Nguyên nhân gây chua cho đất
Nguyên nhân gây chua cho đất Khi nghiên cứu các nguyên nhân làm cho đất trở nên chua người ta thấy có rất nhiều yếu tố chi phối. Sau đây ta sẽ xem xét những nguyên nhân chủ yếu tác động vào quá trình hoá chua của đất. a. Yếu tố khí hậu: Các đặc trưng của khí hậu như .
11 trang |
Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 6709 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem nội dung tài liệu Nguyên nhân gây chua cho đất, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Nguyên nhân gây chua
cho đất
Khi nghiên cứu các nguyên nhân làm cho đất
trở nên chua người ta thấy có rất nhiều yếu tố
chi phối. Sau đây ta sẽ xem xét những nguyên
nhân chủ yếu tác động vào quá trình hoá chua
của đất.
a. Yếu tố khí hậu: Các đặc trưng của khí hậu
như nhiệt độ, ẩm độ, đặc biệt là lượng mưa ảnh
hưởng rất lớn đến quá trình phong hoá đá, sự
chuyển hoá và di chuyển vật chất, đồng thời còn
ảnh hưởng đến thực bì và hoạt động của sinh
vật trong đất. Tất cả các quá trình này đều có
quan hệ chặt chẽ với sự hình thành và biến đổi
độ chua của đất. Nói chung nhiệt độ càng cao
và lượng mưa càng lớn thì càng có lợi cho tác
dụng phá huỷ đá và rửa trôi vật chất. Trong điều
kiện lượng mưa lớn hơn lượng bốc hơi, một
phần nước mưa sẽ di chuyển từ trên mặt đất
xuống dưới sâu do tác dụng của trọng lực. Sự di
chuyển này kéo theo một loạt các chất dễ tan có
trong đất, đặc biệt là các ion kim loại kiềm và
kiềm thổ như Na+, K+, Mg2+, Ca2+ làm cho đất
hoá chua. Do nguyên nhân này mà phần lớn đất
vùng đồi núi Việt Nam cũng như ở các nước
khác thuộc vùng nhiệt đới nóng ẩm đều bị chua
ở các mức độ khác nhau.
b. Yếu tố sinh vật
Trong quá trình hoạt động, vi sinh vật, rễ cây
cũng như các loài sinh vật khác trong đất không
ngừng giải phóng ra CO2, khí này hoà tan trong
nước tạo thành axit H2CO3. Tuy độ phân ly của
axit này không cao nhưng nó là cũng là một
trong những nguồn sinh H+ chủ yếu trong đất.
Trong quá trình vi sinh vật phân giải chất hữu cơ
(đặc biệt trong điều kiện yếm khí) sẽ sinh ra
nhiều axit hữu cơ làm đất bị hoá chua. Bởi vậy
đất quanh năm ngập nước, đất lầy thụt và phần
lớn đất than bùn đều bị chua. Ðặc biệt nếu tàn
tích sinh vật chứa nhiều lưu huỳnh (S) như xác
các cây sú, vẹt đước khi bị phân huỷ trong điều
kiện yếm khí, trải qua một quá trình biến đổi
phức tạp sẽ sinh ra H2S. Khi có điều kiện oxy
hoá thì H2S chuyển thành H2SO4 làm đất rất
chua:
Các loại thực bì khác nhau cũng có ảnh hưởng
khác nhau đến tính chua của đất (chủ yếu nhờ
quá trình tích luỹ sinh học các kim loại kiềm và
kiềm thổ). Trong thành phần tro của cây lá kim
chứa ít chất kiềm nên đất phát triển dưới rừng
cây lá kim thường chua hơn đất hình thành dưới
rừng cây lá rộng. Trong đất rừng rậm nếu có
nhiều nấm hoạt động sẽ tạo thành nhiều axit
fulvic làm cho đất chua thêm.
c. Ảnh hưởng của con người tới quá trình
hoá chua của đất
Trong quá trình sinh trưởng và phát triển, thực
vật màu xanh đã hút một lượng lớn các chất
kiềm trong đất như Na+, K+, Ca2+, Mg2+ v.v.
để hình thành cơ thể. Ðối với thực vật tự nhiên
thì lượng các chất kiềm này sẽ được trả lại cho
đất trong các dạng xác thực vật. Nhưng với đất
canh tác thì một lượng lớn các chất kiềm bị lấy
đi không hoàn lại cho đất dưới dạng các sản
phẩm nông nghiệp. Ðây là một nguyên nhân làm
giảm các chất kiềm trong đất canh tác và làm
đất dần bị hoá chua.
