Nghệ thuật tổ chức xung đột là bằng chứng
quan trọng của sự tìm tòi, đổi mới nghệ thuật
và kỹ thuật tiểu thuyết, đồng thời là dấu hiệu
về sự trưởng thành trong tư duy nghệ thuật.
Sau 1975, đặc biệt là sau khi công cuộc đổi
mới được đề xướng, tiểu thuyết đã và đang
tiếp tục sự vận động của nó bằng nhiều thể
nghiệm để hướng tới hệ quả: làm mới, làm hấp
dẫn văn chương nói chung và tiểu thuyết nói
riêng, khẳng định vị thế hàng đầu của văn xuôi
nói chung và tiểu thuyết nói riêng trong thời
hiện đại
8 trang |
Chia sẻ: yendt2356 | Lượt xem: 506 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Nhận thức mới về xung đột của con người trong tiểu thuyết Việt Nam sau 1975, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
88
Nhận thức mới về xung đột của
con người trong tiểu thuyết Việt Nam sau 1975
Lê Thị Hằng1
1 Vụ Công tác học sinh, sinh viên, Bộ Giáo dục và Đào tạo.
Email: lehang@moet.edu.vn
Nhận ngày 3 tháng 11 năm 2016. Chấp nhận đăng ngày 21 tháng 11 năm 2016.
Tóm tắt: Sự đổi mới về nhận thức hiện thực, sự thay đổi về nhu cầu khám phá, phản ánh hiện thực, sự
thay đổi tầm đón đợi từ phía người đọc đòi hỏi tiểu thuyết phải có cách thể hiện mới. Bên cạnh cách viết
truyền thống, một số nhà văn đã tìm được những kĩ thuật viết mới mẻ, đạt hiệu quả nghệ thuật cao. So với
trước đây, sự đổi mới nghệ thuật tiểu thuyết trong việc thể hiện số phận con người sau 1975 được ghi nhận
chủ yếu ở phương diện tổ chức xung đột. Tiểu thuyết đã tiếp cận và khai thác sâu hơn vào cái hiện thực
hằng ngày, cái đời thường và số phận con người. Các nhà tiểu thuyết đã nhìn thẳng vào những “mảnh vỡ”,
những bi kịch nhân sinh, mổ xẻ, phơi bày bằng cái nhìn trung thực, táo bạo. Sự thể hiện số phận con người
được đưa vào trường nhìn mới, hướng tới những gấp khúc trong đường đời và thân phận con người, thấm
đẫm cảm hứng nhân văn.
Từ khóa: Tiểu thuyết, Việt Nam, xung đột.
Abstract: The renovation regarding the cognition of the reality, the change in the demands for discovery
and reflection of the reality, and the change in readers’ expectations require novelists to introduce new
way(s) of writing. Besides the traditional ways, a number of writers have found new writing techniques
that help them achieve high artistic efficiency. Compared with the earlier years, after 1975, the renovation
of the art in depicting man’s destiny was recognized mostly from the perspective of conflict organization.
Novelists approached and study more profoundly the daily reality, the things in the everyday life and
human destiny. They also looked straight into “broken pieces”, the human tragedies, and depicted them
with an honest and bold view. Human destinies are put into a new field of vision that observes zigzags of
life and fates, deeply imbuing inspirations of humanity.
Keywords: Novels, Vietnam, conflicts.
1. Đặt vấn đề
Tiểu thuyết sau 1975 đứng trước nhu cầu đổi
mới tư duy. Điều này chứng tỏ sự nghiêm
khắc trong sáng tạo và tâm huyết với thể loại
của các tiểu thuyết gia đương đại. Các nhà tiểu
thuyết sau 1975 đã đi sâu vào khám phá nhân
vật bằng cách xoáy sâu vào xung đột giữa các
bộ phận cấu thành nhân cách. Mẫu nhân vật
đơn trị đã thay bằng loại nhân vật đa trị; tính
Lê Thị Hằng
89
cách nhân vật từ không ổn định thành luôn
biến đổi, điều này đã góp phần làm phong phú
hơn đời sống nhân vật trong tiểu thuyết sau
1975. Bài viết này phân tích nhận thức mới
của các nhà văn trong tiểu thuyết Việt Nam
sau 1975 về xung đột trong nhân cách con
người.
