Thực tiễn hoạt động của nhóm lợi ích ở Việt Nam không cân bằng, nghiêng lệch về các
nhóm lợi ích có thế mạnh về kinh tế và quan hệ đã tạo ra nhận thức phiến diện về nhóm lợi ích
và hoạt động của nhóm lợi ích. Theo nghĩa này, ngăn chặn lợi ích nhóm là kiểm soát việc một
số nhóm lợi ích thao túng, lợi dụng chính sách nhằm đảm bảo công bằng xã hội là cần thiết về
mặt thực tiễn ở Việt Nam hiện nay.
Bạn đang xem nội dung tài liệu Nghiên cứu lợi ích nhóm và vấn đề nhóm lợi ích ở Việt Nam hiện nay, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Khoa học Xã hội và Nhân văn, Tập 30, Số 1 (2014) 1-10
1
NGHIÊN CỨU
Lợi ích nhóm và vấn đề nhóm lợi ích
ở Việt Nam hiện nay
Hoàng Văn Luân*
Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn - Đại học Quốc gia Hà Nội,
336 Nguyễn Trãi, Thanh Xuân, Hà Nội, Việt Nam
Nhận ngày 05 tháng 11 năm 2013
Chỉnh sửa ngày 30 tháng 1 năm 2014; Chấp nhận đăng ngày 12 tháng 3 năm 2014
Tóm tắt: Lợi ích nhóm và nhóm lợi ích xuất hiện nhiều trên các phương tiện truyền thông ở Việt
Nam cũng như những tạp chí khoa học với nhiều cách tiếp cận khác nhau.
Hạn chế về mặt thể chế và hành lang pháp lý liên quan đến hoạt động của nhóm lợi ích ở Việt Nam
đã tạo ra sự bất bình đẳng giữa các nhóm lợi ích. Điều đó làm nảy sinh một số quan điểm chưa
toàn diện về nhóm lợi ích, coi rằng nhóm lợi ích mang tính tiêu cực.
Bài viết chứng minh nhóm lợi ích và hoạt động của nó là một tất yếu khách quan và nếu được quản
trị tốt, sẽ thúc đẩy tiến bộ và công bằng xã hội cũng như nâng cao hiệu lực, hiệu quả của quá trình
chính sách công.
Từ khóa: Nhu cầu, lợi ích, lợi ích nhóm, nhóm lợi ích, lợi ích công.
Dẫn nhập∗
Trong những năm gần đây, vấn đề lợi ích
nhóm xuất hiện nhiều trên trên các phương tiện
truyền thông Việt Nam. Lợi ích nhóm còn đang
được hiểu ở nhiều khía cạnh khác nhau song đa
phần, lợi ích nhóm đang được nhìn nhận, đánh
giá theo nghĩa tiêu cực, nhất là trên phương
diện tuyên truyền(1) và các mạng xã hội. Vậy,
_______
∗
ĐT: 84-903264951
E-mail: luanhv@vnu.edu.vn
(1)
“Một trong những trở ngại lớn nhất cho phát triển kinh
tế bền vững, ổn định xã hội nước ta hiện nay là sự hiện
hữu lợi ích nhóm. Tại buổi tiếp xúc với cử tri Hải Phòng
ngày 4-12, trước sự bức xúc của người dân, Thủ tướng
Nguyễn Tấn Dũng cam kết “kiên quyết ngăn chặn lợi ích
nhóm lợi ích và lợi ích nhóm là gì? Về mặt
khoa học, hoạt động của nhóm lợi ích có vai trò
gì trong thúc đẩy tiến bộ và công bằng xã hội?
Lợi ích nhóm là một hiện tượng xã hội
mang tính tất yếu khách quan có quy luật vận
động vốn có của nó giống như những quy luật
nhóm để đảm bảo sự công bằng xã hội”. Đây không phải
là lần đầu tiên người đứng đầu Chính phủ bày tỏ sự lo ngại
về vấn đề này. Trước đó, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng
đã nêu đích danh lợi ích nhóm tại Hội nghị Trung ương 3
(khóa XI) ngày 10-10-2011 và tiếp đó (tháng 11-2011) các
đại biểu Quốc hội đã chỉ rõ hơn về lợi ích nhóm và tác hại
của nó”. Xem Lê Quang: Lợi ích nhóm, Tạp chí Xây dựng
Đảng, số 1/2013 tại
px?mid=57&mzid=448&ID=1058, truy cập ngày
17/10/2013.
H.V. Luân / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Khoa học Xã hội và Nhân văn, Tập 30, Số 1 (2014) 1-10
2
xã hội khác. Về mặt khoa học và kinh nghiệm ở
một số quốc gia, hoạt động của nhóm lợi ích
thực sự góp phần thúc đẩy tiến bộ và công bằng
xã hội.
1. Lợi ích và lợi ích nhóm
Lợi ích xuất hiện từ nhu cầu (Lê Hữu Tầng,
1997), gắn liền với phân công lao động xã hội
và sở hữu, nhất là sở hữu tư nhân tư liệu sản
xuất. Phân công lao động xã hội tạo ra hiện
tượng mỗi người chỉ lao động trong một lĩnh
vực cụ thể(2). Do đó, mỗi cá nhân lao động
không tạo ra sản phẩm hay tư liệu trực tiếp thỏa
mãn mọi nhu cầu của mình(3). Mục đích của lao
động là tìm kiếm phương tiện trung gian(4) để
trao đổi nhằm thỏa mãn nhu cầu. Trong quan hệ
trao đổi đó, lợi ích xuất hiện. Do đó, lợi ích trước
hết là một quan hệ xã hội (Nguyễn Linh Khiếu
(1999). Xét về mặt giá trị, lợi ích là phần giá trị
nhu cầu hay mức độ nhu cầu được thỏa mãn
thông qua hoạt động trao đổi với các chủ thể nhu
cầu khác (Hoàng Văn Luân, 2011). Đến lượt nó,
theo K. Marx, lợi ích lại là cái liên kết các thành
_______
(2)
K. Marx: ”Một khi bắt đầu có phân công lao động thì
mỗi người có một phạm vi hoạt động nhất định và độc
chuyên mà người đó buộc phải nhận lấy và không thể
thoát ra được (Nhấn mạnh - HVL). Người đó là người đi
săn, người đánh cá, hoặc người chăn nuôi, hoặc là nhà phê
phán có tính chất phê phán, và người đó vẫn cứ phải làm
như thế nếu không muốn mất đi những tư liệu sinh hoạt
của mình”. C. Mác - Ph. Ăngghen: Toàn tập, t. 2. Nhà xuất
bản CTQG HN., 1995, tr. 47).