Theo Vũ Cao Thái, với giống lúa IR62, năng
suất 9,8 tấn thóc/ha và 8,3 tấn rơm rạ đất đã bị
lấy đi 265 kg K2O, 58 kg MgO và 71kg CaO/ha.
Theo số liệu của Xmirnôp và Muravin (1989) để
hình thành nên 1 tấn hạt cây ngô đã lấy đi từ đất
30-35 kg N, 8-12kg P2O5 và 25-35 kg K2O.
Do thành phần hoá học, một số phân bón khi
bón vào đất sẽ dần dần làm cho đất hoá chua.
Khi bón những loại phân như (NH4)2SO4,
NH4Cl, KCl vào đất các cation NH4+, K+ sẽ
được keo đất và cây trồng hấp thụ để lại gốc
SO42- và Cl-. Các gốc axit này sẽ tạo HCl và
H2SO4 làm cho đất bị chua. Những phân có thể
làm đất bị hoá chua bằng cơ chế này được gọi
chung là các phân chua sinh lý. Một số loại phân
như supe lân trong thành phần thường chứa
một lượng nhất định axit dư nên khi bón nhiều
vào đất cũng có thể làm cho đất chua thêm. Tuy
vậy nguyên nhân từ phân bón chưa đáng lo ngại
lắm vì trong thực tế lượng phân hoá học mà ta
bón vào đất chưa nhiều.
Ðối với những vùng đất có thành phần cơ giới
nhẹ thì vấn đề tưới nước dư thừa cũng là một
trong những nguyên nhân làm đất bị rửa trôi các
kim loại kiềm và kiềm thổ và dần dần hoá chua.
Tóm lại có rất nhiều nguyên nhân làm cho trong
đất bị hoá chua. Ðiều cần quan tâm là diện tích
đất chua ở nước ta rất lớn, đó là các loại đất đỏ
vàng vùng đồi núi, một phần đất phù sa hệ
thống sông Hồng, phù sa sông Mã, sông Chu,
sông Lam, sông Cửu Long và phù sa sông khác;
các vùng đất bạc màu ở Bắc Giang, Vĩnh Phúc,
Bắc Cạn, Thái Nguyên, Tây Ninh; các vùng đất
phèn ở Hải Phòng, Thái Bình, Ðồng Tháp...; các
vùng đất trũng Nam Định, Hà Nam và các nơi
khác.
Các loại độ chua của đất
Tất cả các nguyên nhân trên đã làm tăng hàm
lượng ion H+ trong đất. Phản ứng chua của đất
được biểu thị bằng các loại độ chua. Những ion
H+ trong đất có thể tồn tại trong dung dịch hoặc
bị hấp thu trên bề mặt hạt keo. Trường hợp thứ
nhất sinh ra "độ chua hoạt tính" có ảnh hưởng
trực tiếp tới cây và vi sinh vật. Trường hợp thứ
hai gây nên "độ chua tiềm tàng" của đất vì H+
(và Al3+) chỉ làm tăng độ chua dung dịch và ảnh
hưởng đến sinh vật khi bị đẩy vào dung dịch đất
bởi các cation khác. Hai loại độ chua này hợp
thành tổng số độ chua của đất.
a. Ðộ chua hoạt tính
Ðộ chua hoạt tính do các ion H+ có trong dung
dịch đất tạo nên, nồng độ ion H+ càng cao thì
đất càng chua.
Ðể xác định độ chua này ta chiết rút các ion H+
bằng nước cất rồi xác định nồng độ ion H+ bằng
pH meter. Ðộ chua hoạt tính được biểu thị bằng
pHH2O. pH là trị số âm của logarit nồng độ ion
H+ trong dung dịch:
pH = - lg[H+]
Trong hoá học người ta đã quy định rằng nước
tinh khiết hay bất cứ dung dịch nào có [H+] =
[OH-] = 10-7 g ion/l nghĩa là pH = -lg10-7 = 7 thì
đó là môi trường trung tính.
Nếu [H+] 7 đó là môi
trường kiềm.
Nếu [H+] > 10-7 g ion/l nghĩa là pH < 7 đó là môi
trường chua.
