Nghiên cứu hiệu quả của các phương thức trồng sắn khác nhau (Lấy củ, lấy củ và lá, lấy lá) làm thức ăn chăn nuôi

Trồng sắn lấy củ kết hợp tỉa lá gốc định kỳ để sản xuất bột lá sắn đã cho sản lượng củ cao hơn so với trồng sắn lấy củ mà không tỉa lá. Trồng sắn theo phương thức này sản lượng củ sắn đạt được là 59,203 tấn/ha/2 năm, tận thu được 11,391 tấn lá sắn tươi/ha/2 năm và lãi thuần cũng đạt cao nhất (67,5 triệu đồng/ha/ 2 năm). Có thể trồng sắn chuyên lấy lá để sản xuất bột lá sắn phối hợp vào thức ăn hỗn hợp của gia súc, gia cầm. Trồng theo phương thức này có thể thu được 31,314 tấn lá sắn tươi/ha/2 năm và 1,822 tấn protein/ha/2 năm.

pdf5 trang | Chia sẻ: linhmy2pp | Ngày: 25/03/2022 | Lượt xem: 189 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Nghiên cứu hiệu quả của các phương thức trồng sắn khác nhau (Lấy củ, lấy củ và lá, lấy lá) làm thức ăn chăn nuôi, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Trần Thị Hoan và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 97(09): 29 - 33 29 NGHIÊN CỨU HIỆU QUẢ CỦA CÁC PHƯƠNG THỨC TRỒNG SẮN KHÁC NHAU (LẤY CỦ, LẤY CỦ VÀ LÁ, LẤY LÁ) LÀM THỨC ĂN CHĂN NUÔI Trần Thị Hoan1*, Từ Trung Kiên1, Từ Quang Trung2 1Trường Đại học Nông lâm – ĐH Thái Nguyên, 2Trường Đại học Sư phạm - ĐH Thái Nguyên TÓM TẮT Chúng tôi đã nghiên cứu hiệu quả của các phương thức trồng sắn khác nhau (lấy củ, lấy củ + lá và láy lá) làm thức ăn chăn nuôi. Kết quả nghiên cứu cho thấy trồng sắn theo các phương thức khác nhau thì sản lượng lá, củ sắn và hiệu quả kinh tế cũng khác nhau. Trồng sắn theo phương thức củ + lá có sản lượng củ là 59,203 tấn/ha/2 năm, sản lượng lá tận thu là 11,391 tấn/ha/2 năm và lãi thuần đạt cao nhất 67,5 triệu đồng/ha/2 năm. Phương thức trồng sắn lấy lá đứng thứ 2, có sản lượng lá tươi là 31,314 tấn/ha/2 năm, tận thu củ được 14,010 tấn/ha/2 năm và lãi thuần đạt 56,9 triệu đồng/ha/2 năm, phương thức trồng sắn thu củ có sản lượng củ và lá tươi lần lượt là 55,327 và 1,064 tấn/ha/2 năm còn lãi thuần đạt thấp nhất là 42,5 triệu đồng/ha/2 năm. Từ khóa: Trồng sắn, lấy củ, lấy củ và lá, lấy lá MỞ ĐẦU* Từ trước tới nay người ta trồng sắn thu củ làm thức ăn chăn nuôi mà chưa nghĩ tới việc trồng sắn thu lá để làm bột lá xanh bổ sung vào thức ăn để cung cấp sắc tố cho vật nuôi. . Hàm lượng β caroten trong lá sắn từ 47, 63 – 99,39 mg % VCK. Củ sắn có hàm lượng protein thấp (trong củ tươi có 0,98- 1,09 %). Lá sắn giàu dinh dưỡng, đặc biệt là protein và carotenoid, trong lá sắn tươi, tỷ lệ protein có trung bình từ 6,50 - 7,00 % và carotenoid từ 500- 600 mg/kg VCK (Trần Thị Hoan, 2012 [2]) . Để biết được các phương thức trồng khác nhau có ảnh hưởng đến năng suất và sản lượng của củ và lá sắn cũng như hiệu quả kinh tế như thế nào, chúng tôi tiến hành đề tài: Nghiên cứu hiệu quả của các phương thức trồng sắn khác nhau (lấy củ, lấy củ - lá, lấy lá) làm thức ăn chăn nuôi. NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU Nội