SUMMARY
Lentinula edodes is a favorable edible mushroom in the world. Its successful cultivation requires not only
good and high yield strains but also the appropriate nutrient sources and environmental conditions. A hybrid
strain (Len 003-009) is the result of the mating between a commercial strain (Japan) (Len 009) and a wild one
(Langbiang mountain, Lam Dong) (Len 003). Studying some biological characteristics of the hybrid showed
that its growth rate was similar to or quicker than that of the commercial strain and about twice as rapid as
that of the wild one. The hybrid also represented some heredity characteristics from its parents. In addition,
the optimal growth of the hybrid and the commercial strain were similar with the temperature from 24 to 27
degree Celsius, the concentration of glucose and peptone being 20 g/l and 1 g/l, respectively. Moreover, its
parents could only optimally grow at the different levels of pH (pH=5 in Len 009 and pH=6 in Len 003),
while the hybrid could do that in both mentioned levels. Again, this showed good characteristics of hybrid got
from its parents. All strains did not have any demand for yeast extract during their growth and development.
Thus, it could not evaluate whether there was any inheritance from its parents or not from this experiment.
7 trang |
Chia sẻ: thucuc2301 | Lượt xem: 485 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Nghiên cứu một số đặc điểm sinh học của chủng nấm hương lai từ núi Langbiang, Lâm Đồng và chủng thương mại Nhật Bản - Phạm Nữ Kim Hoàng, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
TẠP CHÍ SINH HỌC 2014, 36(1se): 158-164
158
NGHIÊN CỨU MỘT SỐ ĐẶC ĐIỂM SINH HỌC CỦA CHỦNG NẤM HƯƠNG LAI
TỪ NÚI LANGBIANG, LÂM ĐỒNG VÀ CHỦNG THƯƠNG MẠI NHẬT BẢN
Phạm Nữ Kim Hoàng1, Trương Bình Nguyên1*, Lê Xuân Thám2,
Phan Hữu Hùng1, Hoàng Ngọc Ánh1, Đỗ Thị Thiên Lý1
1Viện Nghiên cứu Khoa học Tây Nguyên, Viện Hàn lâm KH & CN Việt Nam, *nguyentb@tni.ac.vn
2Sở Khoa học và Công nghệ tỉnh Lâm Đồng
TÓM TẮT: Nấm hương (Lentinula edodes) là loại nấm được ưa chuộng, nhưng để nuôi trồng thành công
cần có chủng giống tốt, năng suất cao, nguồn dinh dưỡng và khả năng thích ứng với môi trường. Chủng
nấm hương Len 003-009 là con lai từ chủng thương mại Nhật Bản (Len 009) và chủng hoang dã
(Langbiang, Lâm Đồng) (Len 003). Kết quả nghiên cứu ảnh hưởng của nhiệt độ, pH và nguồn dinh dưỡng
lên sự sinh trưởng của chủng lai so với bố mẹ cho thấy, chủng lai luôn phát triển với tốc độ nhanh hơn
hoặc tương đương với chủng thương mại và gấp đôi chủng hoang dã và đã thể hiện một số đặc tính tốt của
bố mẹ. Chủng lai phát triển tối ưu trong khoảng nhiệt độ 24-27oC, đường glucose 20g/l và đạm peptone
1g/l, tương tự sự phát triển của chủng thương mại. Trong khi đó, chúng bố mẹ chỉ phát triển tối ưu ở mức
pH khác nhau (pH=5 ở Len 009 và pH=6 ở Len 003), con lai có thể phát triển tối ưu ở cả hai giá trị pH
này, thể hiện khả năng tổ hợp một số ưu điểm từ chủng bố mẹ. Nghiên cứu cũng cho thấy ba chủng nấm
đều không có nhu cầu về đạm cao nấm men. Trong thí nghiệm này, chưa xác định được đặc điểm thừa
hưởng của tổ hợp lai từ chủng bố mẹ.