2. Tư duy mới về xung đột trong đời sống
xã hội và trong cấu trúc tác phẩm
“Xung đột, theo quan niệm của M. Bakhtin là
sự mâu thuẫn với tư cách một nguyên tắc
tương tác giữa các hình tượng trong tác phẩm
nghệ thuật” [1, tr.414]. Theo quan niệm này,
xung đột thường được dùng khi nói đến các
loại hình nghệ thuật mang tính năng động và
tạo hình như văn học kịch và văn học tự sự,
sân khấu điện ảnh. Đây chính là nguyên nhân,
cũng là động lực thúc đẩy của hành động, có
vai trò quy định các giai đoạn chính của sự
phát triển cốt truyện, thể hiện bằng những
đụng độ và chống đối trực tiếp giữa các thế lực
hoạt động được miêu tả trong tác phẩm. Trong
lịch sử văn học, chúng ta đã thấy một số kiểu
xung đột cơ bản như xung đột giữa tính cách
với hoàn cảnh, giữa tính cách với tính cách,
giữa các cực của tính cách, tâm lí, tình cảm
trong một nhân cách... Xung đột làm thành hạt
nhân của các đề tài nghệ thuật. Trong văn học
Việt Nam hiện đại cho đến trước 1975 thường
có hai kiểu xung đột phổ biến. Một là, chủ
nghĩa hiện thực giai đoạn 1930-1945 (chủ
nghĩa hiện thực này đưa xung đột áp lại gần cơ
sở xã hội lịch sử, nhấn mạnh sự chi phối của
hoàn cảnh đến tính cách, đã khám phá ra tính
xung đột nội tại và tính năng động tự phát triển
của tính cách). Hai là, chủ nghĩa hiện thực xã
hội chủ nghĩa (chủ nghĩa hiện thực này đặt lên
hàng đầu, và thậm chí, nhìn tất cả mọi loại
xung đột trong hoặc xoay quanh xung đột cơ
bản là đối kháng giai cấp; để giải quyết xung
đột ấy, nhân vật tìm đến cách mạng như là
phương tiện duy nhất, từ đó hình thành một ý
thức tập thể chống lại đạo đức cá nhân chủ
nghĩa, hay xung đột “tập thể chúng ta” với
“tập thể chúng nó”). Vì thế, nếu trong các tiểu
thuyết thuộc trào lưu hiện thực trước Cách
mạng tháng Tám, xung đột cơ bản thường là
diễn ra giữa cá nhân bị áp bức với xã hội áp
bức, giữa các mặt của tính cách, tâm lí, thì
trong các tiểu thuyết chiến tranh, cách mạng,
kiểu xung đột thường gặp là xung đột ta - địch,
cao cả - thấp hèn, tiến bộ - lạc hậu. Ngay tên
một số tác phẩm đã cho thấy quan niệm này:
Xung kích, Mặt trận trên cao (Nguyễn Đình
Thi); Những ngày bão táp, Cao điểm cuối
cùng (Hữu Mai), thậm chí Nguyễn Khải còn
có tác phẩm lấy hẳn tên là Xung đột.
Quan niệm về xung đột trong văn học nghệ
thuật là sản phẩm (trực tiếp hay gián tiếp) của
xung đột và quan niệm về xung đột trong đời
sống. Sở dĩ các tác phẩm văn học tiền hiện đại
nói chung nhấn mạnh những xung đột đã nói
trên, bởi vì trong thời đại ấy, xung đột được
quan tâm chủ yếu vẫn là xung đột mang tính
chất chính trị - xã hội (xung đột con người với
hoàn cảnh, xung đột tư tưởng cá nhân với ý
thức cầm quyền, xung đột giai cấp). Sự vận
động của thế giới hiện đại đã mang đến những
thay đổi cơ bản trong quan niệm về khái niệm
này. Khi đó người ta nhìn nhận thế giới trong
vô vàn xung đột, có thể hoặc không thể giải
quyết bằng chiến tranh, bằng pháp luật, bằng
các thiết chế, các quy định hành chính, ngấm
ngầm hay công khai, tồn tại trong hiện thực
đời sống với độ mở vô tận. Chính thế giới ấy
là gợi ý quan trọng cho những nhận thức khác
về xung đột trong các trào lưu văn học nghệ
thuật thuộc phạm trù chủ nghĩa hiện đại.
Không phải tất cả các tiểu thuyết Việt Nam
sau 1975 đều thuộc về cái gọi là chủ nghĩa
hiện đại, nhưng người đọc có thể thấy, trong
Khoa học xã hội Việt Nam, số 12 (109) - 2016
90
nhiều tác phẩm, sự nhìn nhận về xung đột
trong đời sống xã hội và trong cấu trúc tác
phẩm đã được điều chỉnh bằng tư duy mới.