dung nghiên cứu Nghiên cứu các phương thức trồng sắn khác nhau với mục đích lấy lá, lấy củ làm thức ăn chăn nuôi để tìm ra phương thức nào cho hiệu quả kinh tế cao hơn. Đối tượng, địa điểm và thời gian nghiên cứu - Đối tượng nghiên cứu: Giống sắn KM94 * Tel:0988520 086; Email: tranthihoan_tuaf@yahoo.com.vn - Địa điểm nghiên cứu: Trung tâm Thực hành Thực nghiệm, trường Đại học Nông lâm Thái Nguyên, tỉnh Thái Nguyên. - Thời gian nghiên cứu: Năm 2009 - 2010 Phương pháp nghiên cứu Chúng tôi thí nghiệm với 3 phương thức trồng sắn khác nhau: lấy củ (C) với mật độ trồng (1,0 m x 1,0 m), lấy củ - lá (C -L) với mật độ trồng (0,8 m x 0,6 m), lấy lá (L) với mật độ trồng (0,8m x 0,4m). Mỗi phương thức trồng được bố trí trên diện tích 30m2 và được lặp lại 3 lần, bố trí thí nghiệm theo kiểu ngẫu nhiên hoàn toàn. Phân bón: Được bón theo kỹ thuật trồng sắn của Nguyễn Viết Hưng (2006) [3] - Lượng phân bón đối với phương thức trồng lấy C và lấy C-L: 10 tấn phân hữu cơ + 60 kg N + 40 kg P2O5 + 80 kg K2O/ha/năm. Cách bón: + Bón lót: 100% phân chuồng + 100% P2O5. + Bón thúc lần 1: Sau trồng 45 ngày bón 1/2N + 1/2 K2O kết hợp với làm cỏ và vun nhẹ cho sắn. + Bón thúc lần 2: Sau trồng 90 ngày bón số phân còn lại (1/2N +1/2K2O) kết hợp làm cỏ vun cao gốc cho sắn. - Lượng phân bón đối với phương thức trồng lấy lá: 10 tấn phân hữu cơ + 120 kg N + 40 kg P2O5 + 80 kg K2O/ha/năm Trần Thị Hoan và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 97(09): 29 - 33 30 Bón lót vào lúc trồng sắn ở năm thứ nhất và đầu năm thứ 2: 100% phân chuồng và 100% phân lân. Phân kali được bón lót 25% cùng phân chuồng và phân lân, số còn lại được bón cùng với đạm sau mỗi lứa cắt. Phân đạm được chia đều bón sau trồng 45 ngày và sau mỗi lứa cắt. Thu hoạch: - Đối với phương thức lấy lá: Thu hoạch lứa đầu sau khi trồng 4 tháng, sau đó cứ 2 tháng thu 1 lần, cắt ngang thân sắn cách mặt đất 40- 50cm, lần cắt sau cắt cao hơn lần cắt trước 10 – 20 cm. Đầu năm thứ hai, cắt cách mặt đất 30-40cm, đầu xuân bón phân để sắn tái sinh, thu hoạch năm thứ 2 cũng giống như năm thứ nhất. Cành sắn sau thu cắt được tách lá sắn ra khỏi cuống và cân khối lượng lá thu được, thu hoạch củ vào cuối năm thứ hai. - Đối với phương thức trồng lấy củ: Thu hoạch củ vào tháng 12 và tận thu lá. - Đối với phương thức lấy C-L: Sau khi trồng 4 tháng, cứ 20 ngày tỉa lá già và lá bánh tẻ phía gần gốc 1 lần. Tách toàn bộ cuống ra khỏi lá và cân khối lượng lá. Thu hoạch củ vào tháng 12, đồng thời kết hợp tận thu lá. Các chỉ tiêu theo dõi - Khí tượng (Ẩm độ, nhiệt độ, lượng mưa trong các năm thí nghiệm). - Thành phần hóa học đất: N tổng số (%), pH, P2O5 tổng số (%), P2O5 dễ tiêu (mg/100g), K2O tổng số (%), K2O trao đổi (mg/100g) - Năng suất lá sắn (bỏ cuống) ở các lứa cắt (tạ/ha/lứa) và thời điểm tận thu lá, năng suất củ sắn (tạ/ha/lứa) - Sản lượng lá đã bỏ cuống, sản lượng củ sắn (tấn/ha/năm). - Thành phần hóa học của củ và lá sắn ở các phương thức