Nghiên cứu những vấn đề biến đổi xã hội ở nước ta trong giai đoạn hiện nay

Một số dẫn chứng trên cho thấy, biến đổi xã hội là một chủ đề rộng lớn và thực sự có mối liên hệ chặt chẽ với sự phát triển xã hội hiện tại và tương lai, từ vĩ mô tới vi mô, từ cấu trúc xã hội đến mô hình hành vi và lối sống thường ngày. Đối với một xã hội đang chuyển đổi nhanh như Việt Nam, nghiên cứu các biến đổi xã hội từ nhiều góc độ luôn là một lĩnh vực còn rất “mở” cho sự tham gia và đóng góp của các nhà xã hội học cũng như của các bộ môn khoa học xã hội khác. Cùng hợp tác nghiên cứu, chia sẻ tri thức và kinh nghiệm nghiên cứu trong lĩnh vực này, xã hội học có thể góp phần cung cấp các luận chứng khoa học và thực tiễn cho việc hoạch định các chính sách phát triển của quốc gia trong tương lai.

pdf10 trang | Chia sẻ: linhmy2pp | Ngày: 11/03/2022 | Lượt xem: 413 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Nghiên cứu những vấn đề biến đổi xã hội ở nước ta trong giai đoạn hiện nay, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Xã hội học số 2 (82), 2003 3 Nghiên cứu những vấn đề biến đổi xã hội ở n−ớc ta trong giai đoạn hiện nay Trịnh Duy Luân I. Biến đổi xã hội trong lý luận xã hội học Biến đổi xã hội luôn là chủ đề trung tâm của xã hội học. Vào giữa thế kỷ XIX những cố gắng đầu tiên phân tích xã hội học về chủ đề này đã đ−ợc thúc đẩy bởi nhu cầu phải giải thích hai làn sóng biến đổi lớn đang diễn ra trên khắp châu Âu lúc này. Đó là quá trình công nghiệp hóa và sự mở mở rộng nền dân chủ và các quyền công dân, đ−ợc thức tỉnh từ sau các cuộc cách mạng ở Pháp và ở Mỹ. Auguste Comte, trong lý thuyết về động thái xã hội của mình, cho rằng các xã hội đã và đang phát triển thông qua những giai đoạn có thể dự báo đ−ợc dựa trên sự phát triển của tri thức nhân loại. Herbert Spencer thì đ−a ra lý thuyết về sự biến đổi mang tính cách mạng dựa trên sự tăng tr−ởng dân số và những khác biệt cấu trúc. Còn Karl Marx thì đ−a ra quan niệm cho rằng những biến đổi xã hội mạnh mẽ nhất đều mang bản chất cách mạng, nh− là hệ quả của các cuộc đấu tranh giành quyền lực giữa các giai cấp kinh tế. Nhìn chung, các lý thuyết về biến đổi xã hội vào giữa thế kỷ XIX đều có xu h−ớng lịch sử và chủ nghĩa không t−ởng. Trong suốt thế kỷ này các lý thuyết về biến đổi xã hội đã nảy nở và trở nên phức tạp hơn, song tất cả chúng đều không v−ợt qua đ−ợc những gì đã có từ tr−ớc. Trong thế giới hiện đại, chúng ta đều biết rằng xã hội không bao giờ tĩnh tại, rằng những biến đổi chính trị, xã hội và văn hóa diễn ra th−ờng xuyên. Các biến đổi có thể khởi nguồn từ phía chính phủ, thông qua các quyết định lập pháp và hành pháp (nh− một quy định mới về sự trả tiền bình đẳng hay tuyên bố một cuộc chiến tranh); bởi các công dân đ−ợc tổ chức trong những phong trào xã hội (nh− công đoàn, nữ quyền, hòa bình xanh...); từ sự truyền bá văn hóa (nh− trong các hành động xâm chiếm quân sự, di c−, chủ nghĩa thực dân); hay bởi các hậu quả dự kiến hoặc không dự kiến đ−ợc của sự phát triển công nghệ. Một số biến đổi xã hội mạnh mẽ nhất trong thế giới hiện đại lại diễn ra bởi sự xuất hiện của ô tô, của thuốc kháng sinh, của vô tuyến truyền hình, của máy vi tính và gần đây nhất là của mạng internet, với các yếu tố cấu thành những xã hội thông tin đang đến gần. Những biến đổi xã hội cũng có thể diễn ra d−ới tác động của các nhân tố môi tr−ờng và những chuyển đổi quốc tế về lợi thế chính trị và kinh tế. Bản quyền thuộc Viện Xó hội học. www.ios.org.vn Nghiên cứu những vấn đề biến đổi xã hội ở n−ớc ta trong giai đoạn hiện nay 4 Các nhà xã hội học đã tiến hành nghiên cứu vấn đề biến đổi xã hội một cách rộng khắp thông qua việc phân tích kỹ l−ỡng các quá trình biến đổi đặc biệt. Các lý thuyết về biến đổi xã hội hiện nay bao trùm một phổ rất rộng lớn các loại biến đổi từ ngắn hạn đến dài hạn, từ quy mô lớn đến quy mô nhỏ, từ cấp độ toàn cầu đến cấp độ gia đình. Những biến đổi chính trị, kinh tế và cấu trúc đầy kịch tính nh− đã diễn ra ở Đông Âu và Liên Xô cũ vào đầu những năm 90 có thể là một