Các nhà văn giờ đây không nhìn xung đột
trong đời sống xã hội, qua quan hệ giữa các
cặp phạm trù đối lập (ta - địch, cao cả - thấp
hèn, tiên tiến - lạc hậu, cách mạng - phản cách
mạng), hay qua những mâu thuẫn nhân cách,
mâu thuẫn tâm lí, tình cảm; mà họ nhìn xung
đột từ góc nhìn nhân sinh: xung đột giữa cái xã
hội và cái sinh vật, giữa cái ý thức và tiềm
thức, vô thức trong bản chất người, mâu thuẫn
giữa các cá thể trước thực tại xa lạ, thậm chí
phi lí...
Nếu các xung đột trong các tiểu thuyết
trước 1975 thường khuếch đại và mang tính
đơn lẻ, thì trong các tiểu thuyết sau này đó là
những đa xung đột và là những xung đột từ
bên trong, xuất hiện trong cái bộn bề, đa tạp
của thế sự, của lịch sử. Tính đa xung đột này
hợp thành bởi sự liên kết khắc khoải tất cả
các mặt đối lập bên trong và bên ngoài, cá
nhân và tập thể, thiện và ác và được thể hiện
bằng một trình độ nghệ thuật cao hơn. Cùng
viết về chiến tranh nhưng tiểu thuyết sau
1975, kể cả các tác phẩm tiếp tục dòng mạch
ca tụng chủ nghĩa anh hùng cách mạng, cũng
đã quan tâm đề cập đến sự chịu đựng, những
mất mát của con người để làm nên chiến
thắng. Không giữ cái nhìn đơn giản, một
chiều về chiến tranh, các tác giả đã mạnh dạn
nhìn sâu, nhìn thẳng vào bên trong của các sự
kiện, của chính đời sống tinh thần con người.
Xung đột trong tiểu thuyết do vậy không còn
chỉ là sự đụng độ từ bên ngoài, mà là những
cuộc đấu tranh trong mạch ngầm của những
biện chứng tâm hồn. Các tác phẩm của
Nguyễn Minh Châu, Nguyễn Trọng Oánh,
Nguyễn Trí Huân được viết trước đổi mới
đều đã đạt đến tầm mức đó. Từ khi công cuộc
đổi mới được khởi xướng, sự cách tân trong
việc thể hiện các xung đột ngày càng gia
tăng. Nỗi buồn chiến tranh của Bảo Ninh
dường như đã có tạo ra bước nhảy quan trọng
trong xây dựng xung đột bằng việc dịch
chuyển sự hiện thân của nhân vật từ đời sống
xã hội vào đời sống tâm lí với một thế giới
đau khổ, dằn vặt và lo âu. Tuy họ vẫn miêu tả
xung đột địch - ta, phi nghĩa - chính nghĩa,
nhưng dường như tất cả những điều đó chỉ
là phương tiện để người viết tô đậm những
xung đột nội tâm âm thầm nhưng khủng
khiếp của Kiên.
Càng về sau, những xung đột mang tính xã
hội, những cuộc đấu tranh còn - mất dường
như không phải là vấn đề mà các nhà tiểu
thuyết quan tâm, hay chí ít, nó được biểu hiện
ở một dạng thức khác. Trong nhiều tác phẩm
(của Tạ Duy Anh, Hồ Anh Thái, Nguyễn Bình
Phương, Nguyễn Việt Hà...), những xung đột
theo nghĩa truyền thống dường như vắng
bóng. Thiếu vắng các xung đột, người đọc
được tiếp xúc với những tiểu thuyết “nhẹ tênh”
(hiểu theo nghĩa là tất cả đều diễn ra một cách
nhẹ nhàng...). Nhưng dưới cái vẻ “lành hiền”
của cốt truyện ấy luôn luôn là những lớp sóng
ngầm của xung đột còn lớn lao hơn, dữ dội
hơn. Những tình thế bi kịch, những số phận
bấp bênh trong âu lo, trong lưu đày được xây
dựng trong tiểu thuyết đã giúp nhà văn phân
tích sự tồn tại, cấu trúc xã hội hiện đại, cấu
trúc đời sống tâm hồn con người hiện đại một
cách chính xác và sâu sắc.