trồng sắn khác nhau - Hiệu quả kinh tế - Phương pháp theo dõi các chỉ tiêu là các phương pháp thông dụng được sử dụng trong nghiên cứu trồng trọt và chăn nuôi. Phương pháp xử lý kết quả Các số liệu thu thập được xử lý bằng phương pháp thí nghiệm trong chăn nuôi của Nguyễn Văn Thiện (2002) [4] và trên phần mềm thống kê Minitab 14. KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN Khí tượng khu vực thí nghiệm Khu vực thí nghiệm (tỉnh Thái Nguyên) có nhiệt độ trung bình năm là: 24,2oC, ẩm độ trung bình năm là 80,2%, lượng mưa trung bình năm là: 1700 mm. Như vậy, khí tượng của khu vực thí nghiệm hoàn toàn phù hợp với sự sinh trưởng của cây sắn trồng lấy củ. Tuy nhiên, thời gian cuối năm, nhiệt độ và lượng mưa thường thấp, không hoàn toàn phù hợp với sắn trồng để lấy lá. Thành phần dinh dưỡng đất thí nghiệm Đất khu vực thí nghiệm có pH là 4,510; Nitơ tổng số là 0,030%; P2O5 tổng số: 0,060%, P2O5 dễ tiêu là 11,810 mg/100g, K2O tổng số 0,140%; K2O dễ tiêu: 1,747 mg/100g; OM: 2,200%. Theo Từ Quang Hiển và CS (2002) [1] thì đây là loại đất chua vừa và nghèo dinh dưỡng, vì vậy để cây trồng có năng suất cao cần phải bón thêm phân cho cây trồng. Năng suất củ sắn Chúng tôi đã theo dõi năng suất củ sắn liên tục trong hai năm (2009-2010), thu hoạch củ 1 lần/1 năm đối với sắn trồng lấy củ và củ + lá, 1 lần/2 năm đối với trồng sắn lấy lá. Kết quả về năng suất củ sắn tính trung bình trong hai năm được trình bày tại bảng 1. Bảng 1. Năng suất trung bình của củ sắn (tạ/ha/năm) Phương thức trồng Năm Lấy Củ (C) Lấy Củ-Lá (C-L) Lấy Lá (L) Năm 1 285,60 302,78 Năm 2 267,67 289,26 140,10 NSTB 276,63b 296,02a 70,05c Ghi chú: Do phương thức trồng sắn lấy lá chỉ thu củ 1 lần trong 2 năm nên năng suất trung bình/năm bằng năng suất củ của năm thứ 2 chia cho 2 (140,10 : 2 = 70,05) Trần Thị Hoan và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 97(09): 29 - 33 31 Số liệu của bảng 1 cho thấy: Năng suất củ của phương thức trồng sắn lấy củ là 276,63 tạ/ha/năm, phương thức lấy củ-lá là 296,02 tạ/ha/năm, còn năng suất củ của phương thức trồng sắn lấy lá là 70,05 tạ/ha/năm. Năng suất củ sắn của phương thức lấy C và lấy L thấp hơn so với phương thức lấy C-L lần lượt là 19,39 tạ/ha/năm; 206,58 tạ/ha/năm và có sự sai khác rõ rệt (p<0,01 đến p<0,001). Năng suất củ của phương thức trồng C-L cao hơn so với phương thức lấy C có thể do sắn của phương thức này được tỉa toàn bộ phần lá già và những lá bánh tẻ phía gốc theo định kỳ nên toàn bộ các chất dinh dưỡng do lá tổng hợp được chỉ tập trung vào phát triển của củ sắn, không phải chia sẻ một phần dinh dưỡng để nuôi các lá già phần gốc, bộ phận lá gốc này không còn khả năng sản xuất mà chỉ tiêu hao các chất dinh dưỡng. Năng suất củ của phương thức trồng sắn lấy lá đạt thấp nhất (70,05 tạ/ha/năm), vì lá sắn được cắt 3 lứa/năm nên dinh dưỡng tập trung cho việc phát triển của củ sắn sẽ bị giảm đi. Năng suất lá sắn Chúng tôi cũng theo dõi năng suất