Thông thường pHH2O của đất biến thiên từ 3-9
và được đánh giá như sau:
pHH2O
Ðộ chua hoạt tính của một số loại đất Việt
nam
Ðộ chua hoạt tính được sử dụng trong việc bố
trí cơ cấu cây trồng phù hợp trên vùng đất canh
tác hoặc xác định sự cần thiết phải bón vôi cải
tạo độ chua của đất cho phù hợp với đặc tính
sinh học của loại cây định trồng. Ða số cây trồng
ưa môi trường trung tính nhưng cá biệt có
những cây cần đất chua như chè, cà phê, dứa,
khoai tây...
Khoảng pH đất tối thích cho một số cây trồng
Số liệu trong bảng 6.2 chỉ khoảng pH tối thích,
trong thực tế phạm vi pH cho phép cây sống
được rộng hơn thế nhiều. Ví dụ cây lúa có thể
sống ở đất có pH dao động từ 4,0 đến 9,0, sống
bình thường với pH từ 5-8 nhưng tốt nhất là
trong khoảng 6,2-7,3.
Dựa vào độ chua hoạt tính và cơ cấu cây trồng
ta có thể xác định xem đã cần cải tạo độ chua
cho đất hay chưa. Ðối với đa số cây trồng nông
nghiệp ngắn ngày nếu pHH2O <4,5 thì cấp thiết
phải bón vôi, nếu pHH2O = 4,6-5,5 cần vừa nếu
pHH2O >5,5 thì chưa cần thiết phải bón vôi.
Khi đất chua nhiều (pHH2O < 4,0) có thể nghi
trong đất chứa axit vô cơ (ví dụ như H2SO4
trong đất phèn). Nếu đất kiềm nhiều (pHH2O >
8,5) thì trong đất thường chứa nhiều Na2CO3
hay NaHCO3.
Ðộ chua hoạt tính chịu ảnh hưởng của các yếu
tố sau:
+ Mức độ phân ly thành ion của chất điện giải.
Cùng nồng độ đương lượng nhưng axit vô cơ
phân ly thành ion nhiều hơn axit hữu cơ nên
pHH2O của dung dịch thấp hơn. Tương tự như
vậy với các bazơ.
+ Hiện tượng trao đổi ion H+ và Al3+ trong keo
đất với các ion khác khi bón phân vô cơ như
KCl, (NH4)2SO4... cũng làm tăng độ chua hoạt
tính.
b. Ðộ chua tiềm tàng
Như trên đã nói trong đất chua còn có các ion
H+ và Al3+ được hút bám trên bề mặt keo đất.
Khi tác động lên đất một dung dịch muối thì H+
và Al3+ bị đẩy vào dung dịch đất. Nồng độ của
các ion này trong dung dịch tăng lên gây ảnh
hưởng không tốt đến thực vật và vi sinh vật. Ðộ
chua thu được trong trường hợp này gọi là độ
chua tiềm tàng.
Các ion H+ và Al3+ được hút bám trên keo với
các lực khác nhau. Tuỳ thuộc vào lực hút bám
của các ion này trên keo mà người ta chia độ
chua tiềm tàng thành 2 loại: độ chua trao đổi và
độ chua thuỷ phân.
* Ðộ chua trao đổi: Là một loại độ chua của đất
được xác định khi cho đất tác dụng với một
dung dịch muối trung tính, thường dùng muối
KCl, NaCl, BaCl2. Như vậy ngoài những ion H+
có sẵn trong dung dịch đất còn có những ion H+
và Al3+ được đẩy ra từ keo đất theo phản
ứng:
Muối Al thuỷ phân tạo ra axit theo phương
trình:
Nếu cho đất tác động với dung dịch KCl 1M
trong 60 phút, lọc lấy dịch trong dùng dung dịch
NaOH 0.01N chuẩn độ dịch lọc sẽ xác định
được độ chua trao đổi, đơn vị là lđl/ 100g đ (đất
khô).
Nếu ta đem dung dịch lọc đo pH ta được pHKCl.
Cùng một mẫu đất pHKCl thường có trị số pH
thấp hơn pHH2O từ 0.5 đến 1.0 đơn vị.
Chú ý: ở những vùng đất trung tính hay kiềm
yếu chỉ xác định được pHKCl chứ không xác
định độ chua trao đổi bằng chuẩn độ vì dung
dịch đất sẽ có màu hồng ngay sau khi vừa cho
chỉ thị màu phenolphtalein vào dịch chiết đất.