(3)
Chỉ trong nền kinh tế tự cung tự cấp, mỗi gia đình đều
lao động để tạo ra những sản phẩm, tư liệu thỏa mãn nhu
cầu của mình: trồng trọt, chăn nuôi, dệt vải, v.v.. Nhưng
đây chỉ là một biểu hiện hay một giai đoạn của lịch sử sản
xuất.
(4)
Phương tiện trung gian có thể là hiện vật trong nền kinh
tế hiện vật và có thể là tiền tệ trong nền kinh tế hàng hóa.
K. Marx: “Đối với anh ta, ý nghĩa của 12 giờ lao động
không phải ở chỗ dệt, kéo sợi, khoan, v.v.. mà là ở chỗ: đó
là những phương thức kiếm được tiễn khiến cho anh ta có
thể ăn, đi quán rượu, ngủ...” Xem C. Mác - Ph. Ăngghen:
Toàn tập, t. 6. Nhà xuất bản CTQG HN., 1993, tr. 543.
viên của xã hội lại với nhau(5). Lợi ích và quan hệ
lợi ích quyết định tính chất và xu hướng vận động
của các quan hệ xã hội - mà thực chất là quan hệ
giữa các chủ thể lợi ích. Lịch sử cho thấy, những
vấn đề đấu tranh hay liên minh giữa các giai tầng
xã hội, sự hình thành và mất đi của các tổ chức xã
hội đều nảy sinh từ những tính chất cụ thể của
quan hệ lợi ích. Mâu thuẫn giữa tư sản và vô sản
(K. Marx) hay xung đột trong quan hệ quản lý
(F.W. Taylor) có nguyên nhân từ quan hệ lợi ích
giữa tư sản và vô sản hay giữa giới chủ và người
làm thuê. Liên minh công - nông, với tính cách là
nhóm lợi ích nảy sinh từ sự thống nhất về lợi ích
của hai giai cấp này trong cách mạng vô sản.
Theo K. Max, trong quá trình hoạt động xã
hội, các chủ thể trước hết đều là vì nhu cầu và
lợi ích của mình(6). Và do lợi ích của mình mà
liên kết hay đấu tranh với các chủ thể lợi ích
_______
(5)
K. Marx: “Nhưng vì nhu cầu của mỗi cá nhân riêng biệt
không có một ý nghĩa hiển nhiên nào đối với một cá nhân
vị kỷ khác có tư liệu thảo mãn nhu cầu đó; nghĩa là không
có quan hệ trực tiếp nào với sự thỏa mãn nhu cầu, nên mỗi
cá nhân đều buộc phải xây dựng mối quan hệ đó bằng
cách là đến lượt mình lại làm kẻ môi giới giữa nhu cầu của
người khác với đổi tượng (tư liệu thỏa mãn - HVL) của
nhu cầu đó. Như vậy, chính tính tất yếu tự nhiên, chính
đặc tính của con người, mặc dù chúng biểu hiện thành
hình thức tha hóa như thế nào đi nữa, chính lợi ích là cái
liên kết các thành viên của xã hội thị dân lại với nhau”. C.
Mác - Ph. Ăngghen: Toàn tập, t. 2. Nhà xuất bản CTQG
HN, 1995, tr. 183).
(6)
K. Marx: “Mỗi cảm giác của anh ta đều buộc anh ta
phải tin ở sự tồn tại của thế giới và của các cá nhân khác
bên ngoài anh ta. Thậm chí cái dạ dày tội lỗi của anh ta
cũng hàng ngày nhắc nhở anh ta rằng thế giới bên ngoài
anh ta không phải là trống rỗng, mà trái lại thực sự là cái
nhét đầy dạ dày của anh ta. Mỗi hoạt động của bản chất
của anh ta, mỗi đặc tính của anh ta, mỗi bản năng sinh học
của anh ta đầu trở thành một nhu cầu, biến tính tự yêu
mình của anh ta thành sự yêu thích của anh ta đối với sự
vật khác và những người khác ở bên ngoài anh ta”. C. Mác
- Ph. Ăngghen: Toàn tập, t.2. Nhà Xuất bản CTQG H.,
1995, tr. 283.
F.W. Taylor - cha đẻ của Thuyết quản lý theo khoa học
cũng xuất phát từ mệnh đề con người kinh tế (man is a
rational economic animal) để xây dựng học thuyết quản lý
của mình. Xem: Principles of Scientific Management,
Frederick Winslow Taylor (1911) tại Truy cập ngày
17/10/2013.
H.V. Luân / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Khoa học Xã hội và Nhân văn, Tập 30, Số 1 (2014) 1-10 3
khác. Nhóm lợi ích và xung đột lợi ích là những
biểu hiện cụ thể của những hoạt động, tác động
đa chiều đó.
Nhóm lợi ích, hiểu một cách chung nhất, là
tập hợp các cá nhân có chung một hay nhiều lợi
ích hoạt động theo một cơ chế nhất định nhằm
đạt được hoặc gia tăng lợi ích chung của họ.
Theo nghĩa đó, nhóm lợi ích không phải là một
hiện tượng xa lạ ở Việt Nam. Sự ra đời rất sớm
của các tổ chức như Liên đoàn lao động, Hội
Nông dân(7) và các hội nghề nghiệp - xét về
nguồn gốc và bản chất - là minh chứng cho sự
tồn tại của các nhóm lợi ích của người lao động,
nhóm lợi ích của nông dân, nhóm lợi ích của
những người trong từng nghề tương ứng với hội
nghề nghiệp của nghề đó.
Vào những năm 1980, kinh tế - xã hội Việt
Nam đình đốn, trì trệ và đứng trước bờ vực
của khủng hoảng. Về mặt lý luận, nhu cầu
nghiên cứu tổng kết thực tiễn nhằm tìm ra
hướng đi mới, động lực mới cho sự phát triển
trở nên cấp thiết. Đây cũng là thời kì xuất hiện
nhiều công trình nghiên cứu về lợi ích và sự
kết hợp các lợi ích, nhất là lợi ích kinh tế [1],
trong đó có tiếp cận lợi ích theo chủ thể: Lợi
ích cá nhân - lợi ích tập thể - lợi ích xã hội.