của lá sắn trong hai năm (2009-2010), mỗi năm thu hoạch được 3 lứa đối với sắn trồng thu lá, tỉa lá 6 lần đối với sắn trồng thu củ + lá, tận thu lá lúc thu hoạch củ đối với trồng sắn lấy củ và lấy củ + lá, kết quả năng suất lá sắn được trình bày tại bảng 2. Số liệu bảng 2 cho thấy: Đối với trồng sắn lấy lá thì năng suất trung bình trong 2 năm đạt là 52,19 tạ/ha/lứa cắt, còn năng suất lá của phương thức C- L là 9,49 tạ/ha/lần tỉa lá, năng suất lá sắn tận thu lúc thu củ của phương thức trồng sắn lấy củ đạt 10,64 tạ/ha. Bảng 2. Năng suất trung bình của lá sắn (tạ/ha/lứa) Phương thức trồng Diễn giải Lấy Củ (C) Lấy Củ-Lá (C-L) Lấy Lá (L) NSTB năm 1 10,15* 10,16** 60,16*** NSTB năm 2 11,12 8,82 44,22 NSTB 2 năm 10,64b 9,49b 52,19a Ghi chú: * : Là năng suất lá tận thu lúc thu hoạch củ ** : Là năng suất lá trung bình của 5 lần tỉa lá và 1 lần tận thu lúc thu hoạch củ/năm *** : Là năng suất trung bình của 3 lứa cắt/năm Sản lượng củ và lá sắn tươi, VCK, protein Căn cứ vào năng suất lá sắn và củ tươi của từng lứa, tỷ lệ vật chất khô và protein trong lá, củ sắn chúng tôi đã tính được sản lượng lá, củ sắn tươi, vật chất khô, protein của 1ha trong hai năm và kết quả được trình bày tại bảng 3. Sản lượng củ sắn tươi của phương thức lấy C-L cao hơn so với phương thức lấy C và lấy L, lần lượt là 3,876; 45,193 tấn/ha/2 năm. Sản lượng lá sắn tươi của phương thức lấy lá cao hơn so với lấy C-L và lấy C lần lượt là 19,923; 30,250 tấn/ha/2 năm. Đối với sản lượng VCK thì phương thức lấy C-L đạt cao nhất, cao hơn so với phương thức lấy C và L lần lượt là 5,000; 11,907 tấn/ha/2 năm. Như vậy, nếu như trồng sắn với mục đích lấy củ là chính, đồng thời kết hợp với tỉa lá làm thức ăn chăn nuôi gia súc và gia cầm sẽ thu được sản lượng thức ăn lớn hơn. Bảng 3. Sản lượng củ và lá sắn tươi, VCK, protein (tấn/ha/2 năm) Phương thức trồng SL tươi ( X ± Xm ) VCK ( X ± Xm ) Protein ( X ± Xm ) Tỷ lệ protein so với VCK (%) Lấy Củ Củ 55,327± 1,45 20,721 ± 0,50 1,427 ± 0,02 6,89 Lá 1,064±0,02 Lấy Củ-lá Củ 59,203± 1,62 25,721 ± 1,11 2,021 ± 0,07 7,86 Lá 11,391±0,98 Lấy Lá Củ 14,010±0,98 13,814 ± 0,15 2,180 ± 0,34 15,78 Lá 31,314 ± 1,36 Trần Thị Hoan và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 97(09): 29 - 33 32 Sản lượng protein cao nhất ở phương thức lấy L (2,180 tấn/ha/2 năm) cao hơn so với phương thức lấy C và C-L. Cụ thể: sản lượng protein của phương thức lấy L cao hơn lấy C là 0,753 tấn/ha/2 năm và cao hơn so với phương thức C-L là 0,159 tấn/ha/2 năm. Tỷ lệ protein so với VCK cao nhất ở phương thức lấy L đạt 15,78%. Trong khi đó, phương thức lấy củ + lá chỉ đạt 7,86 % và phương thức lấy củ chỉ đạt 6,89 %. Thành phần hóa học của củ và lá sắn ở các phương thức khác nhau Để biết được ảnh hưởng của các mức bón đạm khác nhau đến thành phần hóa học của củ và lá sắn, chúng tôi tiến hành phân tích thành phần hóa học của củ và lá sắn. Kết quả được thể hiện qua bảng 4. Tỷ lệ VCK, xơ, khoáng tổng số