Từ khóa: Lentinula edodes, cao nấm men, chủng lai, Lâm Đồng.
MỞ ĐẦU
Nấm hương (Lentinula edodes) là một loại
nấm ăn có nguồn gốc từ châu Á Thái Bình
Dương, được nuôi trồng và sử dụng rộng rãi
trên thế giới. Theo Chen (2005) [1], loài nấm
này rất giàu vitamin (A, B và D), khoáng chất
(P, K và Fe), các amino acid thiết yếu (cystin,
histidin, arginin, glutamic acid), đặc biệt có
chứa lentinan-một loại β-glucan có khả năng
điều hòa miễn dịch, kháng ung thư cũng như
kháng các tác động của virus.
Ở Nhật Bản, Hàn Quốc và Trung Quốc, nấm
hương được nuôi trồng trên qui mô lớn đem lại
hiệu quả kinh tế cao. Ở Việt Nam nói chung,
tỉnh Lâm Đồng nói riêng, đến nay vẫn chưa có
một cơ sở sản xuất qui mô loại nấm này mặc dù
đã có nhiều chuyên gia đưa các chủng giống
chất lượng cao từ nước ngoài về nuôi trồng. Khi
tiến hành nuôi trồng, các đặc điểm như nhiệt độ
ra quả thể, hình dạng, kích thước quả thể, nhiệt
độ thích hợp cho sự phát triển hệ sợi, không
giống nhau với các giống nấm hương khác
nhau. Như vậy, giống nấm chất lượng tốt, năng
suất cao và có khả năng thích ứng cao với điều
kiện tự nhiên tại chỗ là một trong những yếu tố
quan trọng quyết định sự thành công trong nuôi
trồng nấm hương [5].
Theo Yoshida et al. (1968) [7], trong nuôi
trồng nấm, đặc biệt đối với nuôi trồng nấm
hương, nguồn dinh dưỡng và các yếu tố môi
trường đóng vai trò quan trọng ảnh hưởng trực
tiếp đến quá trình phát triển hệ sợi và hình thành
quả thể nấm. Hệ sợi nấm hương có thể phát
triển tốt trên nhiều nguồn carbon khác nhau, từ
các monosacchride cho đến các polysaccharide,
nhưng tốt nhất trên đường glucose. Trong khi
peptone và các amino acid được xem là nguồn
nitơ tốt cho sự phát triển hệ sợi thì nitrate và
nitrite lại không thích hợp. Ngoài ra, pH và
nhiệt độ là hai yếu tố môi trường có ảnh hưởng
lớn đến hoạt tính enzyme nên ảnh hưởng đến sự
sinh trưởng và phát triển của hệ sợi cũng như sự
hình thành quả thể nấm hương [1].
Năm 2008, chúng tôi đã thu thập được một
chủng nấm hương hoang dã thuộc loài Lentinula
edodes, dòng Đông Bắc Á thuộc chi Lentinula,
họ Marasmiaceae, bộ Agaricales (ký hiệu Len
003). Một số nghiên cứu cơ bản cho thấy chủng
nấm này có những tính chất ưu việt có thể sử
dụng cho việc nuôi trồng như có thể phát triển
được trong điều kiện nuôi trồng nhân tạo, thời
gian phát triển hệ sợi tương đối ngắn, khả năng
Pham Nu Kim Hoang et al.
159
hình thành mầm nấm cao [2]. Ngoài ra, trong
thời gian qua, chúng tôi đã sưu tập và lưu giữ
một bộ giống thuần nấm hương trong đó có một
chủng thương mại nhập nội từ Nhật Bản (ký
hiệu Len 009), nhưng chưa được khảo sát, đánh
giá trong điều kiện nuôi trồng tại Đà Lạt.