Trường hợp đặc biệt, một số loại đất có pHKCl
> pHH2O. Ðiều này thường gặp ở những đất có
lượng keo dương lớn (một số như: đất đỏ feralit,
đất potzon). Khi đó có thể do sự trao đổi anion
Cl- của dung dịch muối trung tính với các ion
OH- trên keo đất nên lượng ion OH- bị chuyển
vào dung dịch đất sẽ trung hoà bớt các ion H+
làm trị số pH tăng lên.
Thông thường độ chua trao của đất nhỏ hơn 1
lđl/100g đất. Khi độ chua này lớn (trên 2 lđl/100g
đất) chứng tỏ các cation kiềm hấp phụ trên keo
đất đã bị rửa trôi nhiều, cần phải bón vôi cải tạo
độ chua cho đất trước khi bón phân khoáng vào
đất. Nếu không có vôi bón thì nên chia phân
khoáng bón thành nhiều đợt, tránh bón tập
trung.
* Ðộ chua thuỷ phân
Dùng muối trung tính KCl tác động với đất nhiều
khi vẫn chưa đẩy dược hết các ion H+ và Al3+
ra khỏi keo đất. Các nhà hoá học đất đã đưa ra
phương pháp khác: dùng dung dịch chiết là
muối tạo bởi một axit yếu và một bazơ mạnh
như CH3COONa hoặc Ca(CH3COO)2 thì hầu
hết các ion H+ và Al3+ sẽ bị đẩy ra khỏi keo vào
dung dịch. Ðộ chua được xác định bằng
phương pháp này lớn hơn độ chua trao đổi
nhiều và được gọi là độ chua thuỷ phân. Ðộ
chua thuỷ phân được ký hiệu là H, đơn vị là lđl
H+ và Al3+ trong 100g đất khô.
Trong dung dịch NaCH3COO bị thuỷ phân:
CH3COOH là axit yếu ít phân ly, NaOH thì phân
ly hoàn toàn thành Na+ và OH- vì vậy dung dịch
có phản ứng kiềm yếu (pH = 8,2-8,5). Ðây là
điều kiện để Na+ đẩy hết H+ và Al3+ trên keo
đất vào dung dịch theo sơ đồ sau:
Từ phản ứng (1) và (2) ta thấy H+ và Al3+ trong
đất khi đẩy vào keo đất đã tạo nên CH3COOH
trong dịch lọc. Dùng dung dịch NaOH 0,1N tiêu
chuẩn chuẩn độ lượng CH3COOH trong dịch lọc
thì ta xác định được độ chua thuỷ phân của đất.
Như vậy độ chua thuỷ phân là độ chua lớn nhất
vì nó bao gồm cả ion H+ ( độ chua hoạt tính),
ion H+ và Al3+ bám hờ (độ chua trao đổi) và
những ion H+ và Al3+ hút bám chặt trên bề mặt
keo đất.
Ðộ chua trao đổi và độ chua thuỷ phân của một
số loại đất Việt Nam
Theo nguyên lý thì độ chua thuỷ phân thường
lớn hơn độ chua trao đổi nhưng cũng có những
trường hợp cá biệt độ chua thuỷ phân bằng
hoặc nhỏ hơn độ chua trao đổi. Những trường
hợp này có thể giải thích như sau:
+ Một số loại đất như đất đỏ nhiệt đới hoặc đất
potzon khi tác dụng với dung dịch NaCH3COO
thì anion CH3COO- có thể trao đổi với anion
OH- trên keo kaolinit tạo nên NaOH trong dung
dịch. Lượng NaOH này trung hoà bớt axit
CH3COOH trong dung dịch làm độ chua thuỷ
phân giảm.
+ Saritvili (1948) cho rằng một số đất đỏ có khả
năng hấp phụ phân tử axit axêtic sinh ra trong
tác dung thuỷ phân nói trên và chính vì vậy khi
chuẩn độ ta thấy độ chua thuỷ phân bé hơn độ
chua trao đổi.
Người ta dùng độ chua thuỷ phân để tính dung
tích hấp phụ cation (CEC) của đất:
CEC = S + H
Trong đó S là tổng các cation kiềm trao đổi và H
là độ chua thuỷ phân
Hoặc tính độ no kiềm của đất theo công thức:
Ðộ chua thuỷ phân được sử dụng để tính lượng
vôi bón khi cải tạo đất chua (cứ 1lđl ion H+ cần
dùng 28mg vôi bột CaO hoặc 50 mg bột đá vôi
CaCO3 để trung hoà). Công thức tính cụ thể sẽ
được trình bày ở cuối chương này (phần bón vôi
cải tạo đất chua).
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Nguyên nhân gây chua cho đất.pdf