trong củ sắn của phương thức lấy C-L và lấy L cao hơn đôi chút so với lấy C lần lượt là: 0,28%; 0,16%; 0,15% và 0,72%; 0,87%; 0,26%, riêng tỷ lệ DXKN thì ở phương thức lấy C-L cao hơn so với phương thức lấy C là 0,21%, còn phương thức lấy L thì ngược lại, thấp hơn 0,28% so với phương thức lấy C. Tỷ lệ protein, lipit của 2 phương thức lấy C-L và lấy L thấp hơn đôi chút so với phương thức lấy C. Kết quả phân tích cho thấy, phương thức trồng sắn lấy củ hoặc lấy củ kết hợp với tỉa lá phần gốc theo định kỳ không ảnh hưởng nhiều đến thành phần hóa học của củ sắn. Còn phương thức trồng sắn lấy L có ảnh hưởng tương đối lớn đến thành phần hóa học của củ sắn, đặc biệt là tỷ lệ protein và xơ, tỷ lệ protein thấp hơn so với phương thức lấy củ là 0,55%, tỷ lệ xơ cao hơn so với phương thức lấy củ là 0,87%. Tỷ lệ VCK, xơ và khoáng trong lá sắn của phương thức lấy C-L và lấy C cao hơn so với phương pháp lấy L, đó là do 2 phương thức này chủ yếu khai thác lá già và bánh tẻ ở phần gốc, trong lá già thì tỷ lệ VCK, xơ, khoáng, lipit cao hơn lá bánh tẻ và lá sắn non. Còn tỷ lệ protein, DXKN của phương thức lấy L cao hơn so với phương thức C-L và lấy C, cao hơn lần lượt là: 3,08%; 1,27% và 3,14%; 1,12% , đó là do phương thức C-L và lấy C, chủ yếu khai thác lá già, trong lá già tỷ lệ protein và DXKN thấp hơn so với lá bánh tẻ và lá non. Hiệu quả kinh tế của các phương thức trồng sắn khác nhau Từ kết quả về sản lượng củ, lá sắn tươi chúng tôi tính toán ra sản lượng sắn lát khô và bột lá sắn. Căn cứ vào giá sắn lát khô và bột lá sắn tại thời điểm trồng, tính lãi thuần trên 1 ha trong 2 năm đối với cả 3 phương thức. Lãi thuần cao hay thấp sẽ ảnh hưởng đến thu nhập và đời sống của người trồng sắn, phương thức trồng có lãi thuần thấp thì người dân không chấp nhận và sản xuất không bền vững. Kết quả tính toán hiệu quả kinh tế của các phương thức trồng sắn khác nhau được thể hiện ở bảng 5. Bảng 4. Thành phần hóa học của củ và lá sắn ở các phương thức khác nhau (%) Phương thức trồng VCK % trong vật chất khô Protein Lipit TS Xơ DXKN Khoáng TS - THHH củ sắn Củ (lấy C) 37,93 6,53 3,26 5,30 77,60 7,31 Củ (lấy C-L) 38,21 6,25 3,02 5,46 77,81 7,46 Củ (lấy L) 38,65 5,98 2,96 6,17 77,32 7,57 - TPHH lá sắn Lá (lấy C) 27,16 19,62 7,88 18,65 45,54 8,33 Lá (lấy C-L) 27,21 19,56 7,85 18,62 45,67 8,30 Lá (lấy L) 26,08 22,7 8,22 14,2 46,79 8,09 Ghi chú: TPHH: Thành phần hóa học Trần Thị Hoan và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 97(09): 29 - 33 33 Bảng 5. Hiệu quả kinh tế của các phương thức trồng sắn khác nhau Phương thức Sản lượng (tấn/ ha/2 năm) Tổng thu (triệu đồng /ha/2 năm) Tổng chi (triệu đồng /ha/2 năm) Lãi thuần (triệu đồng /ha/2 năm) Sắn lát khô Bột lá sắn Củ 22,917 0,630 96,7 54,2 42,5 Củ Lá 24,583 3,382 125,4 57,9 67,5 Lá 5,833 8,912 94,6 37,7 56,9 Số liệu bảng 5 cho thấy: Lãi thuần của phương thức C-L đạt cao nhất 67,5 triệu đồng/ha/2 năm, đứng thứ 2 là phương thức trồng lấy L đạt 