Nhằm tạo ra một chủng vừa có nguồn gốc
bản địa, thích nghi tốt với môi trường vừa cho
năng suất, chất lượng cao, chúng tôi đã thực hiện
lai tạo chủng nấm hoang dã thu thập được tại địa
phương với chủng thương mại nhập nội từ Nhật
Bản theo phương pháp di-mon mating của Miles
(1996) [3]. Theo đó, chúng tôi đã nuôi trồng thu
quả thể nhằm tách bào tử sợi song nhân cả hai
chủng nghiên cứu. Bào tử sợi song nhân chủng
Len 003 tiếp tục được cấy vào các đĩa petri khác
và quan sát dưới kính hiển vi nhằm tìm được hệ
sợi đơn bào tử. Cấy dòng đơn nhân Len 003 với
dòng song nhân Len 009 trên cùng một đĩa petri.
Khi hệ sợi của hai chủng tiếp xúc với nhau, nếu
tại các đỉnh sợi đơn nhân ở phía ngược lại của sợi
song nhân xuất hiện mấu liên kết, quá trình song
nhân hóa đã xảy ra. Trong nghiên cứu này, chúng
tôi đánh giá một số đặc điểm sinh học và hóa
sinh của chủng nấm hương lai (Len 003-009) từ
chủng bản địa (Len 003) với chủng thương mại
Nhật Bản (Len 009).
VẬT LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Chủng nấm hương hoang dã Len 003 được
thu tại rừng cây lá rộng núi Langbiang, Lâm
Đồng. Chủng Len 009 đã được thương mại hóa
nguồn gốc Nhật Bản. Chủng lai Len 003-009 là
kết quả lại tạo theo phương pháp di-mon mating
giữa Len 003 và Len 009.
Các chủng đều được nuôi cấy trong ống
nghiệm thạch nghiêng môi trường PGA (200g
khoai tây, 20g glucose và 15g agar trên 1l môi
trường), giữ ở 4oC tại Phòng Công nghệ Vi
sinh, Viện Nghiên cứu Khoa học Tây Nguyên.
Khi tiến hành thí nghiệm, ba chủng nấm
thuần Len 003, Len 009 và Len 003-009 được ủ
trong tủ ấm ở nhiệt độ 25oC trong ba ngày, sau
đó cấy lần lượt vào các đĩa petri chứa môi
trường PGA, nuôi ở nhiệt độ phòng (18±2oC).
Khi hệ sợi của ba chủng phát triển kín mặt đĩa,
dùng một khuôn inox tròn, rỗng (ø = 9 mm) vô
trùng cắt hệ sợi mỗi chủng theo một vòng tròn
đồng tâm thành các mẫu nhỏ chứa sợi nấm.
Năm mẫu nấm của mỗi chủng sẽ được sử dụng
cho mỗi công thức và được nuôi cấy ở nhiệt độ
phòng. Sau khi cấy được 48 giờ (qui ước là 0
giờ), đo đường kính hệ sợi ở mỗi đĩa và đo mỗi
24 tiếng cho đến 144 giờ. Hai đường thẳng đi
qua tâm của mẫu nấm được chọn nhằm thu
được giá trị trung bình của đường kính hệ sợi.
Tốc độ phát triển hệ sợi được tính theo
Schwantes & Salttler (1971) [4]: V = ΔX/ΔT.
Trong đó, V là tốc độ mọc của hệ sợi (µm/giờ);
ΔX là bán kính hệ sợi phát triển từ 0 đến 144
giờ (µm); ΔT là thời gian hệ sợi phát triển tương
ứng (giờ).
Ảnh hưởng của nhiệt độ và pH môi trường
lên sự phát triển hệ sợi với các ngưỡng nhiệt độ
là 18, 21, 24, 27, 30, và 33oC; các ngưỡng pH là
4, 5, 6, 7 và 8. Cả hai thí nghiệm, mẫu nấm
được cấy vào đĩa petri chứa môi trường PGA.
pH được điều chỉnh bằng dung dịch NaOH 1M
và HCl 1M bằng máy đo pH để bàn Hanna.