Theo tiếp cận này, lợi ích tập thể với tính cách
là lợi ích của cán bộ, nhân viên của một nhà
máy, xí nghiệp nhất định, là một hình thức của
lợi ích nhóm và tập thể cán bộ, nhân viên đó là
nhóm lợi ích.
Tuy nhiên, cùng với sự hội nhập cả về thực
tiễn và nhận thức khoa học, thực tế hoạt động
của nhóm lợi ích ở Việt Nam giai đoạn suy
thoái kinh tế từ năm 2009 đến nay, nhóm lợi ích
cần được hiểu một cách cụ thể và phù hợp với
_______
(7)
Tổng liên đoàn lao động Việt Nam có tiền thân là Công
hội đỏ được thành lập năm 1929. Hội Nông dân Việt Nam
có tiền thân từ Nông hội đỏ (1926 - 1929), Nông hội
(tháng 3 năm 1937), v.v Hiệp hội Thép Việt Nam
(VSA) thành lập ngày 6 tháng 8 năm 2001, v.v
thực tiễn hơn, đặc biệt là khía cạnh tác động,
ảnh hưởng đến chính sách(8) của nhóm lợi ích.
Nhóm lợi ích (Interest group) là các tổ chức
được hình thành một cách tự nguyện tìm cách
tạo ra lợi thế cho việc thực hiện lợi ích của nó(9)
bao gồm các công ty, tổ chức từ thiện, các
nhóm dân sinh, các hiệp hội nghề nghiệp, hiệp
hội thương mại, v.v... Nhóm lợi ích xuất hiện ở
Đức, Hoa Kỳ và sau đó phổ biến ở các xã hội
công nghiệp phương Tây. Lịch sử hình thành
này được chia thành 4 giai đoạn:
Giai đoạn tiền công nghiệp (1830 - 1870),
nhóm lợi ích xuất hiện như những tổ chức từ
thiện hỗ trợ người nghèo. Thành viên của nhóm
này là những người thuộc tầng lớp trung lưu.
Giai đoạn hai (1860 - đầu những năm
1900) tương ứng với quá trình công nghiệp hóa,
nhóm lợi ích mang nhiều dấu ấn của giai tầng
xã hội như tổ chức công đoàn (nhóm lợi ích của
công nhân) và các tổ chức của người sử dụng
lao động. Thời kỳ này các tổ chức của nông dân
cũng được thành lập nhiều nhằm đại diện cho
lợi ích của nông dân.
Giai đoạn 3 - giai đoạn xã hội công nghiệp
(sau năm 1920 đến những năm 1950), các nhóm
lợi ích với tính cách là hội nghề nghiệp xuất
hiện phổ biến.
Giai đoạn 4 - giai đoạn hậu công nghiệp
xuất hiện các nhóm lợi ích bảo vệ cho những lợi
ích hậu công nghiệp như môi trường, quyền con
người, v.v...[2].
Như đã đề cập, hoạt động của con người là
để thỏa mãn nhu cầu, để chiếm lĩnh lợi ích và
_______
(8)
Thường được gọi là vận động hành lang, vận động
chính sách (lobby).
(9)
Trong cuốn The Interest Group Society, Nhà Xuất bản
Clyde Wincox, tái bản lần 5, năm 2009, Jeffrey Berry cho
rằng Nhóm lợi ích là tổ chức của những cá nhân có chung
mục tiêu và cố gắng tác động, gây ảnh hưởng đến chính
sách công (An interest group is an organized body of
individuals who share some goals and who try to influence
public policy).
H.V. Luân / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Khoa học Xã hội và Nhân văn, Tập 30, Số 1 (2014) 1-10
4
qua đó sáng tạo ra lịch sử(10) thì việc các chủ thể
lợi ích tự nguyện hợp sức với nhau nhằm bảo
vệ và hơn nữa là củng cố, làm gia tăng lợi ích
của họ cũng là một tất yếu lịch sử. Xuất phát từ
lợi ích của mình và khát vọng không ngừng làm
gia tăng lợi ích của mình, trong những trường
hợp nhất định, các chủ thể lợi ích cần và phải
liên kết với nhau thành nhóm lợi ích theo
nguyên lý tính trội của hệ thống(11).
Sự xuất hiện của nhóm lợi ích là một tất yếu
khách quan, phản ánh sự đa dạng của lợi ích và
các quan hệ lợi ích của đời sống xã hội. Xã hội
càng phát triển, quá trình đa dạng và phức tạp
hóa của lợi ích và các quan hệ lợi ích càng diễn
ra nhanh chóng và có thể vượt trước sự điều
tiết, điều chỉnh của nhà nước thông qua công cụ
pháp luật và chính sách hiện hành(12). Do đó,
các nhóm lợi ích cần có tiếng nói, có tác động
đến các nhà hoạch định để kịp thời điều chỉnh
chính sách nhằm hợp thức, hợp pháp hóa lợi ích
của họ.
2. Nhóm lợi ích ở một số quốc gia
Ở một số quốc gia như Canada, Đức, đặc
biệt là Hoa Kỳ, nhóm lợi ích và hoạt động của
_______
(10)
K. Marx: “Người ta phải có khả năng sống đã rồi mới có
thể “làm ra lịch sử”. Nhưng muốn sống được thì trước hết cần
phải có thức ăn, thức uống, nhà ở, quần áo và một vài thứ
khác nữa. Như vậy, hành vi lịch sử đầu tiên là việc sản xuất ra
những tư liệu để thỏa mãn những nhu cầu ấy, việc sản xuất ra
bản thân đời sống vật chất”. C. Mác - Ph. Ăngghen: Toàn tập,
t.3, Nhà Xuất bản CTQG H., 1995, tr. 40.
(11)
Gareth Morgan: “The visions, values, and sense of
purpose that bind an organization together can be used as
a way of helping every individual understand and absorb
the mission and challenge of the whole enterprise”.
(12)
Do tính độc lập tương đối, ý thức pháp luật và chính trị
(được hiểu chung là chính sách) với tính cách là những
yếu tố của ý thức xã hội thường lạc hậu hơn so với tồn tại
xã hội. Hơn nữa, từ ý thức pháp luật, ý thức về chính sách
đến việc xây dựng và thực thi một bộ luật, một chính sách
cũng thường có một độ trễ nhất định.
nhóm lợi ích được thừa nhận công khai như
một trong những kênh vận động chính sách
đồng thời ở góc độ khác lại là kênh phản biện
chính sách.