3. Các kiểu xung đột giữa con người và
hoàn cảnh trong tiểu thuyết sau 1975
Nếu các tiểu thuyết giai đoạn 1945-1975 chủ
yếu miêu tả mối quan hệ hài hòa giữa con
người với hoàn cảnh trong cái nhìn được lí
tưởng hóa bởi nhiệm vụ chính trị và bởi chính
Lê Thị Hằng
91
niềm tin phơi phới về sự hòa hợp có thật của
con người với đời sống, thì trong tiểu thuyết
sau 1975, sự tốt đẹp, “nhất trí cao” trong mối
quan hệ này đã mất đi. Sự thực là sau ngày hòa
bình lập lại, xã hội Việt Nam đã không còn
những vẻ đẹp nguyên lành, tinh khiết như giai
đoạn lịch sử trước đó. Hòa bình là niềm ao
ước của dân tộc nhưng hòa bình, cũng là điều
gì đó bất thường với một đất nước đã trải qua
thời kỳ chiến tranh lâu dài. Khi không còn
mục tiêu chung để nhìn về một hướng, người
ta buộc phải nhìn lại mình, nhìn lại quá khứ,
phải sống cho mình với bộn bề lo toan, bộn bề
dự định. Và hẳn nhiên khi đó, lòng tham lam,
sự trí trá, những bất hạnh, khổ đau sẽ xuất hiện
với tư cách là lẽ thường của cuộc sống. Những
khủng hoảng về đời sống xã hội cả trên hai
bình diện vật chất và tinh thần (bởi sự trì trệ,
bảo thủ trong quản lí nhà nước), sự xuất hiện
của thói quan liêu, cửa quyền, của cường hào
kiểu mới trong một bộ phận cán bộ đã đẩy
không ít số phận đến bi kịch. Thêm vào đó, từ
1986, cơ chế thị trường mặc dù mở ra lối thoát
đầy hứa hẹn cho đất nước và cho mỗi cá nhân
nhưng cũng mang đến bao nhiêu hệ lụy. Nó
mở rộng thêm lòng tham, mài sắc thêm mánh
khóe, bày ra nhiều con đường cho khả năng
tha hóa, nó biến văn hóa thành một “món
nộm suồng sã” (chữ dùng của Nguyễn Huy
Thiệp)... Tất cả những điều đó tạo thêm những
hoàn cảnh buộc con người phải bước vào, phải
tồn tại và dĩ nhiên, phải tranh đấu để giành
quyền sống.
Tiểu thuyết sau 1975 đã mạnh dạn đi thẳng
vào bên trong của các sự kiện và biến cố,
không né tránh tính chất gay cấn, khốc liệt và
phức tạp của cuộc chiến. Nhân vật được đặt
vào những hoàn cảnh thử thách cao độ, không
loại trừ những tình huống bi kịch, và phải chịu
sự cọ xát, va đập của nhiều xung đột trong đó.
Sức mạnh chiến thắng của cá nhân nhân vật
(dù họ bị lâm vào tình thế bi kịch đến thế nào
đi nữa, thậm chí bị hy sinh) là biểu thị sức
mạnh vô địch của hình thái tồn tại mang nhãn
xã hội chủ nghĩa. Trung đoàn trưởng Mạc
trong Năm 1975 họ đã sống như thế (của
Nguyễn Trí Huân) là một nhân vật kiểu đó.
Anh đang chỉ huy đơn vị trong đội hình chiến
dịch đối mặt với kẻ thù trong trận đánh quyết
liệt cuối cuộc chiến tranh, nhưng cũng chính
trong thời điểm nóng bỏng ấy anh đang phải
trải qua sự thử thách của những tình cảm phức
tạp giằng xé: suy nghĩ về người vợ bội bạc ở
hậu phương, tình yêu thầm kín với Thư, và do
đó quan hệ đối xử với Thức - chính ủy trung
đoàn, người cũng đang thầm yêu Thư. Rồi trên
đường tiến quân, khi thắng lợi cuối cùng đã
đến gần, Mạc hy sinh. Cái chết của anh mang
chất bi kịch cổ điển: góp phần vào chiến thắng
chung, đồng thời đặt ra cho những người đang
sống - những đồng đội của anh (như Thăng)
và những người ở phía sau anh (như người vợ
kia) - những vấn đề phải suy nghĩ về mình, về
trách nhiệm của mình. Nêu lên những mâu
thuẫn giằng xé xảy đến với Mạc (cũng như với
Phán, tiểu đoàn trưởng pháo binh), đặt họ vào
những tình huống buộc họ phải lựa chọn, xác
định và tỏ rõ một thái độ ứng xử đúng nhất
trước một hoàn cảnh cấp bách nhất, Nguyễn
Trí Huân đã phần nào thể hiện được cái ý
muốn nói: những người chiến sĩ vào cái năm
1975 thắng lợi vinh quang ấy đã sống như thế
đấy, họ đã chấp nhận trách nhiệm lớn lao,
nặng nề đối với đất nước, đối với dân tộc, vượt
qua những trở ngại, bi kịch của hoàn cảnh, và
bằng cuộc sống đó của mình đòi hỏi xã hội
cũng phải có một trách nhiệm trở lại với họ,
đối với sự hy sinh lớn lao như vậy của thế
hệ họ.