56,9 triệu đồng/ha/2 năm, lãi thuần thấp nhất là phương thức lấy củ đạt 42,5 triệu đồng. Căn cứ vào lãi thuần của 3 phương thức trồng sắn cho thấy, trồng sắn lấy củ kết hợp tỉa lá theo định kỳ hoặc lấy lá sắn làm thức ăn cho gia súc và gia cầm kết hợp tận thu củ sẽ đạt hiệu quả kinh tế cao hơn so với trồng sắn chỉ thu củ và tận thu lá khi thu hoạch củ. KẾT LUẬN Trồng sắn lấy củ kết hợp tỉa lá gốc định kỳ để sản xuất bột lá sắn đã cho sản lượng củ cao hơn so với trồng sắn lấy củ mà không tỉa lá. Trồng sắn theo phương thức này sản lượng củ sắn đạt được là 59,203 tấn/ha/2 năm, tận thu được 11,391 tấn lá sắn tươi/ha/2 năm và lãi thuần cũng đạt cao nhất (67,5 triệu đồng/ha/ 2 năm). Có thể trồng sắn chuyên lấy lá để sản xuất bột lá sắn phối hợp vào thức ăn hỗn hợp của gia súc, gia cầm. Trồng theo phương thức này có thể thu được 31,314 tấn lá sắn tươi/ha/2 năm và 1,822 tấn protein/ha/2 năm. TÀI LIỆU THAM KHẢO [1]. Từ Quang Hiển, Nguyễn Khánh Quắc, Trần Trang Nhung (2002), Đồng cỏ và cây thức ăn gia súc, Nxb Nông nghiệp Hà Nội, tr.8-49. [2]. Trần Thị Hoan (2012), Nghiên cứu trồng sắn thu lá và sử dụng bột lá sắn trong chăn nuôi gà thịt và gà đẻ bố mẹ Lương Phượng, Luận án tiến sĩ nông nghiệp, Đại học Thái Nguyên [3]. Nguyễn Viết Hưng (2006), “Nghiên cứu ảnh hưởng của khí hậu, đất đai và biện pháp kỹ thuật canh tác chủ yếu đến năng suất, chất lượng của một số dòng, giống sắn”, Luận án tiến sĩ Khoa học Nông nghiệp, tr. 32-38. [4]. Nguyễn Văn Thiện (2002), Phương pháp thí nghiệm trong chăn nuôi, Nxb Nông nghiệp. SUMMARY EFFECT OF VARIOUS METHOD OF CASSAVA PLANTING TO YIELD OF ROOT, LEAVES AND ECONOMIC EFFICIENCY IN ANIMAL FEED Tran Thi Hoan1∗, Tu Trung Kien1, Tu Quang Trung2 1College of Agriculture and Forestry - TNU, 2College of Education - TNU We have studied the effect of various methods of cassava planting (ei: for root production, for root and leaves, for leaves production) for animal stuff feed. Research results showed that the productivity, net income by various planting methods are different. The second method (for root and leaves of cassava) had root and fresh leaves yield 59.203 and 11.391 ton/ha/2 years respectively, and it had the highest net income of 67.5 million VND/ha/2 years. The third method (for leaves of cassava) had fresh leaf and root yield 31.314 and 14.010 ton/ha/2 years respectively, and net income of 56.9 million VND/ha/2 years. The first method (for root) had the yield of root and leaves 55.327 and 1.064 ton/ha/2 years respectively and it had the lowest net income of 42.5 million VND/ha/2 years. Keywords: Cassava cultivation, for cassva root, for root and leaves, for leaves. Ngày nhận bài: 20/9/2012, ngày phản biện: 27/9/ 2012, ngày duyệt đăng:10/10/2012 ∗ Tel:0988.520 086, Email: tranthihoan_tuaf@yahoo.com.vn

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfnghien_cuu_hieu_qua_cua_cac_phuong_thuc_trong_san_khac_nhau.pdf
Tài liệu liên quan