Sự đa dạng của các nhóm lợi ích ở Hoa Kỳ
có thể được phân thành một số loại cơ bản:
Nhóm lợi ích kinh tế (Nhóm lợi ích kinh doanh
- Business Interest Groups, Nhóm lợi ích nông
nghiệp - Agricultural Interest Groups, Nhóm
lợi ích người lao động - Labor interest groups,
v.v..); Nhóm lợi ích môi trường (Environmental
Groups như Sierra Club và Greenpeace); Nhóm
lợi ích công (Public-Interest Groups như Nader
Organizations, The League of Women Voters);
v.v.. Nhóm lợi ích hoạt động công khai. Họ có
thể thuê các chuyên gia vận động hành lang
nhằm trực tiếp hoặc gián tiếp gây ảnh hưởng
đến các chuyên gia hoạch định chính sách. Vận
động hành lang được điều chỉnh bởi Luật Vận
động hành lang(13) (The Federal Regulation of
Lobbying Act) ban hành năm 1946 và Luật sửa
đổi Luật Vận động hành lang (Lobbying
Disclosure Act) năm 1995. Hiệu quả vận động
của nhóm lợi ích phụ thuộc vào quy mô nhóm
(tài chính, đội ngũ chuyên gia, v.v), tính tổ
chức của nhóm, người lãnh đạo và kỹ thuật,
chiến thuật vận động của nhóm.
Về thực chất, hoạt động của nhóm lợi ích là
quá trình phản biện chính sách - một phương
thức hiệu quả của quá trình chính sách công
(hoạch định, tổ chức thực hiện chính sách, đánh
giá và điều chỉnh chính sách): Vận động chính
sách để có lợi cho nhóm lợi ích của mình đồng
thời có thể đưa ra những phân tích nhằm chỉ rõ
những bất hợp lý của những nhóm lợi ích khác
như một chiến thuật của vận động chính sách.
_______
(13)
Theo Luật này, các cá nhân, tổ chức vận động hành
lang được nhận tiền với mục đích gây ảnh hưởng đến các
nhà làm luật, các nhà hoạch định chính sách nhưng phải
đăng ký trước. Cá nhân, tổ chức vận động hành lang phải
có giấy phép vào phải có báo cáo công khai hàng quý về
hoạt động vận động của mình.
H.V. Luân / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Khoa học Xã hội và Nhân văn, Tập 30, Số 1 (2014) 1-10 5
Phản biện chính sách là xu hướng phổ biến,
tất yếu nhằm nâng cao tính hiệu lực và hiệu quả
của quá trình chính sách công. Tuy với phương
thức mang tính đặc thù(14), Việt Nam không
nằm ngoài tính phổ quát đó.
3. Vai trò của nhóm lợi ích
Xét từ góc độ triết học, hoạt động của các
nhóm lợi ích tạo ra sự cân bằng (sự thống nhất)
lợi ích của các nhóm và một cách có ý thức hay
không họ đang tạo ra lợi ích chung [3](15) và đó
là cơ sở của sự thống nhất trong hành động xã
hội. Ở một khía cạnh nhất định, hoạt động của
nhóm lợi ích góp phần tạo ra sự cân bằng, toàn
diện của quá trình chính sách. Nhờ đó, nhà
nước - cơ quan ban hành chính sách - mới thực
sự trở thành người đại diện cho các tầng lớp xã
hội và là trung tâm tạo ra sự thống nhất trong
hoạt động của toàn xã hội.
Cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX, các nước
phương Tây đều rơi vào căn bệnh trầm trọng:
mâu thuẫn giai cấp gay gắt, gần như không thể
điều hòa được. Phân tích mâu thuẫn này cùng
với những mâu thuẫn xã hội khác, V.I. Lenin đã
dự báo chủ nghĩa đế quốc là đêm trước của
cuộc cách mạng vô sản.
Chúng ta biết, cùng với sự gia tăng tính bạo
lực, tùy tiện trong quản lý của giới chủ là sự
hình thành và phát triển của các tổ chức nghiệp
_______
(14)
Khoản 2, Điều 2, Quyết định 97/2009/QĐ-TTg ghi rõ:
Nếu có ý kiến phản biện về đường lối, chủ trương, chính
sách của Đảng, Nhà nước cần gửi ý kiến đó cho cơ quan
Đảng, Nhà nước có thẩm quyền, không được công bố
công khai dưới danh nghĩa hoặc gắn với danh nghĩa của tổ
chức khoa học và công nghệ.
(15)
K. Marx: “Sức mạnh duy nhất ràng buộc họ với nhau
và đặt họ quan hệ với nhau là lòng vị kỷ, là điều lợi riêng,
là lợi ích tư nhân. Nhưng chính vì mỗi người chỉ lo cho
mình mà không lo cho người khác, cho nên tất cả bọn họ,
do một sự nhịp nhàng đã định trước của sự vật, hay do sự
che chở của một Thượng đế rất khôn khéo, đều chỉ làm
một công việc có lợi cho cả hai bên, cho điều lợi chung,
cho lợi ích chung”.
đoàn nhằm bảo vệ lợi ích của người lao động
làm thuê đã dẫn đến những cuộc đình công quy
mô lớn trong sản xuất công nghiệp ở các nước
phương Tây. F.W. Taylor gọi đó là xung đột
trong quan hệ quản lý - Xung đột giữa một bên
là giới chủ quản lý theo phương thức tùy tiện và
bạo lực hay còn gọi là quản lý bằng quả đấm(16)
và một bên là người làm thuê lãn công, biểu
tình, đập phá máy móc hay còn gọi là hành
động lính tráng một cách có hệ thống(17). Đứng
trước hiện tượng này, các chính phủ buộc phải
ban hành các luật về lao động(18) buộc giới chủ
phải đảm bảo lợi ích tối thiểu của người lao
động. Sự điều chỉnh chính sách công cùng với
sự thay đổi trong phương pháp quản lý(19) của
giới chủ đã phần nào giải quyết được xung đột
trong quan hệ quản lý tạo điều kiện để công
nghiệp tiếp tục phát triển.
Ở các quốc gia khi hoạt động của các nhóm
lợi ích còn hạn chế là nguyên nhân dẫn đến lợi
ích công không được quan tâm thỏa đáng, dẫn
đến hiện tượng “tranh chấp lợi ích công”(20).