thí dụ minh họa cho sự biến đổi xã hội ở cấp vĩ mô. Các nhà xã hội học cũng quan tâm đến những biến đổi có tác động đến các chuẩn mực, các giá trị, hành vi, ý nghĩa văn hóa và các quan hệ xã hội. Trong các công trình của Emile Durkheim, có thể thấy những quan niệm của ông về biến đổi xã hội trên cơ sở lý thuyết chức năng luận mà sau này gắn liền với tên tuổi của Talcott Parson và Wilbert E. Moore. Theo cách tiếp cận này, nếu xã hội đ−ợc xem nh− một mô hình các chức năng đ−ợc nối kết lẫn nhau một cách phức tạp thì các biến đổi có thể đ−ợc giải thích nh− là hiện t−ợng th−ờng xuyên đi tìm kiếm trạng thái trung lập (equilibrium). Chẳng hạn, nạn thất nghiệp hàng loạt có thể tạo ra hệ thống phúc lợi, hoặc xung đột sắc tộc có thể tạo ra các điều chỉnh pháp luật. Những hệ quả rắc rối của biến đổi xã hội là không bao giờ kết thúc và không thể dự đoán đ−ợc nh−ng tất cả đều có thể đ−ợc hiểu nh− là những sự điều chỉnh xã hội đối với một số trục trặc hay rối loạn chức năng trong cơ thể xã hội. Quan điểm tiến hóa luận của Hebert Spencer về biến đổi xã hội cũng đ−ợc chú ý trong xã hội học thế kỷ XIX. Những nhà xã hội học theo quan điểm này nhìn nhận xã hội nh− một quá trình thích ứng đ−ợc di truyền qua hệ thống gien. Họ lập luận rằng xã hội loài ng−ời là những sản phẩm mang tính cá nhân và xã hội của hàng triệu năm với các chiến l−ợc thích ứng mang tính sinh tồn. Một xã hội có thể biến đổi một cách tích cực (thích ứng) hay tiêu cực (không thích ứng) và sự lựa chọn này sẽ gắn kết với số phận của nó. Vì vậy, phúc lợi, hoặc các hành động tích cực, hoặc sự thâm hụt chi tiêu có thể là tốt với một số ng−ời, nh−ng lại là xấu đối với tất cả. Sự sinh tồn xã hội là chìa khóa để hiểu các hậu quả chứ không phải để hiểu những mục tiêu của biến đổi xã hội. Nhìn chung các quan điểm chức năng luận, tiến hóa luận hay xã hội học về biến đổi xã hội cho đến lúc này đều mang hàm ý bảo thủ, thể hiện nhu cầu của xã hội và đều bảo vệ trạng thái ổn định của nó hơn là các −ớc muốn cá nhân. Những truyền thống Mác-xít và lý thuyết xung đột lại phát triển các tuyến lý giải khác, cho dù họ có chia sẻ những giả thuyết đ−ợc xem là quan trọng của thuyết chức năng luận. Lý thuyết Mác-xít về biến đổi xã hội mang tính tích cực hơn, khi nhấn mạnh khả năng của con ng−ời có thể ảnh h−ởng tới số phận riêng của họ thông qua hành động chính trị. Các lý thuyết xung đột (không nhất thiết là Mác-xít) giải thích biến đổi xã hội nh− là hệ quả của cuộc đấu tranh giành −u thế giữa các giai cấp, các sắc tộc hay các nhóm xã hội khác, hơn là vì mục tiêu tìm kiếm sự đồng thuận. Daniel Bell trong tác phẩm Cultural Contraditions of Capitalism-1976 (Những mâu thuẫn văn hóa của chủ nghĩa t− bản), đã trở lại với cách tiếp cận xung Bản quyền thuộc Viện Xó hội học. www.ios.ac.vn Trịnh Duy Luân 5 đột khi đề xuất rằng những biến đổi trong thế giới hiện đại đang gia tăng là do mâu thuẫn giữa ba “lĩnh vực” của thực tiễn xã hội, đang vận hành trên những nguyên tắc và những mục tiêu khác nhau. Đó là: cấu trúc kinh tế - kỹ thuật (khoa học, công nghiệp và kinh tế); hệ thống chính trị; và văn hóa. Vào thế kỷ XIX, các nhà lý luận nhìn nhận biến đổi xã hội nh− một quá trình tổng thể thuần nhất, ở đó mỗi khía cạnh của xã hội có thể thay đổi lẫn cho nhau. Còn ngày nay, chúng ta biết rằng, nh− mô hình của Bell đ−a ra, biến đổi th−ờng không đều và mang tính bộ phận. “Trễ văn hóa (cultural lag) là một hiện t−ợng phổ biến, ở đó sự phát triển của văn hóa th−ờng bị trễ so với sự phát triển trong công nghệ, chính trị hoặc kinh tế”. Sau cùng, sự đồng nhất biến đổi với tiến bộ từ thế kỷ XIX giờ đây không còn đ−ợc chấp nhận nữa. Biến đổi cũng có thể là thoái bộ, là phá hoại hoặc đảo lộn trật tự bởi sự trễ văn hóa. Với sự xuất hiện của quá trình “hiện đại hóa tự phát”, các xã hội công nghiệp tiên tiến đang ngày càng đ−ợc đặc tr−ng bởi sự không chắc chắn hoặc các rủi ro th−ờng xuyên phát sinh. Điều này vẫn còn là một câu hỏi mở cho đến khi nào các nhà xã hội học có thể giải thích hoặc dự báo đ−ợc các biến đổi xã