Xung đột giữa con người với hiện thực
cuộc sống trong những chịu đựng, những âu
lo, trong sự bị dồn ép bởi đói nghèo được tiểu
thuyết giai đoạn này quan tâm thể hiện. Kiểu
xung đột này vốn đã được khơi mở trong trào
Khoa học xã hội Việt Nam, số 12 (109) - 2016
92
lưu văn học hiện thực Việt Nam trước 1945,
nhưng với tiểu thuyết sau 1975, nó đã được thể
hiện với tính chất khác, chưa hẳn đã quyết liệt
hơn, nhưng phức tạp, đa dạng và quanh co
hơn. Thực sự thì trong một số sáng tác của
Nguyễn Bình Phương, Đỗ Phấn, Nguyễn Đình
Tú... người đọc không mấy khó khăn để nhìn
ra. Trong một số tác phẩm (của Nguyễn Bình
Phương hay Đỗ Phấn...), chúng ta có thể gặp
không ít bi kịch của đói nghèo, của sự nhếch
nhác về học vấn chủ yếu của những nông dân
hoặc tiểu thị dân bên rìa phố thị, nơi công cuộc
dịch chuyển cơ cấu địa - kinh tế đánh văng họ
từ trung tâm văn hóa làng xã sang ngoại biên
của nền văn minh đô thị. Trong các tiểu thuyết
chủ yếu viết về giới trẻ ít nhiều mang màu sắc
hình sự của Nguyễn Đình Tú, ta lại thấy
những va chạm kịch liệt của giới trẻ với không
gian sống thị thành. Đấy là quá trình băng hoại
nhân cách của những con người vốn tràn đầy
năng lượng nhưng không thể khai mở cho
mình con đường hướng thiện bởi họ đang tồn
tại trong tình trạng mù mờ không lí tưởng. Bi
kịch về cơm áo, vật chất cũng xuất hiện trong
một số nhân vật của Ma Văn Kháng, chủ yếu
tập trung ở đội ngũ trí thức, hay trong tiểu
thuyết của Bùi Ngọc Tấn, đối với những viên
chức quèn trong các tổ chức kinh tế xã hội chủ
nghĩa... Tuy nhiên, khi mô tả xung đột con
người với hoàn cảnh, Lê Lựu, Ma Văn Kháng,
Đỗ Minh Tuấn, Nguyễn Bình Phương, Bùi
Ngọc Tấn... không thực sự nhấn mạnh những
tấn kịch cơm áo, mà chuyên tâm thể hiện
những xung đột về mặt tinh thần. Đó là cuộc
chiến giữa những con người ôm ấp hoài bão
hướng thiện với cái xấu, cái ác đang tràn lan
trong xã hội. Sống trong môi trường ấy, những
trí thức, những nghệ sĩ luôn khắc khoải chống
lại quá trình băng hoại trong một cuộc chiến
không có hồi kết. Tự trong Đám cưới không
có giấy giá thú (của Ma Văn Kháng) vốn là
một giáo viên, một trí thức tài năng, có khát
vọng, có đam mê và trách nhiệm làm nghề,
làm người, nhưng sống giữa những bon chen,
cặn bã của giới công chức giả danh trí thức,
anh trở nên bất lực. Một mình người thanh
niên ưu tú ấy khắc khoải trong cuộc chiến
chống lại sự xuống cấp về đạo đức, sự băng
hoại của môi trường giáo dục, để cứu vãn
những giá trị của đời sống. Khiêm trong
Ngược dòng nước lũ (của Ma Văn Kháng) bị
dập vùi bởi thói độc đoán thiển cận của thủ
trưởng ngành, của thói a dua xu thời và đã
phải chịu những bi kịch khủng khiếp, phải
chôn vùi tài năng khi bị đình chỉ công tác, tác
phẩm bị thiêu hủy một cách thô bạo, thậm chí
còn bao phen cận kề cái chết. Các nhân vật
trong phần lớn tiểu thuyết của Nguyễn Bình
Phương luôn khắc khoải và mịt mù trên hành
trình đi tìm lời giải về ý nghĩa của làm người,
ý nghĩa của con người. Trong thế giới ấy, nông
dân, công chức, trí thức... đều phải nếm trải
một cuộc sống vô vị, trong những môi trường
tuy khác nhau về biểu hiện vật chất nhưng đều
chung tình trạng của một thế giới đang mòn rỉ,
tàn phai. Hạnh trong Bến không chồng (của
Dương Hướng) bị đè nghiến bởi nỗi sợ mơ hồ
về dư luận, về thái độ của những người xung
quanh để tự mình chịu đựng những cơn đau
thầm kín. Cô đã từng vượt lên, đã từng bứt phá
nhưng những nỗ lực ấy chỉ gây thêm những
phiền phức, tai hại...