Nghiên cứu ảnh hưởng của glucose lên sự
phát triển hệ sợi được thực hiện trên môi trường
PGA (thành phần khoai tây và agar không đổi)
có nồng độ glucose ở sáu mức 10, 15, 20, 25, 30
và 35g/l.
Nghiên cứu ảnh hưởng của peptone và cao
nấm men lên sự phát triển hệ sợi được thực hiện
trên môi trường PGA có bổ sung pepton hoặc
cao nấm men ở các nồng độ 1, 2, 3, 4, 5 g/l (đối
chứng môi trường PGA).
Việc lập bảng biểu, tính toán các thông số
được thực hiện bằng Microsoft Excel 2007, độ
tin cậy 95%; hàm Descriptive Statistics, và
ANOVA.
KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN
Ảnh hưởng của nhiệt độ lên sự phát triển
hệ sợi
Theo Chen (2005) [1], nấm hương có khả
năng thích nghi để phát triển trong giải nhiệt độ
rộng từ 5-32oC, tuy nhiên nhiệt độ tối ưu cho sự
phát triển hệ sợi trong khoảng 24-26oC. Tốc độ
phát triển của hệ sợi các chủng nghiên cứu ở các
mức nhiệt độ khác nhau được thể hiện ở bảng 1
và hình 7a. Kết quả cho thấy, cả ba chủng nấm
đều không thể phát triển ở điều kiện nhiệt độ
môi trường trên 30oC. Ở nhiệt độ 33oC, Len 009
hóa đen ngay sau khi cấy, tiếp đến là Len 003-
TẠP CHÍ SINH HỌC 2014, 36(1se): 158-164
160
009 và Len 003 và sau 144 giờ tất cả mẫu cấy ở
cả ba chủng đều không phát triển (hình 1 và 2).
Đối với Len 003, hệ sợi phát triển tối ưu ở mức
24oC, trong khi hệ sợi chủng Len 009 và 003-
009 phát triển thích hợp ở cả hai ngưỡng 24oC
(lần lượt là 194,66 và 201,25 µm/giờ) và 27oC
(lần lượt là 195,96 và 202,47 µm/giờ). Như vậy
sự phát triển của ba chủng trong đó có một
chủng hoang dã chưa được thuần hóa cũng
không khác nhận xét của Chen (2005) [1] về dải
nhiệt độ của nấm hương.
Bảng 1. Tốc độ (µm/giờ) phát triển hệ sợi chủng nấm hương ở các ngưỡng nhiệt độ
Nhiệt độ nuôi cấy (oC) Chủng 18 21 24 27 30 33
Len 003 72,16±1,45 67,49±3,50 107,81±2,63 87,15±4,05 21,62±1,32 0
Len 009 172,89±4,71 173,26±3,50 194,66±2,39 195,96±4,83 126,56±1,88 0
Len 003-009 186,13±2,59 185,02±2,37 201,25±3,30 202,47±3,52 139,15±3,96 0
Hình 1. Hệ sợi nấm khi nuôi cấy ở 33oC Hình 2. Hệ sợi nấm sau 144 giờ ở 24oC
a. Len 003; b. Len 009; c. Len 003-009. a. Len 003; b. Len 009; c. Len 003-009.
So sánh sự phát triển của ba chủng cho thấy,
chủng hoang dã Len 003 phát triển yếu nhất và
Len 003-009 cao nhất khi nuôi cấy ở cả sáu
mức nhiệt độ. Cụ thể, ở 24oC, hệ sợi Len 009 và
Len 003-009 có tốc độ phát triển 194,66 và
201,25 µm/giờ, cao hơn hẳn Len 003 (107,81
µm/giờ). Chủng Len 003-009 là con lai nhưng
lại có tốc độ phát triển nhanh hơn cả hai chủng
bố mẹ Len 003 và 009. Giải thích cho trường
hợp này, Tokimoto & Kawai (1998) [6] cho
rằng trong số các phương pháp chọn tạo giống
nấm hương, phương pháp lai bắt cặp giữa dòng
đơn nhân và đa nhân (di-mon mating) có thể đã
giúp loại bỏ được những đột biến có hại, tạo nên
các tổ hợp lai có tốc độ sinh trưởng mạnh hơn
chủng bố mẹ.