hội, hoặc đến khi nào các xã hội có thể khởi động hoặc kiểm soát một cách vững chắc sự biến đổi theo những định h−ớng mà toàn xã hội mong đợi. II. Biến đổi xã hội ở Việt Nam hiện nay Trong điều kiện Việt Nam, biến đổi xã hội cũng bao hàm nhiều yếu tố: từ phát triển xã hội, phát triển con ng−ời đến những thay đổi trong cơ cấu xã hội, trong hệ thống các giá trị, trong các khuôn mẫu hành vi, và những đặc tr−ng lối sống của các nhóm xã hội khác nhau. Việc nghiên cứu các biến đổi xã hội này có thể dựa trên một số cách tiếp cận: cấu trúc - hành vi, vĩ mô - vi mô hoặc kết hợp các cách tiếp cận này. Các nghiên cứu trên chủ đề này vừa mang tính cơ bản, tính lý luận học thuật, vừa có thể là các nghiên cứu thực nghiệm ở cấp vi mô. Chúng cung cấp những thông tin thực tiễn đ−ợc khái quát hóa về các xu h−ớng biến đổi đang diễn ra trong những bối cảnh xã hội cụ thể, cung cấp cơ sở khoa học cho việc hoạch định các chính sách phát triển kinh tế và xã hội của đất n−ớc theo h−ớng đảm bảo tăng tr−ởng kinh tế đi đôi với ổn định về chính trị và công bằng xã hội. Trong hơn một thập kỷ Đổi mới vừa qua, Việt Nam đã đạt đ−ợc những thành tựu lớn về kinh tế. Đồng thời, đất n−ớc cũng đang trải qua những biến đổi mạnh mẽ trong cơ cấu xã hội, trong hệ thống các giá trị xã hội, trên quy mô toàn xã hội và trong mỗi lĩnh vực và hoạt động của các nhóm xã hội. B−ớc vào thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, vấn đề nhận diện và dự báo các xu h−ớng biến đổi xã hội vẫn là một nhiệm vụ nghiên cứu quan trọng của khoa học xã hội, đặc biệt, của xã hội học. Nghiên cứu những biến đổi của cơ cấu xã hội và những biến đổi trong các khuôn mẫu hành vi và lối sống của các nhóm xã hội có thể cho phép hiểu đúng thực trạng và xu h−ớng biến đổi của các nhóm xã hội quan trọng trong cơ cấu xã hội Việt Nam hiện nay. Đây là một loại nghiên cứu cơ bản ở tầm vĩ mô, cần phải tiến hành trong một thời gian dài mới có thể trả lời cho vấn đề này một các khái quát. Tuy Bản quyền thuộc Viện Xó hội học. www.ios.org.vn Nghiên cứu những vấn đề biến đổi xã hội ở n−ớc ta trong giai đoạn hiện nay 6 nhiên, nghiên cứu trong phạm vi từng nhóm xã hội hay từng lĩnh vực riêng lẻ trong từng giai đoạn cũng có thể cho thấy những biến đổi xã hội mang tính bộ phận đang diễn ra ở đây. Các nghiên cứu nh− vậy nếu đ−ợc tiến hành một cách liên tục, lịch đại, có thể so sánh các kết quả tại những không gian và thời điểm khác nhau, sẽ giúp thấy rõ hơn sự biến đổi qua thời gian của xã hội Việt Nam trong quá trình Đổi mới và phát triển. Từ góc độ ph−ơng pháp luận, sau một thời gian triển khai nhiều nghiên cứu thực nghiệm, trên nhiều chủ đề bộ phận riêng lẻ, xã hội học rất cần có những nghiên cứu mang tính khái quát, trên cơ sở các kết quả nghiên cứu thực nghiệm đã có. Khái niệm "biến đổi xã hội" đ−ợc sử dụng ở đây là muốn thâu tóm, tổng hợp lại, d−ới lăng kính xã hội học, những phát hiện từ các nghiên cứu riêng lẻ thành một bức tranh chung về xã hội Việt Nam đang biến đổi trong giai đoạn hiện nay. Làm đ−ợc điều này cũng có nghĩa là quán triệt đ−ợc một nguyên tắc nhận thức luận Mác-xít: nguyên tắc toàn diện, tránh sự phiến diện, cục bộ, "chỉ thấy cây mà không thấy rừng". Trên thực tế, từ thập niên 1990, đã có một số công trình mở đầu cho h−ớng nghiên cứu về biến đổi xã hội, trong đó có những đề tài thuộc các ch−ơng trình nghiên cứu cấp nhà n−ớc, nhằm xây dựng luận cứ khoa học cho việc đổi mới chính sách xã hội, và phản ánh những đặc tr−ng và xu h−ớng biến đổi của cơ cấu xã hội Việt Nam. Một số nghiên cứu khác đề cập tới chủ đề biến đổi xã hội trong các lĩnh vực cụ thể nh− y tế, giáo dục, phát triển nông thôn, phát triển đô thị,... Ngoài ra, các cuộc điều tra thống kê lớn trong những năm 1990 nh− LVSS 1993, 1998, Điều tra Hộ gia đình đa mục tiêu, Điều tra về Thực trạng giầu nghèo ở Việt Nam, 1993-1995, Tổng điều tra dân số và nhà ở 1999 của Tổng cục Thống kê và nhiều báo cáo nghiên cứu của các tổ chức quốc tế (nh− Ngân hàng thế giới, UNDP, các tổ chức NGO) cũng cung cấp nhiều thông tin, hiểu