Nghiên cứu ứng dụng thiết bị sấy dùng năng lượng mặt trời
Abstract. Energy and use of energy problems are great concern of all nations. Solar
energy is a clean energy source and is considered as one of the main energy source in the future.
Thus the study of improving the efficiency of using solar drying equipment and deployed them to
practical application is a problem of taking time. Currently, the country and the world
have research and manufacturing many kinds of solar dryers. However, due to characteristics of
the Solar energy is only available when the sun should heat the dried product is not
stable and continuous deployment of solar dryers in fact very limited. This paper gives results of
experimental research and development of solar dryers have heat storage in the use of certain
types of dried seafood.
8 trang |
Chia sẻ: yendt2356 | Lượt xem: 632 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Nghiên cứu ứng dụng thiết bị sấy dùng năng lượng mặt trời, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ ĐẠI HỌC QUẢNG BÌNH, SỐ 02
NGHIÊN CỨU ỨNG DỤNG THIẾT BỊ SẤY
DÙNG NĂNG LƯỢNG MẶT TRỜI
Hoàng Dương Hùng
Trường Đại học Quảng Bình
Tóm tắt. Năng lượng và vấn đề sử dụng năng lượng đang là mối quan tâm rất lớn của mọi
quốc gia. Năng lượng mặt trời (NLMT) là nguồn năng lượng sạch và được xem là một trong
những nguồn năng lượng chính trong tương lai. Do đó việc nghiên cứu nâng cao hiệu quả các
thiết bị sấy sử dụng NLMT và triển khai ứng dụng chúng vào thực tế đang là vấn đề có tính thời
sự. Hiện nay trong nước và trên thế giới đã nghiên cứu, chế tạo nhiều loại thiết bị sấy NLMT.
Tuy nhiên, do đặc điểm của NLMT là chỉ được cung cấp khi có nắng nên quá trình cấp nhiệt cho
sản phẩm sấy không được ổn định và liên tục nên việc triển khai các thiết bị sấy NLMT trong
thực tế còn rất hạn chế. Bài báo này đưa ra kết quả nghiên cứu triển khai thực nghiệm thiết bị
sấy NLMT có sử dụng chất trữ nhiệt trong việc sấy một số loại hải sản.
Từ khóa: Thiết bị sấy; năng lượng mặt trời; sấy hải sản; trữ nhiệt; quá trình sấy
1. ĐẶT VẤN ĐỀ
Hiện nay việc nghiên cứu ứng dụng các thiết bị cung cấp nhiệt bằng NLMT phục vụ
sản xuất công, nông nghiệp trên thế giới phát triển rất nhanh nhằm đảm bảo cung cấp
nguồn năng lượng sạch để bảo vệ môi trường. Tuy nhiên, việc ứng dụng NLMT trong
thực tế còn rất khiêm tốn. Nguyên nhân chính là chưa thể thương mại hóa các thiết bị và
công nghệ sử dụng NLMT vì còn tồn tại một số hạn chế lớn chưa được giải quyết như:
giá thành thiết bị còn cao, hiệu suất thiết bị còn thấp, phụ thuộc vào vị trí địa lý lắp đặt
thiết bị, cần không gian đủ lớn để đặt thiết bị nhất là việc không đảm bảo độ tin cậy
của các thiết bị sử dụng NLMT vì tính không ổn định, không liên tục của nó [1].
Việt Nam là nước nông nghiệp, có nguồn lợi thủy, hải sản phong phú và đa dạng. Vì
vậy, quy trình sấy khô nhằm bảo quản chất lượng hải sản là rất quan trọng. Từ trước tới
nay, người dân Việt Nam đã và đang sử dụng NLMT để sấy dưới dạng phơi nắng ngoài
trời, phương pháp này có quá nhiều hạn chế như: phụ thuộc vào thời tiết, mất vệ sinh,
mất nhiều thời gian, có thể đến 2, 3 ngày nắng nên sản phẩm khó đạt được chất lượng
cao. Do vậy, cần nghiên cứu một thiết bị sấy NLMT có thể sấy liên tục bằng cách sử
dụng các chất chuyển pha (PCM) có khả năng trữ nhiệt cao để cấp nhiệt cho quá trình sấy
các loại hải sản với giá thành hợp lý, phù hợp với điều kiện kinh tế Việt Nam.