Indonesia là quốc gia phụ thuộc chủ yếu vào
nhiên liệu hóa thạch (dầu mỏ). Những cảnh báo
về nguy cơ cạn kiệt nguồn nhiên liệu này cùng
với nhu cầu sử dụng nhiên liệu sinh học ngày
càng tăng của thị trường thế giới đã thúc đẩy
chính phủ khuyến khích mạnh mẽ đầu tư
trồng dầu cọ (đơn giản hóa thủ tục cấp phép
đầu tư, trợ cấp, giảm thuế, bắt buộc sử dụng
nhiên liệu sinh học, hỗ trợ và đến bù thu hồi
đất, v.v). Những chính sách này đã tạo ra
_______
(16)
Tiếng Anh: The rule of thump.
(17)
Tiếng Anh: Systematic soldiering.
(18)
Luật Lao động Anh (Employers and Workmen Act)
năm 1875, Luật Tiêu chuẩn lao động (The Fair Labor
Standards Act) của Hoa Kỳ năm 1938.
(19)
F.W. Taylor (1856 - 1915) - cha đẻ của thuyết quản lý
theo khoa học, được đánh giá là người mở ra kỷ nguyên
vàng trong quản lý của Mỹ vào những năm đầu của thế kỷ
XX.
(20)
Nguyên nghĩa tiếng Anh: Public interest litigation.
Xem Po Jen Yap và Holning Lau (2011): Public Interest
Litigation in Asia, Nhà xuất bản Routledge.
H.V. Luân / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Khoa học Xã hội và Nhân văn, Tập 30, Số 1 (2014) 1-10
6
sự gia tăng nhanh chóng diện tích đất trồng
dầu cọ của Indonesia(21). Quá trình này không
chỉ đồng thời làm mất đi một lượng lớn đất
rừng tự nhiên, phá vỡ đa dạng sinh học mà
còn làm gia tăng phát thải CO2(22) gây hậu
quả nghiêm trọng về môi trưởng, ảnh hưởng
trực tiếp đến lợi ích công. Với diện tích rừng
nhiệt đới lớn thứ 3 thế giới và tốc độ phá
rừng để trồng dầu cọ điển hình như ở
Lalimantan(23), Indonesia cũng là một trong
những nước phát thải các khí nhà kính lớn
nhất thế giới. Ở đây, chúng ta thấy trong cuộc
đấu tranh giữa cơ sở trồng dầu cọ và người
dân bản địa, các cơ sở trồng dầu cọ luôn
chiếm ưu thế nhờ sự trợ giúp của thể chế với
các biện minh về tăng trưởng kinh tế, tạo việc
làm, v.v.. Chương trình Dầu cọ bền vững chỉ
có được khi có sự lên tiếng và ủng hộ của
khách hàng lớn khi họ có những yêu cầu
nghiêm ngặt về các tiêu chuẩn xã hội và môi
trường(24) của sản phẩm.
_______
(21)
Theo Tổ chức lương thực thế giới (2008), năm 2006
Indonesia có 4,1 triệu ha đất rừng tròng dầu cọ thì đến
năm 2008, con số này đã đạt 7,9 triệu ha.
(22)
Rừng nhiệt đới có đất giầu than bùn. Nó chỉ ổn định
khi hoàn toàn bị ngập nước khi còn rừng nhiệt đới. Khi
rừng nhiệt đới bị phá để trồng dầu cọ (một loại cây ít có
khả năng giữ nước), sẽ xảy ra tình trạng khô hạn. Khi đó,
oxy đi vào than bùn, gây ra quá trình phân hủy vi sinh vật
rất nhanh chóng và giải phóng lượng khí CO2 khổng lồ
vào khí quyển.
(23)
Kalimantan thuộc đảo Borneo - nơi có nhiều rừng
nhiệt đới và đất giầu than bùn. Theo Kimberly M. Carlson,
Lisa M. Curran, Gregory P. Asner, Alice McDonald
Pittman, Simon N. Trigg và J. Marion Adeney (Carbon
emissions from forest conversion by Kalimantan oil palm
plantations, Nature Climate Change, tháng 7 năm 2012),
từ năm 1990 - 2010, diện tích trồng dầu cọ trên toàn
Kalimantan đã lên tới 538.346 km2.
(24)
Năm 2010, hai khách mua dầu cọ lớn nhất của
Indonesia là Nestlé và Unilever, đã đình chỉ hợp đồng mua
hàng khi nhà cung cấp địa phương bị cáo buộc là có liên
quan đến việc phá rừng để mở rộng diện tích trồng dầu cọ.
Các khách hàng lớn khác từ Liên minh châu Âu cũng đã
cam kết từ năm 2015 trở đi sẽ chỉ nhập dầu cọ của
Indonesia theo CSPO (Certified Scrum Product Owner).
Để bảo vệ lợi ích của mình, các nhóm lợi
ích thường có những tác động đến việc hoạch
định và thực thi chính sách của nhà nước thông
qua vận động chính sách. Vận động chính sách
từ cả các nhóm lợi ích liên quan và thêm vào đó
là phản biện chính sách của các tầng lớp dân cư
khác giúp các nhà hoạch định và thực thi chính
sách có cái nhìn sâu hơn và đa chiều hơn về các
loại lợi ích của chính sách. Kết quả hiển nhiên
là những chính sách đó mang tính toàn diện,
khả thi hơn và có thể đi vào cuộc sống.
Hơn nữa, sự tham gia của các nhóm lợi ích
vào quá trình chính sách nâng cao hiệu quả của
chính sách thông qua việc cung cấp các thông
tin mà các chuyên gia hoạch định chính sách -
với tính cách là một hoặc một số cá nhân cụ thể
luôn hữu hạn về thông tin và năng lực. Thông
tin từ nhóm lợi ích có thể là thông tin thuộc các
lĩnh vực cụ thể cũng có thể là các thông tin
mang tính chuyên gia. Trừ khi các nhà hoạch
định chính sách không muốn hoặc cố tình
không biết(25), các thông tin từ nhóm lợi ích
chắc chắn là những thông tin tham khảo bổ ích
cho quá trình chính sách. Do đó, dưới góc độ
này, hoạt động của nhóm lợi ích góp phần hoàn
thiện hệ thống chính sách công của quốc gia.