biết về chủ đề biến đổi xã hội. Theo h−ớng này, cùng với các nghiên cứu mới, có thể tiếp tục khai thác các nguồn t− liệu hiện có để có một cái nhìn đầy đủ hơn về chủ đề này trong thập niên 1990 và thập niên 2000 nhằm phục vụ cho việc hoạch định các chính sách phát triển kinh tế xã hội của đất n−ớc trong thời gian tới. II.1. Những biến đổi trong cấu trúc xã hội Tự do hóa th−ơng mại, chuyển sang kinh tế thị tr−ờng, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa - đó là những tác nhân quan trọng thúc đẩy những thay đổi trong cấu trúc xã hội, đ−ợc thể hiện một cách điển hình trong hiện t−ợng phân tầng xã hội nh− là một loại hình biến đổi xã hội. Thực trạng phân tầng xã hội, phân hóa giàu nghèo trong thời kỳ Đổi mới không phải là một cái gì mới. Các nghiên cứu cho thấy: phân tầng xã hội đã từng tồn tại cả trong thời kỳ tr−ớc Đổi mới. Quá trình chuyển từ nền kinh tế tập trung bao cấp sang cơ chế thị tr−ờng chỉ tạo ra một môi tr−ờng kinh tế - xã hội quá độ đặc thù, chứa đựng nhiều yếu tố tác động trực tiếp và gián tiếp khiến cho phân tầng xã hội trở thành bột phát. Đó là các yếu tố nh−: môi tr−ờng pháp lý ch−a đ−ợc hoàn thiện tạo điều kiện cho sự liên kết quyền lực vì lợi ích của các cá nhân hoặc nhóm đặc thù, Bản quyền thuộc Viện Xó hội học. www.ios.ac.vn Trịnh Duy Luân 7 những lợi thế so sánh, vị thế đặc biệt của một số ngành; tính năng động, sự chuẩn bị, sẵn sàng của các cá nhân, các nhóm xã hội khác nhau khi b−ớc vào kinh tế thị tr−ờng, và nhiều yếu tố khác nữa. Các yếu tố này quy định mức độ phân tầng xã hội khác nhau không chỉ giữa các tầng lớp, nhóm xã hội, giữa các vùng miền, các ngành mà cả trong từng bộ phận của cơ cấu xã hội. Cũng đã có một số giả thuyết dự báo xu h−ớng của loại hình biến đổi xã hội này nh−: phân tầng xã hội trong thời gian tới sẽ tiếp tục gia tăng, song với tốc độ chậm hơn tr−ớc do những tốc độ tăng tr−ởng kinh tế bị chững lại; phân tầng xã hội có thể kích thích hình thành một tầng lớp trung l−u mới ở đô thị hay tầng lớp khá giả và năng động nhất ở nông thôn, đóng vai trong tích cực trong tiến trình phát triển sắp tới; quá trình hoàn thiện môi tr−ờng pháp lý-thể chế sẽ có tác động hạn chế quá trình phân tầng xã hội đột biến nh− trong thập niên 90,... Trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa và hiện đại hóa hiện nay, sự phát triển của kinh tế thị tr−ờng theo xu h−ớng toàn cầu hóa, hội nhập khu vực và quốc tế (về kinh tế, văn hóa, xã hội) sẽ tiếp tục tác động tới các nhóm xã hội quan trọng, theo cả hai chiều h−ớng tích cực, thúc đẩy tăng tr−ởng và tiêu cực, làm gia tăng các khác biệt và phân tầng xã hội. Từ cách tiếp cận xã hội học, có thể nhận thấy sự xuất hiện của các nhóm xã hội mới và các quan hệ xã hội mới với diện mạo ít nhiều rõ nét, bên cạnh các các nhóm xã hội “cũ” mà giờ đây cũng đang tự thay đổi trong điều kiện mới. Cần nhận rõ vị trí và vai trò của các nhóm xã hội mới này trong quá trình phát triển để có các ứng xử quản lý thích hợp. Chẳng hạn, một số nhà nghiên cứu khoa học xã hội và hoạch định chính sách đã bắt đầu nhắc đến giới doanh nhân, đặc biệt là doanh nhân trong khu vực t− nhân, một nhân vật mới trong cơ cấu xã hội với diện mạo, vị trí và vai trò xã hội của nó đang đ−ợc khắc họa. D−ới đây là một vài con số về giới doanh nhân tại thành phố Hồ Chí Minh, địa bàn đ−ợc xem là năng động nhất trong quá trình cải cách và chuyển đổi cơ chế ở n−ớc ta. Kinh tế nhiều thành phần đ−ợc phát triển mạnh mẽ trong hơn 10 năm qua, trong đó khu vực kinh tế t− nhân là bộ phận có sự phát triển năng động nhất. Chỉ tính riêng thành phố Hồ Chí Minh đến nay đã có 26.000 doanh nghiệp t− nhân các loại đang hoạt động với tổng số vốn đăng ký 23.000 tỷ đồng, đóng góp 35,5% trong GDP và thu hút 76,5% lực l−ợng lao động đang làm việc trên địa bàn. Khu vực này bao gồm các loại hình doanh nghiệp nh− doanh nghiệp t− nhân, công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần và kinh tế hộ cá thể. Riêng loại hình hộ sản xuất kinh doanh cá thể từ 50.000 hộ năm 1998 đã tăng lên 130.473 