Ảnh hưởng của pH môi trường lên sự phát
triển hệ sợi
Nấm hương có thể phát triển trong dải pH
rộng (3-7) nhưng không như đa số các loại nấm
khác, đây là loại nấm ưa môi trường acid nhẹ
nên mức pH tối ưu cho hệ sợi nấm phát triển
thường là 4,5-5,5 [1]. Bảng 2, hình 3 và 7b cho
thấy ảnh hưởng của pH môi trường lên sự phát
triển của các chủng nấm hương. Kết quả cho
thấy, ba chủng nấm hương nghiên cứu trong đó
có một chủng hoang dã và một là con lai từ
chủng hoang dã này cũng thích hợp với môi
trường acid nhẹ. Hệ sợi Len 003-009 cũng như
bố mẹ, có thể phát triển được trên môi trường
có pH thay đổi từ 4 đến 8 nhưng ở mức pH=5,
tốc độ trung bình hệ sợi chủng lai cao nhất (191
µm/giờ) bằng với sự phát triển của Len 009.
Ngoài ra, tốc độ phát triển cao nhất này còn
được tìm thấy ở pH=6; mức pH mà hệ sợi bố
mẹ Len 003 phát triển mạnh nhất khi so sánh
trên cả năm mức (82,89 µm/giờ). Nghĩa là con
lai có sự phát triển cao nhất ở cả hai mức pH
(một tương tự bố, một tương tự mẹ). Như vậy,
khi đánh giá ảnh hưởng của pH lên
sự phát triển hệ sợi, con lai đã thể hiện đặc điểm
tương tự bố mẹ, nói cách khác, con lai đã tổ hợp
được một số ưu điểm từ bố mẹ.
Pham Nu Kim Hoang et al.
161
Bảng 2. Tốc độ (µm/giờ) phát triển hệ sợi ba chủng nấm hương ở các ngưỡng pH
pH môi trường nuôi cấy Chủng 4 5 6 7 8
Len 003 72,48±1,84 79,43±0,61 82,89±0,61 73,78±1,23 72,05±1,23
Len 009 178,53±2,79 191,55±2,65 183,45±1,00 182,87±1,00 177,37±2,65
Len 003-009 177,50±1,98 191,25±1,13 190,42±2,35 183,75±0,73 180,42±1,45
Hình 3. Hệ sợi nấm trên môi trường pH=5
sau 144 giờ
Hình 4. Hệ sợi nấm trên môi trường có nồng độ
glucose tối ưu sau 144 giờ
a. Len 003; b. Len 009; c. Len 003-009. a. Len 003; b. Len 009; c. Len 003-009.
Ảnh hưởng của glucose lên sự phát triển hệ sợi
Kết quả cho thấy con lai Len 003-009 có tốc
độ phát triển cao nhất, cao hơn bố mẹ trên cả
sáu nồng độ glucose: cao nhất ở 20 g/l (204,31
µm/giờ) và thấp nhất ở 35 g/l (176,90 µm/giờ).
Nhu cầu về mức glucose của chủng con lai
tương tự như của chủng bố mẹ Len 009 nhưng
khác với chủng hoang dã Len 003. Ở Len 009,
hệ sợi phát triển cao nhất cũng ở nồng độ 20 g/l
(195,44 µm/giờ) trong khi Len 003 cần nguồn
glucose từ 30-35 g/l mới có thể phát triển tối đa
(73,56 µm/giờ) (bảng 3 và hình 7c). Mặc dù nhu
cầu về nồng độ glucose của con lai len 003-009
tương tự của Len 009, nhưng về mặt hình thái,
khi quan sát bằng mắt thường, hệ sợi chủng lai
có những đặc điểm tương tự Len 003, cụ thể hệ
sợi mọc tương đối dày, chằng chịt, khuynh
hướng hình thành nhiều hệ sợi không khí tạo
nên một khuẩn lạc có màu trắng bông, trong khi
Len 009 có hệ sợi mỏng, vươn xa theo bề mặt
môi trường, ít tạo hệ sợi không khí (hình 4). Tốc
độ phát triển của hệ sợi Len 003-009 xấp xỉ
chủng bố mẹ thương mại và cao hơn hẳn chủng
hoang dã đã cho thấy con lai đã thừa hưởng
được những đặc tính tốt từ bố, hoặc mẹ, hoặc cả
hai.