Cùng với những xung đột của con người
với cái hiện tại, cái hiện thực đang vận hành ở
đời sống thời bình, con người trong tiểu thuyết
Việt Nam sau 1975 còn phải đối mặt với
những xung đột văn hóa. Trong các tiểu thuyết
giai đoạn 1945-1975, vấn đề xung đột giữa
con người với môi trường văn hóa ít được đặt
ra. Sau 1975, đặc biệt từ 1986, khi công cuộc
Lê Thị Hằng
93
Đổi mới được hiện thực hóa, khi cuộc giao lưu
hội nhập với thế giới mở ra, cũng là khi cuộc
đối đầu văn hóa giữa con người với hoàn cảnh
bắt đầu mở ra và ngày càng quyết liệt. Mùa lá
rụng trong vườn (của Ma Văn Kháng) thuộc
số tiểu thuyết đề cập sớm xung đột này. Ở đó
ta bắt gặp ông Bằng; ông là một đại diện cho
cái thuần khiết của thủ đô xưa cũ, vừa là sản
phẩm của văn hiến Thăng Long ngàn đời, vừa
là sản phẩm của thời bao cấp chưa xa, lạc lõng
trong những quan niệm và hành động táo tợn,
lạ lẫm. Sự thất bại không thể nào cưỡng lại của
nền văn hóa truyền thống là một tất yếu; nó già
nua và cô độc như chính hình ảnh người đàn
ông ở tuổi xế chiều trong căn nhà cũng già nua
và cô độc không kém chủ nhân của nó. Thần
thánh và bươm bướm (của Đỗ Minh Tuấn)
hướng về miêu tả hiện thực đời sống nhàu nát
ở nông thôn, cắt nghĩa, lí giải những thảm kịch
của đời sống ấy từ góc nhìn văn hóa. Trước sự
cám dỗ của vật chất, của nhục thể, cả một xã
hội nông thôn đang sôi lên sùng sục với sự đa
tạp, hỗn mang của các biểu hiện văn hóa: cái
mới và cái cũ, cái cao cả và cái thấp hèn, hiện
thực và khát vọng, bản địa và ngoại lai... Sống
trong thế giới ấy, con người bỗng nhiên phải
chịu những tác động để tự họ thay đổi mà
không hề phát hiện ra thân phận nạn nhân của
mình. Cuộc đụng độ với hoàn cảnh mà không
được chuẩn bị trước thậm chí biến họ thành
những kẻ đồi bại, bệnh hoạn, thành tội phạm
giết người. Đặc biệt đó là những trai làng chưa
tự trang bị cho mình những kinh nghiệm văn
hóa (kiểu thằng Giác) hoặc những người
không còn trẻ, thiếu tỉnh táo do một thời vùi
mình trong nghĩa vụ đối với lịch sử (như ông
Thao). Mảnh đất lắm người nhiều ma của
Nguyễn Khắc Trường, Ngõ lỗ thủng của
Trung Trung Đỉnh, Hồ Quý Ly, Đội gạo lên
chùa, Mẫu Thượng Ngàn của Nguyễn Xuân
Khánh, Giàn thiêu của Võ Thị Hảo, Thoạt kì
thủy, Người đi vắng, Vào cõi của Nguyễn Bình
Phương và một số tiểu thuyết của các tác giả
khác, mặc dù không đặt vấn đề mô tả xung đột
con người với hoàn cảnh văn hóa, nhưng ít
nhiều đều cho thấy những va chạm nhất định
khi đề cập đến môi trường văn hóa thành thị
như một “ngõ lỗ thủng”. Thậm chí những va
chạm ấy đôi khi vượt ngưỡng để lại những
chấn thương sâu sắc. Điều này cho thấy các
nhà tiểu thuyết đã không còn thuần túy phân
tích, lí giải con người trong tương quan với đời
sống vật chất hay tinh thần thông thường, mà
đã quan tâm lí giải nó trong tương quan với
những đặc điểm văn hóa của thời đại.