hộ vào năm 2000. Nh− vậy, khu vực kinh tế t− nhân của thành phố Hồ Chí Minh đã thực sự trở thành bộ phận cấu thành và có nhiều đóng góp tích cực vào tăng tr−ởng GDP, nhất là tạo việc làm mới trên địa bàn thành phố. Chỉ tính riêng số hộ kinh doanh cá thể, tuy quy mô nhỏ, nh−ng số l−ợng lớn, nhờ nhanh nhạy nắm bắt nhu cầu thị tr−ờng, nên đã giải quyết đ−ợc 40% số việc làm cho tổng số lao động trên toàn thành phố. Có những ngành Bản quyền thuộc Viện Xó hội học. www.ios.org.vn Nghiên cứu những vấn đề biến đổi xã hội ở n−ớc ta trong giai đoạn hiện nay 8 kinh doanh nh− khách sạn nhà hàng, giá trị sản xuất của khu vực t− nhân đã chiếm trên 77% toàn bộ giá trị của ngành tại thành phố Hồ Chí Minh. (Nguồn: Mạnh Ph−ơng. Về sự phát triển của kinh tế t− nhân trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh. Tạp chí Cộng sản, số 27/9-2002, tr.5-49) Trong tr−ờng hợp này, giới doanh nhân rõ ràng đang hình thành nh− một giai tầng có tiềm lực kinh tế lớn, là nhóm xã hội năng động nhất và nh− một nguồn lực mới của sự phát triển kinh tế và xã hội, có thể góp phần tích cực vào xu thế hội nhập và phát triển của đất n−ớc. Từ các nhóm xã hội và giai tầng mới nh− vậy, có thể nghĩ đến sự hình thành và phát triển của một tầng lớp “trung l−u mới” sẽ hình thành ở Việt Nam trong thời gian tới, dựa trên hoạt động của nền kinh tế thị tr−ờng định h−ớng xã hội chủ nghĩa. Trong thành phần của tầng lớp này, ngoài giới doanh nhân, còn có thể kể đến các nhà đầu t− phát triển, giới trí thức khoa học công nghệ, giới quản lý,... Việc tiến tới nhận diện và khẳng định sự tồn tại của một tầng lớp “trung l−u mới” nh− vậy, đặt nó vào một vị trí t−ơng xứng trong hệ thống phân tầng xã hội chính thức sẽ là một sự đổi mới trong t− duy và thực tiễn quản lý xã hội Việt Nam hiện nay và trong t−ơng lai. Bên cạnh việc xây dựng nền kinh tế thị tr−ờng định h−ớng xã hội chủ nghĩa, quá trình xây dựng nhà n−ớc pháp quyền, thực hiện dân chủ hóa đời sống xã hội cũng là xuất phát điểm tạo ra những biến đổi đáng kể trong thực tiễn về mô hình quản lý, trong nhận thức của ng−ời dân và giới quản lý. Những biến đổi xã hội theo h−ớng này đã đ−ợc nhận thức và nghiên cứu ở một mức độ nhất định. Quá trình dân chủ hóa đời sống xã hội đ−ợc phản ánh tập trung qua việc triển khai rộng khắp việc thực hiện Quy chế Dân chủ ở cơ sở. Những tổng kết thực tiễn và nghiên cứu đánh giá đã đ−ợc tiến hành cho thấy những b−ớc tiến của lĩnh vực. Bên cạnh đó, trình độ dân trí, mức độ công khai, d− luận xã hội, sự đối thoại trực tiếp hoặc thông qua đại diện, qua các ph−ơng tiện truyền thông đại chúng giữa ng−ời dân với chính quyền các cấp cũng cho thấy những biến đổi xã hội nhất định trong lĩnh vực này. Đây cũng là cơ sở thực tế làm chuyển biến nhận thức, quan niệm và thay đổi dần các yếu tố của hệ giá trị cũ bằng các yếu tố của hệ giá trị mới, cập nhật với những điều kiện mới. II.2. Thiết chế gia đình và những biến đổi xã hội Cũng nh− nhiều thiết chế xã hội khác, sau hơn 15 năm Đổi mới, gia đình với t− cách một thiết chế xã hội cũng đã trải qua những biến đổi đáng kể. Cùng với việc giành lại vai trò là đơn vị kinh tế - sản xuất, các gia đình giờ đây lại đang tiếp tục thích ứng với những điều kiện phát triển mới. Những nghiên cứu gần đây cho thấy d−ờng nh− các cá nhân và gia đình nông thôn Việt Nam đang cấu trúc lại chiến l−ợc sống của họ nhằm bảo đảm và phát triển phúc lợi cá nhân và gia đình trong điều kiện mới. Điều này đ−ợc thể hiện qua những thay đổi trong phân công lao động gia đình, trong các quan hệ kinh tế giữa các thành viên trong gia đình và họ tộc, và trong các quan hệ của các đơn vị kinh tế (th−ờng là hộ gia đình) với nhau. Cũng có thể thấy những thay đổi trong cơ cấu đầu t− của các gia đình vào các Bản quyền thuộc Viện Xó hội học. www.ios.ac.vn Trịnh Duy Luân 9 hoạt động kinh tế, đầu t− cho nguồn nhân lực gia đình, cơ cấu sử dụng thời gian, v.v... Bên cạnh đó, những quan hệ gia đình (và rộng hơn, các quan hệ thân tộc) cũng đang biến đổi, đặc biệt ở khu vực nông thôn. Những chiến