Bảng 3. Ảnh hưởng của Glucose lên tốc độ phát triển hệ sợi (µm/giờ)
Nồng độ glucose (g/l) Chủng 10 15 20 25 30 35
Len 003 65,08±2,98 67,83±1,78 68,92±0,99 69,97±2,26 73,56±2,51 71,35±2,97
Len 009 185,80±1,13 191,74±1,02 195,44±1,16 185,80±1,41 174,69±2,35 164,08±1,53
Len 003-
009 187,83±1,51 198,25±1,50 204,31±2,06 188,45±1,58 183,16±1,45 176,90±1,41
Ảnh hưởng của peptone lên sự phát triển hệ sợi
Nitơ là nguồn dinh dưỡng không thể thiếu
trong quá trình tổng hợp nguyên sinh chất và
xây dựng cấu trúc nấm hương. Quá nhiều hay
quá ít nitơ cũng đều ảnh hưởng đến sự phát triển
hệ sợi và quả thể nấm. Nghiên cứu của Chen
(2005) [1] cho rằng tỷ lệ C/N cơ chất thích hợp
cho quá trình phát triển hệ sợi nấm hương nên
TẠP CHÍ SINH HỌC 2014, 36(1se): 158-164
162
dao động trong khoảng 17/1 đến 40/1. Ảnh
hưởng của nguồn đạm peptone lên sự phát triển
hệ sợi được chỉ ra ở bảng 4, hình 5 và 7d. Theo
đó tốc độ phát triển cao nhất của con lai Len
003-009 nuôi cấy trên môi trường PGA có bổ
sung 1 g/l peptone, đạt 203,68 µm/giờ và cao
hơn so với đối chứng (198,68 µm/giờ). So sánh
các nồng độ còn lại với đối chứng cho thấy, nếu
bổ sung vào môi trường trên 1 g peptone, sự
phát triển của hệ sợi sẽ giảm xuống đáng kể.
Nhu cầu về đạm peptone của chủng lai tương tự
của chủng bố mẹ Len 009 (hệ sợi phát triển cao
nhất khi có 1g peptone trong một lít môi trường
PGA) nhưng khác biệt rõ ràng so với chủng bố
mẹ Len 003. Quá trình phát triển của hệ sợi
chủng hoang dã Len 003 cần bổ sung một lượng
đạm cao gấp đôi của các chủng kia để nó có thể
phát triển đến mức cao nhất (từ 74,06 µm/giờ
khi bổ sung 1 g peptone đến 79,15 µm/giờ
khi bổ sung 2 g peptone). Nồng độ peptone tăng
cao đều làm giảm tốc độ phát triển của cả ba
chủng.
Bảng 4. Ảnh hưởng của peptone lên tốc độ phát triển hệ sợi (µm/giờ)
Nồng độ Pepton (g/l) Chủng
Đối chứng 1 2 3 4 5
Len 003 71,10±0,93 74,06±1,47 79,15±1,03 69,22±1,06 62,15±2,92 60,07±5,47
Len 009 196,74±2,27 202,74±2,53 122,72±3,48 103,59±3,91 99,48±2,26 92,36±1,32
Len 003-
009 198,68±2,77 203,68±2,42 121,92±2,58 102,99±3,52 98,68±1,47 93,24±1,41
Hình 5. Hệ sợi nấm trên môi trường có nồng độ
peptone tối ưu sau 144 giờ
Hình 6. Hệ sợi nấm trên môi trường PGA
sau 144 giờ
a. Len 003; b. Len 009; c. Len 003-009. a. Len 003; b. Len 009; c. Len 003-009.