Trên đại thể, việc phân loại xung đột con
người với hoàn cảnh có thể được thực hiện
trên nhiều cách khác nhau: kiểu xung đột bên
trong và xung đột bên ngoài, kiểu xung đột bi
kịch, xung đột hài kịch và xung đột bi hài kịch,
xung đột đơn xung đột và xung đột đa xung
đột... Càng có nhiều cách phân loại càng
chứng minh một cách rõ ràng hơn về những
nỗ lực của tiểu thuyết trên hành trình miêu tả,
khám phá số phận con người.
4. Xung đột giữa các phương diện cấu
thành nhân cách
Triển khai, miêu tả xung đột giữa các bộ phận
cấu thành nhân cách nhân vật không phải là
phương diện được chú ý nhiều trong tiểu
thuyết truyền thống. Để miêu tả nhân vật sinh
động, các nhà văn thường khám phá nhân vật
qua ba mối xung đột chính: xung đột với
hoàn cảnh, xung đột giữa các nhân vật và
xung đột của chính nhân vật với bản thân
mình. Trong tiểu thuyết luận đề, sự phát triển
tâm lý và tính cách của nhân vật nằm trong ý
Khoa học xã hội Việt Nam, số 12 (109) - 2016
94
đồ, tư tưởng định sẵn của nhà văn. Với loại
tiểu thuyết này, nhân vật thường phân rõ
thiện/ ác, chính/ tà, tốt/ xấu, cao cả/ thấp
hèn,... Thông qua các xung đột, nhà văn trình
bày quan niệm của mình về giá trị, về thế thái
nhân tình. Nhiều trường hợp, nhà văn mượn
lời nhân vật để nói lên quan điểm của mình
hoặc tạo nên những đoạn trữ tình ngoại đề để
trình bày quan điểm cá nhân. Vì thế, chức
năng giáo dục thường bộc lộ rõ sau khi người
đọc đọc xong tác phẩm. Ở tiểu thuyết sau
1975, các nhà văn đã đi sâu vào khám phá
nhân vật bằng cách xoáy sâu vào xung đột
giữa các bộ phận cấu thành nhân cách. Mẫu
nhân vật đơn trị đã thay bằng loại nhân vật đa
trị, tính cách nhân vật không ổn định mà luôn
biến động, thay đổi. Các nhà văn tiêu biểu
cho khuynh hướng này là Ma Văn Kháng,
Chu Lai, Nguyễn Khắc Trường, Dương
Hướng,... Tính cách Giang Minh Sài, Sáu
Nguyện, Nguyễn Vạn, Khiêm, Hoan,... đều
thể hiện ra trước mắt người đọc thông qua
hàng loạt xung đột. Trong tiểu thuyết của các
nhà văn này, xung đột ngày càng gay gắt,
theo đó, kịch tính cũng được đẩy dần lên đỉnh
điểm, buộc nhân vật phải bộc lộ tính cách
của mình.
Trong tiểu thuyết Thời xa vắng của Lê Lựu,
Giang Minh Sài thuộc loại nhân vật thất bại.
Cuộc hôn nhân đầu tiên của Sài là cuộc hôn
nhân ép buộc. Sài đã tìm cách chạy trốn khỏi
nó. Thực ra, bi kịch không chỉ ở phía Sài mà
còn ở cả phía Tuyết. Tuy nhiên, cuối cùng Sài
cũng chạy thoát khỏi cuộc hôn nhân. Nhưng
cuộc hôn nhân thứ hai là do Sài nông nổi và bị
sập bẫy của Châu. Một lần nữa Sài lại đánh
mất mình trong cuộc sống chung “cọc cạch”
và hờ hững này. Ý nghĩ chia tay từng lóe lên
trong đầu Sài nhiều lần, nhưng có hai chi tiết
đẩy kịch tính lên tới đỉnh điểm. Chi tiết thứ
nhất là thái độ hỗn láo quá mức của Châu. Vì
bận công việc, Sài về muộn: “Tìm mãi không
thấy, bất đắc dĩ anh phải hỏi: - Nước canh đâu
thế em nhỉ? Im lặng. - Còn nước canh không
em? - Đổ cho lợn rồi. - Em nói gì thế? - Nói
gì? Tưởng không về đổ cho lợn nó ăn rồi” [5,
tr.385]. Chính trong đêm ấy, Sài đi đến quyết
định chia tay. Nhân vật rối bời: “Các con ơi,
tha lỗi cho bố, không bao giờ bố muốn một lần
nữa tan tác chia ly, nhưng bố không còn chỗ
nào để lùi nữa rồi. Không còn gì để mà tiếp
tục làm cho các con vui vầy sung sướng. Nếu
sau này lớn lên có kết tội bố thì xin các con
đừng lên án hành động của bố trong đêm nay.