l−ợc sống của họ trong giai đoạn này chắc chắn sẽ có quan hệ ít nhiều tới quá trình công nghiệp hóa và phát triển đang đ−ợc triển khai hiện nay và trong thập niên sắp tới. Sẽ có những nhân tố hỗ trợ hoặc cản trở quá trình này, tùy thuộc vào các điều kiện kinh tế xã hội và văn hóa ở các địa ph−ơng, vùng miền khác nhau của đất n−ớc. Và cuối cùng, những biến đổi đang diễn trong các gia đình và cộng đồng nông thôn hiện nay sẽ có quan hệ nhất định với quá trình hội nhập của Việt Nam vào cộng đồng khu vực và thế giới về các ph−ơng diện kinh tế, công nghệ, xã hội, và văn hóa. Với t− cách là một thiết chế và một lĩnh vực xã hội rất nhạy cảm với các biến đổi, các quan hệ hôn nhân gia đình và bản thân gia đình sẽ là tấm g−ơng phản ánh những biến đổi xã hội vĩ mô. Vì vậy, các vấn đề đa dạng và phong phú của nó cần đ−ợc tiếp tục đi sâu nghiên cứu để đóng góp vào sự nhận diện các biến đổi xã hội của đất n−ớc trong giai đoạn hiện nay. II.3. Biến đổi xã hội trong các doanh nghiệp Từ giác độ nghiên cứu xã hội học, sự xuất hiện các nhóm xã hội mới và các quan hệ xã hội mới cũng có thể tìm thấy trong các doanh nghiệp. Đáng l−u ý là các quan hệ sở hữu, quan hệ quản lý, quan hệ cá nhân chủ-thợ,... và những nhóm xã hội mới nh− chủ doanh nghiệp Việt Nam và n−ớc ngoài, công nhân làm thuê trong các xí nghiệp liên doanh hiện nay. Đổi mới và mở cửa đã tạo điều kiện hình thành nhiều loại hình doanh nghiệp mới: Doanh nghiệp T− nhân, Liên doanh với n−ớc ngoài (với các mức độ khác nhau), các Doanh nghiệp đã đ−ợc cổ phần hóa,... Kèm theo đó là các vấn đề xã hội mới, đặc biệt là đối với các doanh nghiệp có vốn đầu t− n−ớc ngoài. Chẳng hạn, những khác biệt văn hóa lần đầu tiên xuất hiện tại các doanh nghiệp này đôi khi đã dẫn đến những hiểu lầm, mâu thuẫn, thậm chí xung đột chủ- thợ, đình công-một hiện t−ợng khá mới trong công nhân Việt Nam. Quan hệ giữa đối tác Việt Nam và đối tác n−ớc ngoài, giữa công nhân Việt Nam và chủ đầu t− n−ớc ngoài cũng đang đặt ra nhiều vấn đề. Đặc biệt là vấn đề vai trò hoạt động của tổ chức Công đoàn trong các xí nghiệp này. Tất cả những vấn đề loại này đang lần l−ợt xuất hiện, thu hút sự chú ý của giới quản lý và d− luận xã hội và cần đ−ợc nhìn nhận cả từ góc độ những biến đổi xã hội ở cấp vi mô. Công nghiệp hóa ở Việt Nam sẽ tiếp tục diễn ra cùng với quá trình hội nhập trong bối cảnh toàn cầu hóa, khu vực hóa. Nghiên cứu những chủ đề nói trên đối với các xí nghiệp liên doanh, khi so sánh với các loại doanh nghiệp khác, sẽ hỗ trợ cho hoạt động quản lý và thúc đẩy quá trình công nghiệp hoá và mở cửa hội nhập của Việt Nam. II.4. Biến đổi xã hội và sự thay đổi của tâm lý xã hội Có những vấn đề biến đổi xã hội gắn với việc thay đổi mang đặc tr−ng của Bản quyền thuộc Viện Xó hội học. www.ios.org.vn Nghiên cứu những vấn đề biến đổi xã hội ở n−ớc ta trong giai đoạn hiện nay 10 tâm lý xã hội trong giai đoạn quá độ tới kinh tế thị tr−ờng. Chẳng hạn, tâm lý “cầu an”, hay nói theo ngôn ngữ khoa học −u tiên bảo đảm sự an toàn cho đời sống cá nhân nh− là một nguyên tắc sống và ảnh h−ởng của nó tới sự thích ứng với quá trình chuyển đổi, và phát triển và hiện đại hóa ở Việt Nam. Cơ chế bao cấp đến nay về cơ bản đã đ−ợc xóa bỏ, song trong tâm lý ng−ời dân thành thị cũng nh− nông thôn, những tàn tích của cơ chế này vẫn dai dẳng tồn tại. ở nông thôn, đó là mô hình hợp tác xã tr−ớc đây, một thời đã từng đảm bảo cho họ có mức sống ổn định tối thiểu. ở thành phố, một bộ phận ng−ời lao động vẫn muốn đ−ợc làm việc ở các cơ quan, doanh nghiệp nhà n−ớc hơn là làm việc trong khu vực t− nhân. ở họ, vẫn tồn tại tâm lý “thà chấp nhận thu nhập thấp, song ổn định hơn là thu nhập cao hơn, nh−ng nhiều mạo hiểm, rủi ro”. Tâm lý này không chỉ có ở những ng−ời lao động bình th−ờng mà có lẽ còn ảnh h−ởng tới cả những doanh nhân, nhất là khi họ gặp phải những khó khăn do bối cảnh và môi tr−ờng thể chế gây ra. Với t− cách một chủ thể kinh tế, lúc đó họ sẽ không phải là những ng−ời duy lý, mạnh mẽ, quyết đoán trong đầu t−. Kết quả là chúng ta còn có quá