Mặc dù có những đặc thù cụ thể song hầu
hết các quốc gia phát triển đều thừa nhận sự tồn
_______
(25)
Việc quyết định xây dựng Nhà máy thủy điện
Xayaburi (Lào) là một dẫn chứng điển hình. Rộng 800
nghìn km vuông, lưu vực sông Mê Công là nguồn cá đất
liền lớn nhất trên thế giới, và là nơi sinh sống của 65 triệu
người từ 6 quốc gia: Myanmar, Trung Quốc, Lào, Thái
Lan, Việt Nam, và Cambodia. “Đa số cư dân là người
nghèo, 81% nguồn protein trong dinh dưỡng của họ là từ
cá sông (Guy Ziv - Giáo sư môi trường Đại học Stanford,
California, Hoa Kỳ, 2012). Ngoài ra, với kết quả nghiên
cứu của mình, Guy Ziv cũng cho rằng những con đập thủy
điện trên những nhánh sông Mê Công có thể gây thiệt hại
nhiều hơn. Tuy nhiên, trong báo cáo cuối cùng về dự án
(Feasibility Study Xayaburi Hydroelectric Power Project,
Lao DPR - Final Report) của Công ty Ch. Karnchang,
Thái Lan (Ch. Karnchang Public Company Limited) -
Công ty lập dự án và kí hợp đồng xây dựng, chuyển giao
đã không đề cập đến thiệt hại này và Chính phủ Lào cũng
chỉ căn cứ vào Báo cáo này để quyết định.
H.V. Luân / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Khoa học Xã hội và Nhân văn, Tập 30, Số 1 (2014) 1-10 7
tại và hoạt động của các nhóm lợi ích và có các
quy phạm pháp luật để điều chỉnh hoạt động
của các nhóm lợi ích(26).
Như vậy, nhóm lợi ích là một hiện tượng
khách quan, là kết quả tự nguyện tập hợp của
các cá nhân có cùng lợi ích. Dù được thừa
nhận hay không thừa nhận, các nhóm lợi ích
thường có những tác động, ảnh hưởng đến
quá trình chính sách nhằm đảm bảo, thậm chí
làm gia tăng lợi ích của nhóm. Ở một khía
cạnh nhất định, hoạt động của nhóm lợi ích
góp phần tạo ra sự cân bằng, toàn diện của
quá trình chính sách. Nhờ đó, nhà nước - cơ
quan ban hành chính sách - mới thực sự trở
thành người đại diện cho các tầng lớp xã hội
và là trung tâm tạo ra sự thống nhất trong
hoạt động của toàn xã hội.
Nhà nước là nhà nước của dân, do dân và
vì dân là nhà nước mà ở đó, người dân có
quyền tham gia vào công việc của nhà nước(27).
Do đó, hoạt động của các nhóm lợi ích phần nào
thể hiện vai trò của các tầng lớp, cộng đồng,
nhóm xã hội vào quá trình chính sách của nhà
nước. Theo R. Allen Hays, nhóm lợi ích là cơ chế
quan trọng để công dân bày tỏ quan điểm, nhu cầu
của họ đối với các nhà hoạch định chính sách của
nhà nước(28). Thông qua đại diện của mình để tác
động đến quá trình chính sách nên, về đại thể,
nhóm lợi ích có thể được coi là một hình thức dân
chủ đại diện tự nguyện.
_______
(26)
Luật vận động hành lang (Lobbying Act (R.S.C. 1985,
c. 44 (4th Supp.) năm 1985 và sửa đổi năm 2008 của
Canada, Các quy tắc trình tự (Rules of Procedure) của
Cộng hòa Liên bang Đức.
(27)
Khoản 1, Điều 2, Hiến pháp Nước Cộng hòa Xã hội
chủ nghĩa Việt Nam năm 2013 có ghi: “Nhà nước Cộng
hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam là nhà nước pháp quyền
xã hội chủ nghĩa của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân
dân”.
(28)
R. Allen Hay, The Role of Interest Groups.
4. Vấn đề nhóm lợi ích ở Việt Nam hiện nay
Thực tiễn phát triển của Việt Nam những năm
qua đã cho thấy sự tồn tại và hoạt động của các
nhóm lợi ích như là một hiện tượng tất yếu lịch
sử. Tuy nhiên, do những điều kiện khách quan và
chủ quan nên sự hình thành và hoạt động của các
nhóm lợi ích có những biểu hiện khác thường và
không đóng góp vào quá trình dân chủ, công khai
và công bằng xã hội. Đó là lý do, ở Việt Nam,
nhóm lợi ích thường được gắn với ý nghĩa xấu,
tiêu cực.
Hầu hết các nhóm lợi ích thuộc lĩnh vực công
liên quan đến môi trường sinh thái, người tiêu
dùng, v.v... hoạt động mang tính hình thức, ít có
những hoạt động vận động chính sách hiệu quả.
Do đó, môi trường sinh thái không những không
được cải thiện mà còn có phần trầm trọng hơn;
vấn đề an toàn thực phẩm, hàng giả, hàng nhái
vẫn luôn là vấn đề bức xúc đối với người tiêu
dùng Việt Nam. Những vụ việc trầm trọng về môi
trường, về quyền lợi người tiêu dùng ở Việt Nam
chủ yếu là do nhân dân lên tiếng, báo chí vào cuộc
và các cơ quan quản lý Việt Nam. Các hội, hiệp
hội trong lĩnh vực này hầu như không có tiếng nói
chứ chưa nói đến hành động bảo vệ cho những lợi
ích công này(29).
Một cách tương tự, mặc dù có đại diện với
cơ cấu tổ chức rộng khắp song các nhóm lợi ích
của nông dân, công nhân(30). Ở Việt Nam cũng
_______
(29)
Trong vụ Vedan (năm 2008), Vụ chôn thuốc trừ sâu ở
Thanh Hóa, chỉ có người dân, báo chí, Cảnh sát môi
trường, Bộ Tài nguyên và Môi trường vào cuộc chứ chưa
thấy sự hiện diện của Hội Bảo vệ Thiên nhiên và Môi
trường Việt Nam, Hội Bảo vệ Thiên nhiên và Môi trường
Thành phố Hồ Chí Minh (trong vụ Vedan) và Hội Bảo vệ
Thiên nhiên và Môi trường tỉnh Thanh Hóa (trong vụ trôn
thuốc trừ sâu).
(30)
Tổ chức Hội nông dân và tổ chức công đoàn mà cao
nhất là Tổng liên đoàn Lao động Việt Nam là những thể
chế được tổ chức rộng rãi đại diện cho lợi ích của nông
dân và công nhân Việt Nam.