2. THIẾT BỊ SẤY NĂNG LƯỢNG MẶT TRỜI DÙNG CHẤT CHUYỂN PHA
2.1. Mô tả thiết bị
Mô hình thiết bị sấy nghiên cứu được mô tả như Hình 1: Hệ thống thiết bị sấy gồm
hai khối chính là thiết bị Collector dùng Paraffin tích trữ năng lượng nhiệt mặt trời và
TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ ĐẠI HỌC QUẢNG BÌNH, SỐ 02
thiết bị buồng sấy được kết nối với nhau bằng hệ thống kênh dẫn khí nóng. Cả thiết bị sấy
lẫn thiết bị tích trữ nhiệt đều hấp thụ nguồn năng lượng mặt trời và làm việc đồng thời
trong quá trình sấy sản phẩm [4].
2.2. Nguyên lý hoạt động
Khi trời có nắng, vật liệu sấy được sấy trực tiếp bằng năng lượng mặt trời, Paraffin
tích trữ nhiệt năng lượng mặt trời chuyển pha từ rắn sang lỏng. Khi cường độ bức xạ mặt
trời giảm vào cuối ngày, vật liệu sấy tiếp tục được sấy bằng không khí nóng được gia
nhiệt ở Collector, khi đó Paraffin sẽ giải phóng lượng nhiệt tích trữ được cho không khí
và chuyển pha từ lỏng sang rắn.
Hình 1. Mô hình thiết bị sấy cá NLMT có dùng chất Paraffin để trữ nhiệt
TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ ĐẠI HỌC QUẢNG BÌNH, SỐ 02
3. TÍNH TOÁN THIẾT KẾ HỆ THỐNG SẤY
Thiết bị được sử dụng tính toán
nghiên cứu trong bài báo này là một hệ
thống sấy cá có công suất 15kg/mẻ, thời gian
sấy 15giờ (G = 1kg/h). Độ ẩm của cá trước và
sau quá trình sấy tương ứng là ω1=75%, ω2 =
10%. Không khí trước khi vào Collector có nhiệt
độ t0=300C, độ ẩm tương đối ϕ0 =77%,
p=0,98bar. Cường độ bức xạ mặt trời trung bình
cực đại trong ngày ở Đà Nẵng là
En=940W/m2. Nhiệt độ tác nhân sấy trước khi
vào buồng sấy (sau khi ra khỏi Collector) là t1
= 450C, sau khi ra khỏi buồng sấy t2=320C.
Collector có kích thước a x b x
h=1200x1600x250mm, trong đó có đặt 13 ống
đựng PCM có đường kính Φ60/57mm, dài
1500mm. Trong ống có nhồi phoi kim loại. Khối
lượng PCM là 45kg. Collector có nhiệm vụ hấp
thụ ánh sáng mặt trời để gia nhiệt cho không khí và gia nhiệt cho PCM. Trong Collector
có lắp một nhiệt kế để đo nhiệt độ không khí và PCM trong Collector. Kích thước chi tiết
của Collector được thể hiện trên Hình 2.
Buồng sấy có kích thước a x b x h = 820x420x1000mm. Chiều cao chân đế là
600mm. Trong buồng sấy có đặt kệ sấy với
4 khay sấy. Kệ sấy làm bằng thép, có 4
tầng, kích thước mỗi tầng là
800x400x150mm. Khay sấy làm bằng lưới
thép viền khung gỗ, kích thước
650x400mm. Khoảng hở ở đầu kệ sấy, giữa
kệ và khay sấy là 150mm, mục đích là tạo
đường đi cho luồng không khí nóng. Như
vậy không khí nóng chuyển động song song
với các khay sấy và được dẫn đi theo 4 pass
như Hình 1.