ít các doanh nhân, những nhà đầu t− “lớn”, “tầm cỡ” đủ sức cạnh tranh trên th−ơng tr−ờng với các đối tác khu vực và quốc tế. Luận điểm này đúng đến mức nào? Những nhóm xã hội nào thực hành hoặc đang cố gắng v−ợt qua nguyên tắc nói trên và điều này có ảnh h−ởng gì tới quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất n−ớc? Trả lời đ−ợc các câu hỏi này có thể sẽ góp phần cho việc việc hoạch định các chính sách quản lý quá trình phát triển, công nghiệp hóa và hiện đại hóa Việt Nam trong t−ơng lai. II.5. Biến đổi trong hệ thống phúc lợi và mạng l−ới an sinh xã hội Trong quá trình chuyển sang nền kinh tế thị tr−ờng, hệ thống phúc lợi xã hội và mạng l−ới an sinh xã hội đóng vai trò nh− là những "đệm đỡ" cho những "cú sốc" do những cải cách chính sách gây ra cho một bộ phận ng−ời dân. Tuy nhiên, chúng mới chỉ giúp cho việc khắc phục tr−ớc mắt những bất cập đe doạ sự ổn định xã hội trong bối cảnh chuyển đổi. Về lâu dài, cần có một hệ thống phúc lợi và mạng l−ới an sinh xã hội thích ứng với cơ chế thị tr−ờng định h−ớng xã hội chủ nghĩa. Bên cạnh đó, chúng ta cũng hiểu rằng, mạng l−ới an sinh xã hội hiện đang ở trong thời kỳ chuyển đổi. Việc mạng l−ới này phải dành các −u tiên chi tiêu cho nhóm đối t−ợng chính sách, ch−a thể thực hiện triệt để nguyên tắc “vì ng−ời nghèo” là nằm trong tiến trình chuyển đổi đặc thù của Việt Nam, gắn liền với thực tế (đang biến đổi) của các nhóm xã hội có liên quan tới thời kỳ lịch sử của những thập niên tr−ớc đây. Đó cũng là những vấn đề thuộc chủ đề biến đổi xã hội hiện tại, có liên hệ mật thiết với nhiều biến đổi ở cấp vĩ mô, trong đó việc hình thành mô hình hệ thống phúc lợi xã hội mới trong những năm sắp tới là một lĩnh vực không thể xem nhẹ. II.6. Những biến đổi trong các chuẩn mực giá trị Đây là một trong những biểu hiện của biến đổi xã hội trong lĩnh vực nhận Bản quyền thuộc Viện Xó hội học. www.ios.ac.vn Trịnh Duy Luân 11 thức và tâm lý xã hội và trong hầu khắp các lĩnh vực của đời sống th−ờng ngày. Các nhà xã hội học đã có những nghiên cứu khởi đầu, song để nghiên cứu chúng một cách có hệ thống, tập trung trong một số lĩnh vực chủ yếu thì cần có những sự tập hợp và phối hợp tốt hơn. Về đại thể, có thể nói về sự chuyển đổi từ các quan niệm, nhận thức và sự vận dụng các yếu tố của những hệ giá trị khác nhau, thông qua các trục phân tích “quá khứ / truyền thống” và “hiện tại / hiện đại”, hoặc trục biến đổi từ hệ giá trị thiên về trách nhiệm đạo đức sang hệ giá trị chức năng. (Và nh− cảm nhận thông th−ờng, các giá trị truyền thống th−ờng gắn với các định kiến bảo l−u cái cũ, cái hiện tồn trong khi các giá trị hiện đại th−ờng nhấn mạnh chất duy lý, chức năng và các yếu tố phát triển). Những sự chuyển đổi mang tính liên tục của các hệ giá trị này tựa nh− các gam màu đang chuyển dịch chậm rãi, song không phải là không nhận thấy d−ợc. Một bằng chứng dễ thấy nằm ngay trong thiết chế gia đình: so sánh hai bộ luật Hôn nhân và Gia đình 1986 và 2000 cho thấy khoảng thời gian 15 năm của thời kỳ Đổi mới đánh dấu những chuyển đổi nhanh và nhiều trong các quan hệ hôn nhân và gia đình ở Việt Nam. Các quan hệ này trở nên phức tạp và đa dạng hơn, và đặc biệt đã mang nhiều yếu tố cá nhân hơn. Gia đình và các quan hệ hôn nhân và gia đình ngày nay không còn chặt chẽ và thuần nhất nh− 15 năm về tr−ớc nữa. Các chuẩn mực về quan hệ giữa các thế hệ trong gia đình, các quan hệ giới, vấn đề ly hôn, con ngoài giá thú, quan hệ tình dục tr−ớc hôn nhân, v.v... đang dần dần đ−ợc điều chỉnh bởi pháp luật hơn là bởi các giá trị đạo đức. Hàng loạt các lĩnh vực khác cũng đang ở trong tình trạng t−ơng tự của sự chuyển giao các yếu tố của hệ giá trị cũ bằng các yếu tố của hệ giá trị mới, dần dần, từng b−ớc nh− là một xu h−ớng không thể tránh khỏi. Nhịp độ của các thay đổi có thể khác nhau tùy thuộc vào lĩnh vực, mức độ nhạy cảm với cái mới hay “bảo l−u” với cái cũ. Chẳng hạn, nếu nh− những thay đổi trong các giá trị liên quan đến quan hệ hôn nhân và gia đình là khá rõ nh− đã nói ở trên, thì những thay đổi trong ý