Bố đã có tội với các con từ dăm năm trước và
xa hơn, từ khi bắt đầu cuộc đời của bố kia”
[5, tr.385-386].
Nhưng cú đánh thứ hai mới thực sự khiến
Sài choáng váng vì không bao giờ anh ngờ tới
việc Châu công bố sự thực: bé Thùy không
phải là con anh. Hóa ra, từ trước đến nay, Sài
luôn bị lừa lọc che phủ. Điều đó cho thấy, Lê
Lựu đã thành công khi dẫn người đọc đi qua
hàng loạt tình huống, hàng loạt xung đột để
người đọc nhận thấy toàn bộ bi kịch trong
cuộc đời Giang Minh Sài.
Việc khai thác tính cách và chiều sâu tâm lý
nhân vật qua xung đột cũng được Dương
Hướng sử dụng thành công. Trong cái đêm
cuối cùng của cuộc đời, Nguyễn Vạn vẫn
không tài nào xóa được mặc cảm tội lỗi với
Hạnh. Ngược lại, “lần đầu tiên Hạnh cảm thấy
yên ổn và hạnh phúc trọn vẹn, không lo lắng,
không chờ đợi và không khao khát, không mơ
ước điều gì hơn” [5, tr.317-318]. Cũng phải,
giữa hai nhân vật này có những suy nghĩ
khác nhau. Vạn đã trót là một người tốt, sống
cô đơn, anh không thể chấp nhận được thực
tế “chú” lại có “con” với “cháu”. Còn Hạnh,
“từ ngày đi khỏi làng Đông, Hạnh mới nhận
Lê Thị Hằng
95
ra một điều con người ta sống trên đời cần
có một mái ấm gia đình. Không có lí khi ta
làm cho cuộc đời này tốt đẹp hơn lại là tội
lỗi được” [5, tr.317]. Cái mái ấm mà Hạnh
ngày đêm mong mỏi ấy lại là điều Vạn không
hiểu và không dám chấp nhận. Đây chính là
nguyên nhân dẫn tới kết cục đau xót của
nhân vật.
5. Kết luận
Nghệ thuật tổ chức xung đột là bằng chứng
quan trọng của sự tìm tòi, đổi mới nghệ thuật
và kỹ thuật tiểu thuyết, đồng thời là dấu hiệu
về sự trưởng thành trong tư duy nghệ thuật.
Sau 1975, đặc biệt là sau khi công cuộc đổi
mới được đề xướng, tiểu thuyết đã và đang
tiếp tục sự vận động của nó bằng nhiều thể
nghiệm để hướng tới hệ quả: làm mới, làm hấp
dẫn văn chương nói chung và tiểu thuyết nói
riêng, khẳng định vị thế hàng đầu của văn xuôi
nói chung và tiểu thuyết nói riêng trong thời
hiện đại.
Tài liệu tham khảo
[1] M. Bakhtin (2003), Lý luận và thi pháp tiểu
thuyết, Nxb Hội Nhà văn, Hà Nội.
[2] Nguyễn Thị Bình (1998), “Tư duy mới về tiểu
thuyết”, Tạp chí Văn học, số 7.
[3] Trương Đăng Dung (2002), “Phương thức tồn
tại của tác phẩm văn học”, Tạp chí Văn học,
số 7.
[4] Milan Kundera (1998), Nghệ thuật tiểu thuyết,
Nxb Đà Nẵng, Đà Nẵng.
[5] Lê Lựu (2004), Thời xa vắng, Nxb Văn học,
Hà Nội.
[6] Nguyễn Đăng Mạnh, Lại Nguyên Ân, Vương
Trí Nhàn, Trần Đình Sử, Ngô Thảo (1987),
Một thời đại văn học mới, Nxb Văn học,
Hà Nội.
[7] Nguyên Ngọc (1991), “Văn xuôi sau 1975, thử
thăm dò đôi nét về quy luật phát triển”, Tạp chí
Văn học, số 4.
[8] Mai Hải Oanh (2009), Những cách tân nghệ
thuật trong tiểu thuyết Việt Nam đương đại,
Nxb Hội Nhà văn, Hà Nội.
[9] Trần Đình Sử (2001), “Mấy vấn đề trong quan
niệm con người của văn học Việt Nam thế kỷ
XX”, Tạp chí Văn học, số 8.
[10] Bùi Việt Thắng (2005), Tiểu thuyết Việt Nam
đương đại, Nxb Văn hóa - Thông tin, Hà Nội.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 28159_94298_1_pb_6654_2007488.pdf