H.V. Luân / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Khoa học Xã hội và Nhân văn, Tập 30, Số 1 (2014) 1-10
8
hoạt động kém hiệu quả. Hệ quả tất yếu là nhiều
lợi ích của nông dân và công nhân không được
giải quyết một cách thỏa đáng đã dẫn tới những
vụ việc nghiêm trọng trong thu hồi đất cũng như
những hậu quả trong quan hệ lao động giữa người
sử dụng lao động và người lao động.
Có thể thấy, những nhóm lợi ích kém hiệu
quả ở Việt Nam thường phổ biến ở những
trường hợp: Nhóm lợi ích mà người đại diện
của nó không hưởng lợi trực tiếp từ nhóm lợi
ích mà họ đại diện (Hội Nông dân, Công đoàn)
hoặc hưởng lợi từ những hoạt động khác (Hội
bảo vệ Thiên nhiên và Môi trường Việt Nam,
Hội bảo vệ Người tiêu dùng Việt Nam). Việc
không trực tiếp hưởng lợi trực tiếp từ nhóm lợi
ích tạo ra hiện tượng “ăn quả không rào cây” -
một hiện tượng trái với lẽ phải thông thường ở
Việt Nam “Ăn cây nào, rào cây ấy” - cái lẽ
thường nhưng cũng không kém phần hiện đại:
quyền lợi gắn liền với trách nhiệm.
Trong khi đó, một số nhóm lợi ích hoạt
động mạnh, bằng cách này, cách khác có quan
hệ mật thiết với một số nhà hoạch định chính
sách đến mức được gọi là nhóm lợi ích thân
hữu(31). Những nhóm lợi ích này với tiềm lực
kinh tế mạnh và sự vận động bằng kinh tế với
nhiều hình thức khác nhau đã tạo ra sự nghiêng
lệch trong cán cân chính sách - vốn cần thiết
phải cân bằng với tính cách là người đại diện
cho các tầng lớp dân cư của xã hội.
Trong những năm vừa qua, nhóm lợi ích
ngân hàng không những đã tạo nên nhiều hệ lụy
_______
(31)
Trong mục Lo ngại những “nhóm lợi ích thân hữu”,
Báo Thanh Niên, Số 17(6535), Thứ tư, 12.11.2013, Thái
Sơn đã nêu lời phát biểu của Tổng Thanh tra Chính phủ:
“Phát biểu tại cuộc đối thoại (về phòng, chống tham nhũng
lần thứ 12, ngày 12 tháng 11 năm 2013 với chủ đề “vai trò
của doanh nghiệp và khu vực tư nhân trong công tác
phòng, chống tham nhũng”), Tổng Thanh tra Chính phủ
Huỳnh Phong Tranh bày tỏ lo ngại sự cấu kết giữa doanh
nghiệp và các quan chức tha hóa sẽ hình thành những
“nhóm lợi ích thân hữu”, có khả năng tác động tiêu cực tới
quá trình xây dựng và thực thi chính sách, pháp luật”, tr. 7.
cho sự phát triển của doanh nghiệp mà còn cho
cả kinh tế vĩ mô Việt Nam. Khủng hoảng kinh
tế là thời điểm các doanh nghiệp cần được hỗ
trợ, tạo điều kiện thuận lợi để trụ vững và vượt
qua khủng hoảng. Do đó, hầu hết các quốc gia
đều tìm mọi biện pháp hạ lãi suất cho vay. Đặc
biệt, Cục Dự trữ Liên bang Hoa kỳ (FED) đã có
những lần giảm lãi suất kỷ lục. Theo đó, mức
lãi suất đang từ 5% (năm 2007) đã giảm dần
xuống 1% (cuối năm 2008) và từ 17/12/2008 hạ
xuống mức thấp kỷ lục từ 0 - 0,25%(32). Trong
khi đó, các doanh nghiệp Việt Nam lại phải tiếp
cận dòng vốn giá cao. Theo công bố chính thức
của Ngân hàng ngoại thương Việt Nam, lãi suất
cho vay ngắn hạn từ 1/12/2009 là 12%(33). Trên
thực tế, doanh nghiệp phải tiếp cận nguồn vốn
với mức lãi suất cao hơn nhiều. Theo Báo cáo
kinh tế vĩ mô 2012 do Nhóm tư vấn Chính sách
kinh tế vĩ mô của Ủy ban Kinh tế của Quốc hội:
“Vào cuối năm (2011), mặc dù đã giảm vài
điểm phần trăm nhưng lãi suất cho vay các hoạt
động sản xuất đến vẫn ở mức gần 20% trong
khi lãi suất cho vay tiêu dùng cá nhân hầu hết
vẫn ở mức 22-24% [4]”. Lãi suất cho vay cao
phần là do lãi suất huy động cao. Tuy nhiên,
ngân hàng thương mại vẫn hưởng chênh lệch
giữa lãi suất huy động và cho vay ở mức 4-
5%(34). Nhờ đó, “... hầu hết các ngân hàng
thương mại lớn đều có lợi nhuận năm 2011 lớn
hơn năm 2010 bất chấp tốc độ tăng trưởng tín
dụng thấp hơn mọi năm. ROE trung bình của
tám ngân hàng niêm yết đã tăng từ 18,83% năm
_______
(32)
PGS.TS. Nguyễn Văn Hiệu: Cần hiểu đúng các loại lãi
suất công bố, website của Hiệp hội Ngân hàng Việt Nam.
cle&id=1563&catid=43&Itemid=90, Truy cập ngày 26
tháng 11 năm 2013. Tuy nhiên, cũng theo chuyên gia này,
mức lãi suất này là lãi suất cơ sở (Fed Funs Rate), lãi suất
cơ bản (Prime Rate) được các ngân hàng công bố thường
cao hơn mức lãi suất cơ sở từ 2 - 3,5%.
(33)
Nguồn: Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam.
D=4352.
(34)
Theo các chuyên gia và số liệu thống kê, mức thông
thường là khoảng 3%.
H.V. Luân / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Khoa học Xã hội và Nhân văn, Tập 30, Số 1 (2014) 1-10 9
2010 lên 19,68% năm 2011” [4]. Hệ quả tất yếu
của vấn đề này là doanh nghiệp gặp nhiều khó
khăn và đang đứng trước nguy cơ phá sản hoặc
ngừng hoạt động kéo theo tỷ lệ nợ quá hạn và
nợ xấu của ngân hàng thương mại có xu hướng
tăng cao.