kiến của ng−ời dân nông thôn về những phẩm chất quan trọng nhất của ng−ời cán bộ trong hệ thống chính trị cơ sở, có thể nói vẫn còn khá chậm chạp. Theo một kết quả nghiên cứu gần đây trong lĩnh vực này, ng−ời dân vẫn thích đề cao tr−ớc hết những phẩm chất đạo đức của ng−ời cán bộ hơn là đề cao những phẩm chất “mới”, cần thiết cho sự phát triển nh− “am hiểu pháp luật” và “có khả năng làm kinh tế giỏi”. Có thể có thêm nhiều thí dụ minh hoạ cho sự chuyển đổi này trong đời sống th−ờng ngày, nh− các hiện t−ợng sau đây. II.7. Thay đổi các mô hình hành vi trong đời sống th−ờng ngày Có thể dẫn ra hai thí dụ minh họa cho chủ đề này. Đó là mô hình nhà ở và mô hình tiêu dùng thực phẩm của c− dân đô thị hiện nay. Nhà ở đô thị là một chủ đề nghiên cứu và đối t−ợng quản lý có khá nhiều vấn đề lý thú. Những năm 1990, giới nghiên cứu nhà ở đô thị đã mô tả “giấc mơ nhà ở” Bản quyền thuộc Viện Xó hội học. www.ios.org.vn Nghiên cứu những vấn đề biến đổi xã hội ở n−ớc ta trong giai đoạn hiện nay 12 của ng−ời Hà Nội là: những căn nhà phân lô riêng biệt khép kín, ngoài chức năng c− trú có thể có thêm chức năng sinh lợi về kinh tế. Các căn hộ tập thể cũ bị xem là không thích hợp, còn các căn hộ chung c− hiện đại thì còn quá xa lạ với các tầng lớp thị dân. Năm 1997, từ một cuộc nghiên cứu, chỉ có 1,8% ng−ời dân có nguyện vọng sống trong các “căn hộ chung c− hiện đại”. Đầu những năm 2000, các Khu đô thị mới với những tòa nhà chung c− cao tầng, hiện đại đ−ợc bắt đầu xây dựng và đ−a vào sử dụng, gần nh− ngay lập tức, nhu cầu về các căn hộ này đã v−ợt quá khả năng xây dựng và cung cấp. Nh− vậy, mô hình c− trú đang biến đổi. Một mô hình mới đang ra đời, và t−ơng ứng, những chuẩn mực, lối sống mới, cho một thời kỳ mới, những nhóm xã hội mới sẽ hình thành và phát triển. Mô hình tiêu dùng thực phẩm ở đô thị gần đây cũng là một chủ đề hoàn toàn mới đối với giới nghiên cứu và quản lý. Có thể thấy quan sát đ−ợc rằng, đã bắt đầu có những thay đổi quan trọng trong cơ cấu và thói quen tiêu dùng thực phẩm của ng−ời dân thành phố. Điều này không chỉ bao hàm khía cạnh dinh d−ỡng mà cả nhiều khía cạnh khác nh− mức sống, lối sống, quan niệm về sức khỏe và thẩm mỹ đang biến đổi hiện nay. Nó cũng không chỉ có nghĩa đối với ng−ời dân thành phố mà ngay lập tức, đã tác động tới những ng−ời sản xuất và cung cấp thực phẩm ở các vùng ngoại ô và các tỉnh liền kề. Nhu cầu và mô hình tiêu dùng thay đổi khiến ng−ời sản xuất và cung ứng phải nhận biết thị tr−ờng để có các quyết định đại loại nh− “chuyển đổi cơ cấu cây trồng vật nuôi”, hoặc bảo đảm các yêu cầu vệ sinh an toàn thực phẩm cho ng−ời tiêu dùng. * * * Một số dẫn chứng trên cho thấy, biến đổi xã hội là một chủ đề rộng lớn và thực sự có mối liên hệ chặt chẽ với sự phát triển xã hội hiện tại và t−ơng lai, từ vĩ mô tới vi mô, từ cấu trúc xã hội đến mô hình hành vi và lối sống th−ờng ngày. Đối với một xã hội đang chuyển đổi nhanh nh− Việt Nam, nghiên cứu các biến đổi xã hội từ nhiều góc độ luôn là một lĩnh vực còn rất “mở” cho sự tham gia và đóng góp của các nhà xã hội học cũng nh− của các bộ môn khoa học xã hội khác. Cùng hợp tác nghiên cứu, chia sẻ tri thức và kinh nghiệm nghiên cứu trong lĩnh vực này, xã hội học có thể góp phần cung cấp các luận chứng khoa học và thực tiễn cho việc hoạch định các chính sách phát triển của quốc gia trong t−ơng lai. Tài liệu tham khảo 1. Trịnh Duy Luân (Chủ biên): Phát triển xã hội ở Việt Nam: một tổng quan xã hội học năm 2000. NXB Khoa học xã hội. Hà Nội-2002. 2. Mạnh Ph−ơng: Về sự phát triển của kinh tế t− nhân trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh. Tạp chí Cộng sản, số 27/9-2002, tr.5-49 3. Viện Xã hội học: Hệ thống chính trị cơ sở ở nông thôn nhìn từ phía ng−ời dân. Báo cáo nghiên cứu khảo sát năm 2001. 4. Marshal Gordon. Oxford Dictionary of Sociology. 2nd Edition. 1999. Article: Social Change. Bản quyền thuộc Viện Xó hội học. www.ios.ac.vn

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfnghien_cuu_nhung_van_de_bien_doi_xa_hoi_o_nuoc_ta_trong_giai.pdf