Sau khi tính toán với chất trữ nhiệt là
Paraffin và tính chọn các thông số, tổng hợp
lại ta có các thông số của Collector như sau:
Bảng 1. Các thông số thiết kế của Collector
Hình 2. Cấu tạo collector
Hình 3. Kích thước thiết bị sấy
TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ ĐẠI HỌC QUẢNG BÌNH, SỐ 02
Thông số
Collector đã
tính chọn
Ký
hiệu Giá trị
Đơn
vị
Thông số
Collector đã
tính chọn
Ký
hiệu
Giá
trị
Đơn
vị
Khối lượng
Paraffin mpf 45 kg
Lượng phoi
kim loại nhồi
vào mỗi ống
mphoi 0,3 kg
Khối lượng riêng
Paraffin ρpf 910 kg/m
3 Chiều rộng
Collector l 1.2 m
Nhiệt dung riêng
đẳng áp Paraffin
rắn
Cppfr 2900 J/kgK
Chiều dài
Collector r 1.6 m
Nhiệt dung riêng
đẳng áp Paraffin
lỏng
Cppfl 2930 J/kgK
Chiều cao
Collector δ 0.2 m
Nhiệt chuyển
pha của Paraffin rc 189000 J/kgK
Chiều dày thép
làm Collector δt 0,002 m
Nhiệt độ nóng
chảy của
Paraffin
tc 60 0C
Chiều dày tấm
kính δK 0.005 m
Đường kính
ngoài ống đựng
Paraffin
dông 0.06 m
Hệ số dẫn nhiệt
tấm kính λK 0.8
W/m
K
Đường kính
trong ống đựng
Paraffin
dôtr 0.057 m
Độ trong tấm
kính D 0.95
Chiều dài ống
đựng Paraffin hô 1.5 m
Độ đen tấm hấp
phụ ε 0.95
Chiều dày ống
đựng Paraffin δô 0.0015 m
Chiều dày lớp
cách nhiệt δcn 0. 05 m
Khối lượng riêng
của thép làm ống
Paraffin và
Collector
ρt 7850 kg/m3
Hệ số dẫn nhiệt
lớp cách nhiệt λcn 0.055
W/m
K
Nhiệt dung riêng
của thép làm ống
Cpt 500 J/kgK
Tốc độ dòng
không khí qua ωkk
1 m/s
TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ ĐẠI HỌC QUẢNG BÌNH, SỐ 02
Paraffin và
Collector
Collector
Nhiệt độ môi
trường tf 30
0C
Cường độ bức
xạ mặt trời lớn
nhất trong ngày
En 940
W/m
2
4. KẾT QUẢ ĐO ĐẠC THỰC NGHIỆM
4.1. Hệ thống thiết bị sấy thực
Hình 4. Hệ thống thiết bị thí nghiệm sấy cá
Hệ thống thiết bị sấy cá công suất 15kg/mẻ gồm các thiết bị chính như Hình 4. Kích
thước các thiết bị của hệ thống được chế tạo dựa trên các tính toán thiết kế ở mục 3.
4.2. Kết quả thí nghiệm sấy cá trên mô hình thiết bị
Thiết bị thí nghiệm được tiến hành sấy không tải và sấy có tải với loại cá trích và cá
giò nhiều mẻ (từ 7h đến 22h ) trong nhiều ngày để điều chính các thông số thực nghiệm
hợp lý. Kết quả đo đạc của một ngày sấy cá với cường độ bức xạ mặt trời En = 920 W/m2
được ghi lại như đồ thị Hình 5 và Hình 6.
Sản phẩm cá trước lúc sấy và sau khi sấy được chụp lại như Hình 7 [2].
Bộ thu nhiệt có dùng chất trữ nhiệt
Buồng sấy
TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ ĐẠI HỌC QUẢNG BÌNH, SỐ 02
Hình 5. Kết quả đo nhiệt độ tại các điểm khảo sát trên hệ thống sấy cá
Hình 6. Kết quả đo độ ẩm của cá trong quá trình sấy từ 7h đến 22h
Hình 7. Sản phẩm cá trước lúc sấy và sau khi sấy
5. TRIỂN KHAI ỨNG DỤNG VÀO THỰC TẾ
Loại Collector có dùng chất trữ nhiệt Paraffin như trên đã được chế tạo với số lượng
lớn để lắp đặt cho hệ thống cấp nhiệt của hầm sấy cá công suất 300kg/mẻ tại Công ty
Trách nhiệm hữu hạn Sản xuất và Thương mại Hải Vy, Đà Nẵng.
