”) rất năng động đảm nhiệm. Các thành phẩm đ−ợc sản xuất và tiêu thụ trên cơ sở thuận mua vừa bán, đ−ợc tổ chức chặt và đặc biệt là không có sự ép giá hoặc khó tiêu thụ nh− th−ờng thấy ở các địa ph−ơng khác. Nhờ biết liên kết thị tr−ờng và th−ờng xuyên thay đổi mẫu mã nên sản phẩm mây giang đan ở Hoàng Đông, Duy Tiên vẫn có vị trí cao trên thị tr−ờng mà các sản phẩm t−ơng tự do các địa ph−ơng khác sản xuất không thể cạnh tranh đ−ợc. Tìm hiểu mô hình đi làm ăn xa còn cho thấy ng−ời nông dân “thoát ly” có thu nhập cao hơn so với làm nghề nông. Tuy nhiên trong suy nghĩ của mình, nông dân vẫn coi nông nghiệp là hoạt động kinh tế cơ bản. Tại địa bàn nghiên cứu, không có gia đình nào đi làm ăn bên ngoài lại trả ruộng, trả đất canh tác. Việc nhờ hoặc thuê lao động ở nhà làm nông nghiệp là phổ biến, khi đến cuối vụ họ trở về để thu hoạch nông sản, và đóng góp nghĩa vụ đầy đủ. “Ly h−ơng, bất ly nông”- đó là sự kết hợp giữa các hoạt động phi nông nghiệp tại chỗ, làm nông và đi làm ăn xa đã trở nên phổ biến không chỉ ở Hà Nam mà còn thấy ở các tỉnh thành khác ở đồng bằng sông Hồng. Các tác giả đã phân tích những yếu tố làm kinh tế nông hộ tăng tr−ởng hay gặp trở ngại nh−: 1) đất đai. 2) vốn và lao động. 3) di c− và đi làm ăn xa. 4) các vấn đề cụ thể đối với nghề thủ công mây giang đan. 5) tác động đến môi tr−ờng sinh thái. Trong phần này, TS. Đặng Nguyên Anh và các đồng tác giả đã đi sâu phân tích 5 yếu tố điển hình trên địa bàn nghiên cứu. Các yếu tố này có t−ơng tác lẫn nhau, thể hiện sống động mối liên kết nông thôn - đô thị đang diễn ra ở nông thôn đồng bằng sông Hồng hiện nay. Trong phần cuối của cuốn sách, các tác giả đã đ−a ra kết luận và một số gợi ý chính sách nhằm hỗ trợ cho mô hình liên kết nông thôn - đô thị ngày càng năng động có hiệu quả cao hơn. Cuốn “Ly h−ơng, bất ly nông, làm thủ công tại làng” là một công trình nghiên cứu bổ ích giúp tìm hiểu quá trình liên kết nông thôn - đô thị trên con đ−ờng công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp và nông thôn. Vai trò của đa dạng sinh kế cần đ−ợc xem xét trong các chính sách phát triển nông thôn và xoá đói giảm nghèo hiện nay. Đây là một công trình đáng tham khảo và có ý nghĩa cho những ai quan tâm đến sự chuyển mình của nông thôn Đồng bằng sông Hồng hiện nay. Nghiêm Thị thủy Bản quyền thuộc Viện Xó hội học. www.ios.org.vn

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfnhap_mon_lich_su_xa_hoi_hoc.pdf
Tài liệu liên quan