Sự không bình đẳng của các nhóm lợi ích ở
Việt Nam có nguyên nhân từ nạn tham nhũng
của một số nhà hoạch định và thực thi chính
sách. Lợi thế luôn thuộc về nhóm lợi ích có
tiềm lực kinh tế, hoạt động mạnh thông qua vận
động, thậm chí mua chuộc. Số còn lại ít tiềm
lực kinh tế, vận động chính sách yếu, thậm chí
không vận động mặc dù cũng có sự ủng hộ của
một số chuyên gia độc lập nhưng vẫn phải chịu
nhiều thiệt thòi về chính sách. Năng lực lắng
nghe [5] của một số nhà hoạch định và thực thi
chính sách đã và đang chịu sự tác động mạnh
của việc vận động chính sách như một lẽ tất yếu
vì họ cũng là những con người cụ thể luôn đặt
ra và giải quyết bài toán quan hệ giữa lợi ích và
rủi ro trong thực tế ở Việt Nam.
Lợi ích và nhận thức lợi ích tạo thành mục
đích hoạt động của các cá nhân, nhóm, cộng
đồng. Do đó, nó quyết định tính chất của mối
quan hệ giữa các chủ thể hoạt động: Hợp tác
hay cạnh tranh. Hợp tác giữa các chủ thể có
cùng lợi ích và nhằm tăng cường lợi ích đó tạo
thành nhóm lợi ích. Các nhóm lợi ích khác nhau
có phương thức tổ chức, tiềm lực (kinh tế và
quan hệ) khác nhau nên có mức độ ảnh hưởng
đến quá trình vận động chính sách khác nhau và
có mức độ hưởng lợi khác nhau. Quá trình này
có thể làm nảy sinh xung đột lợi ích(35).
_______
(35)
Được hiểu là sự vi phạm lợi ích lẫn nhau. Theo Luật
xung đột lợi ích của Canada (Canada: Conflict of Interest
Act (S.C. 2006, c. 9, s. 2, tr. 5), xung đột lợi ích là khi một
cá nhân dùng quyền hạn, chức năng của mình làm gia tăng
cơ hội, điều kiện thực hiện lợi ích của mình, người thân
hoặc người khác một cách không hợp luật.
Như vậy, nhóm lợi ích và hoạt động của
nhóm lợi ích là một tất yếu khách quan, có tác
động tích cực đến tiến bộ và công bằng xã hội.
Hoạt động của nhóm lợi ích cũng là một trong
những hình thức của dân chủ đại diện, góp phần
tích cực vào việc nâng cao hiệu lực và hiệu quả
của quá trình chính sách.
Sự tồn tại và hoạt động của nhóm lợi ích
luôn phụ thuộc vào những điều kiện kinh tế - xã
hội cụ thể của mỗi quốc gia trong những thời
điểm lịch sử cụ thể. Căn cứ vào cấu trúc chính
trị, truyền thống chính trị, các nhóm lợi ích sẽ
lựa chọn những chiến thuật, cách thức phù hợp
để tiếp cận vào hệ thống chính trị trong việc vận
động chính sách. Và do đó, tính chất tiêu cực
hay tích cực của nhóm lợi ích và hoạt động của
nhóm lợi ích có những biểu hiện cụ thể.
Thực tiễn hoạt động của nhóm lợi ích ở
Việt Nam không cân bằng, nghiêng lệch về các
nhóm lợi ích có thế mạnh về kinh tế và quan hệ
đã tạo ra nhận thức phiến diện về nhóm lợi ích
và hoạt động của nhóm lợi ích. Theo nghĩa này,
ngăn chặn lợi ích nhóm là kiểm soát việc một
số nhóm lợi ích thao túng, lợi dụng chính sách
nhằm đảm bảo công bằng xã hội là cần thiết về
mặt thực tiễn ở Việt Nam hiện nay.
Ngăn chặn, kiểm soát sự thao túng của một
số nhóm lợi ích là một yêu cầu song vấn đề
quan trọng là quản trị xung đột lợi ích và các
nhóm lợi ích nhằm tạo động lực phát triển xã
hội trong bối cảnh mới. Đó là hướng nghiên
cứu còn bỏ ngỏ ở Việt Nam hiện nay.
Tài liệu tham khảo
[1] Vũ Hữu Ngoạn, Khổng Doãn Hợi: Về sự kết hợp
các lợi ích kinh tế, Nhà Xuất bản Thông tin Lý
luận, H., 1983.
[2] Thomas, Clive S. (ed.), First World Interest
Groups, A Comparative Perspective, (Westport:
Greenwood Press), 1993.
H.V. Luân / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Khoa học Xã hội và Nhân văn, Tập 30, Số 1 (2014) 1-10
10
[3] C. Mác - Ph. Ăngghen: Toàn tập, t 2, 3, 23. Nhà
xuất bản CTQG HN., 1995.
[4] Nhóm tư vấn Chính sách kinh tế vĩ mô (Ủy ban
Kinh tế của Quốc hội): Báo cáo kinh tế vĩ mô
2012: Từ bất ổn vĩ mô đến con đường tái cơ cấu,
Nhà xuất bản Tri thức, H., 2012.
[5] Dương Trung Quốc, “Năng lực lắng nghe bị hạn
chế phải chăng do Chính phủ chưa tin vào dân,
vào những người không nằm trong bộ máy tư vấn
gần gũi của Chính phủ hay còn vì lợi ích nhóm”,
Báo Thanh niên, số 160(6012), Thứ sáu, 8.6.2012,
tr. 7.
Interest Group and Some Issues
on Interest Group in Vietnam
Hoàng Văn Luân
VNU University of Social Sciences and Humanities,
336 Nguyễn Trãi Road, Thanh Xuân Dist., Hanoi, Vietnam
Abstract: Group interests and groups of interests have been mentioned more and more on the
mass media in Vietnam as well as in the scientific journals with different ways of accessibility.
Limitations in terms of the institution and legal corridor relating to the activities of the group of
interests in Vietnam have created the inequality between the groups of interests, resulting in having a
number of imperfect viewpoints arisen concerning the interest group, believing that the interest group
bears passitivity.
The paper proves that the interest group and its activities are the objective inevitability and if it is
well governed, it will help boost social progress and equality as well as raising efficiency and
effectiveness in the process of public policy.
Keywords: Demand, interest, group of interests, public interest.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 1_1_0503.pdf