Ảnh hưởng của cao nấm men lên sự phát
triển hệ sợi
Bảng 5, hình 6 và 7e cho thấy, chủng lai
Len 003-009 cũng như bố mẹ không thích hợp
phát triển trên môi trường có nguồn đạm từ cao
nấm men. Sự phát triển hệ sợi của các chủng
này khi nuôi cấy trên môi trường có bổ sung cao
nấm men từ 1 cho đến 5 g đều thấp hơn khi nuôi
cấy trên môi trường đối chứng (PGA). Nguồn
cao nấm men càng cao càng ức chế sự sinh
trưởng của ba chủng. Đặc biệt, tốc độ phát triển
của chủng lai Len 003-009 trên môi trường có
cao nấm men thấp hơn nhiều khi nuôi cấy trên
môi trường không có nguồn đạm này. Cụ thể, sự
phát triển của hệ sợi giảm từ 198,68 xuống chỉ
còn 78,13 µm/giờ khi bổ sung vào môi trường
1g cao nấm men. Hệ sợi tiếp tục giảm theo
chiều tăng của lượng đạm nấm men được bổ
sung vào môi trường nuôi cấy. Kết quả này chỉ
có thể cho thấy cả ba chủng nghiên cứu đều
không có nhu cầu về đạm cao nấm men. Việc
xác định tổ hợp lai có hay không thừa hưởng
đặc tính của bố mẹ dựa trên khảo sát này là
chưa thể kết luận được.
Pham Nu Kim Hoang et al.
163
Bảng 5. Ảnh hưởng của cao nấm men lên tốc độ phát triển hệ sợi (µm/giờ)
Nồng độ Cao nấm men (g/l) Chủng
Đối chứng 1 2 3 4 5
Len 003 71,10±0,93 59,59±3,77 46,49±3,42 41,86±2,49 28,47±0,95 17,88±1,32
Len 009 196,74±2,27 188,90±2,18 164,41±3,88 136,46±2,56 121,30±4,26 74,48±0,73
Len 003-
009 198,68±2,77 78,13±3,01 65,04±2,84 60,43±1,61 57,74±1,71 49,06±2,44
KẾT LUẬN
Phương pháp lai bắt cặp giữa dòng đơn
nhân và đa nhân đã loại bỏ các đột biến có hại
của bố mẹ, tạo nên con lai có tốc độ sinh trưởng
nhanh hơn hay bằng chủng bố mẹ. Con lai có
tốc độ phát triển cao nhất trong thí nghiệm ảnh
hưởng của nhiệt độ và glucose (lần lượt là
202,47 và 204,31 µm/giờ); phát triển tương tự
chủng thương mại trong các thí nghiệm về pH
(191 µm/giờ), pepton (203 µm/giờ) và cao nấm
men (196-198 µm/giờ). Trong khi đó chủng
hoang dã phát triển với tốc độ thấp nhất ở tất cả
các thí nghiệm.
Chủng lai phát triển tối ưu trong khoảng 24-
27oC (201-202 µm/giờ), pH=5-6, nồng độ
glucose và peptone lần lượt là 20g/l (204,31
µm/giờ) và 1 g/l (203,68 µm/giờ). Ở 24oC cũng
là mức phát triển tối ưu của chủng hoang dã,
trong khi 27oC là mức tối ưu của chủng thương
mại. Tương tự, con lai phát triển cao nhất ở cả
hai mức pH, một mức tương tự Len 009
(pH=5), một tương tự Len 003 (pH=6). Khi bổ
Hình 7. Ảnh hưởng của nhiệt độ (a),
pH (b), glucose (c), peptone (d)
và cao nấm men (e) lên sự phát triển
hệ sợi của ba chủng nấm hương
TẠP CHÍ SINH HỌC 2014, 36(1se): 158-164
164
sung đạm cao nấm men, tốc độ phát triển của
con lai lẫn bố mẹ chậm hơn hẳn so với khi
không bổ sung.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Chen A. W., 2005. What is Shiitake. In:
Free from Poverty - Mushroom Growers'
Handbook 2 - Shiitake Cultivation. Mush
World, Seoul, Korea, pp. 1-11.