Cá trước lúc sấy
Cá trích sau khi sấy
sấy
Cá giò sau khi sấy
TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ ĐẠI HỌC QUẢNG BÌNH, SỐ 02
Hệ thống cấp nhiệt cho hầm sấy gồm 30 Collector với diện tích hứng nắng 60m2
như Hình 8. Nhiệt độ trong hầm sấy được điều chỉnh từ 400C – 450C tùy theo các giai
đoạn sấy của quy trình sấy (Hình 9). Những ngày cường độ bức xạ mặt trời lớn trên
900W/m2 hệ thống có thể cấp nhiệt để sấy trong thời gian từ 15 đến 17 giờ, còn những
ngày cường độ bức xạ mặt trời thấp, hệ thống có thiết kế thêm buồng đốt bằng củi để hỗ
trợ trong quá trình sấy.
6. KẾT LUẬN
Thiết bị sấy năng lượng mặt trời có dùng chất trữ nhiệt có khả năng duy trì nhiệt độ
sấy thích hợp (400C - 450C) trong thời gian dài, phù hợp để sấy các sản phẩm có thời gian
sấy khoảng 15 giờ. Dùng thêm các nguồn năng lượng phụ trợ khác như than, củi hệ
thống sấy này có thể hoạt động liên tục trong những ngày nắng yếu. Hệ thống thiết bị sấy
dùng Collector có chất trữ nhiệt đã được thiết kế chế tạo và bước đầu triển khai ứng dụng
vào thực tế, đạt những kết quả tốt. Do vậy hệ thống thiết bị sấy này hoàn toàn có thể triển
Hình 8. Hệ thống Collector và ống dẫn khí nóng đến hàm sấy
Hình 9. Hệ thống điều chỉnh và theo dõi nhiệt độ hầm sấy
TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ ĐẠI HỌC QUẢNG BÌNH, SỐ 02
khai ứng dụng rộng rãi vào thực tế ở Việt Nam với công suất lớn hơn để sấy các loại
nông, hải sản.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1] Hoàng Dương Hùng (2007), Năng lượng Mặt trời lý thuyết và ứng dụng, Nhà xuất bản Khoa học Kỹ
thuật, Hà Nội.
[2] Nguyễn Thị Hồng Nhung (2011), Sử dụng chất chuyển pha để trữ nhiệt trong thiết bị sấy dùng năng
lượng mặt trời, Luận văn Thạc sĩ kỹ thuật, Đại học Đà Nẵng.
[3] Anthony F. Mills, Heat and Mass Transfer (1995), University of California at Los Angeles.
[4] Arun S. Mujumdar (2006), Handbook of Industrial Drying, Taylor and Francis Group, LLC.
[5] John A. Duffie, William A. Beckman (1991), Solar Engineering of Thermal Processes, A Wiley -
Interscience Publication.
RESEARCH ON APPLICATION OF SOLAR ENERGY DRYER
Hoang Duong Hung
Quang Binh University
Abstract. Energy and use of energy problems are great concern of all nations. Solar
energy is a clean energy source and is considered as one of the main energy source in the future.
Thus the study of improving the efficiency of using solar drying equipment and deployed them to
practical application is a problem of taking time. Currently, the country and the world
have research and manufacturing many kinds of solar dryers. However, due to characteristics of
the Solar energy is only available when the sun should heat the dried product is not
stable and continuous deployment of solar dryers in fact very limited. This paper gives results of
experimental research and development of solar dryers have heat storage in the use of certain
types of dried seafood.
Keyword: dryer; solar energy, dried seafood; heat storage; drying process
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 1_hoang_duong_hung_3626_2024748.pdf