2. Lê Hoàng Phương Lê, Đỗ Thị Thiên Lý, Lê
Huyền Ái Thúy, Trương Bình Nguyên,
2010. Nghiên cứu một số đặc điểm sinh học
của chủng nấm hương Lentinula edodes
hoang dã, mới phát hiện tại núi Langbian,
Đà Lạt. Tạp chí Công nghệ sinh học, 8(3B):
1397-1404.
3. Miles P. G., 1996. Genetics and Breeding of
Mushrooms - from Bensaude and Kniep to
Molecular Genetics. In: Royse D. J. (ed.)
Mushroom Biology and Mushroom
Products, Pennsylvania, USA pp. 11-23.
4. Schwantes H. O., Salttler P. W., 1971.
Methoden zur Messung der
Wachstumsgeschwindigkeit von
Pilzmycelien. Oberhess. Naturwiss.
Zeitschr., 38: 5-18.
5. Tanaka A., Miyazaki K., Murakami H.,
Shiraishi S., 2004. Sequence characterized
amplified region markers tighly linked to
the mating factors of Lentinula edodes.
Genome, 47(1): 156-162.
6. Tokimoto K., Kawai A., 1998. Effect of the
physical properties of Lentinula edodes
bedlogs on fruiting body production.
Mycoscience, 39: 217-219.
7. Yoshida T., Taguchi H., Teramoto S., 1968.
Studies on submerged culture of
Basidiomycetes. V. On sugar metabolism of
Shiitake (Lentinus edodes). J. Ferment.
Technol., 46: 125-131.
A STUDY ON BIOLOGICAL CHARACTERISTICS OF HYBRID
OF Lentinula edodes FROM A WILDSTRAIN (LANGBIANG MOUNTAIN,
LAM DONG) AND A COMMERCIAL ONE (JAPAN)
Pham Nu Kim Hoang1, Truong Binh Nguyen1, Le Xuan Tham2,
Phan Huu Hung1, Hoang Ngoc Anh1, Do Thi Thien Ly1
1Tay Nguyen Institute for Scientific Research, VAST
2Lam Dong Department of Science and Technology
SUMMARY
Lentinula edodes is a favorable edible mushroom in the world. Its successful cultivation requires not only
good and high yield strains but also the appropriate nutrient sources and environmental conditions. A hybrid
strain (Len 003-009) is the result of the mating between a commercial strain (Japan) (Len 009) and a wild one
(Langbiang mountain, Lam Dong) (Len 003). Studying some biological characteristics of the hybrid showed
that its growth rate was similar to or quicker than that of the commercial strain and about twice as rapid as
that of the wild one. The hybrid also represented some heredity characteristics from its parents. In addition,
the optimal growth of the hybrid and the commercial strain were similar with the temperature from 24 to 27
degree Celsius, the concentration of glucose and peptone being 20 g/l and 1 g/l, respectively. Moreover, its
parents could only optimally grow at the different levels of pH (pH=5 in Len 009 and pH=6 in Len 003),
while the hybrid could do that in both mentioned levels. Again, this showed good characteristics of hybrid got
from its parents. All strains did not have any demand for yeast extract during their growth and development.
Thus, it could not evaluate whether there was any inheritance from its parents or not from this experiment.
Keywords: Lentinula edodes, yeast extract, hybrid strains, Lam Dong.
Ngày nhận bài: 15-7-2013
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 4388_15664_1_pb_7047_3396_2017902.pdf