Nghề nuôi cá tra (Pangasianodon hypophthalmus Sauvage, 1878) ở đồng bằng sông Cửu Long trước thách thức của biến đổi khí hậu và các biện pháp thích ứng

Tóm lại những dẫn chứng trong bài viết này đã dự báo các tác động không thể tránh khỏi bởi mực nước biển dâng do biến đổi khí hậu đến vùng đồng bằng sông Cửu Long nói chung và nghề nuôi cá tra nói riêng. Hiện nay người nuôi cá tra phải tự thích ứng với các hiện tượng thời tiết cực đoan và ảnh hưởng tăng dần của mực nước biển dâng. Tuy nhiên trong tương lai, các biện pháp thích ứng phải được kết hợp chặt chẽ giữa tự phát và kế hoạch, giữa người nuôi và các tổ chức liên quan trong một thể thống nhất như quản lý tổng hợp vùng ven biển, áp dụng cách tiếp cận sinh thái trong nuôi trồng thủy sản, tăng cường chất lượng con giống có khả năng chịu mặn, cải thiện kỹ thuật nuôi và tăng cường nhận thức người nuôi để việc ứng phó với biến đổi khí hậu của nghề nuôi cá tra ở đồng bằng sông Cửu Long đạt hiệu quả cao.

pdf8 trang | Chia sẻ: linhmy2pp | Ngày: 23/03/2022 | Lượt xem: 272 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Nghề nuôi cá tra (Pangasianodon hypophthalmus Sauvage, 1878) ở đồng bằng sông Cửu Long trước thách thức của biến đổi khí hậu và các biện pháp thích ứng, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản Số 2/2016 130 • TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG VAÁN ÑEÀ TRAO ÑOÅI NGHỀ NUÔI CÁ TRA (Pangasianodon hypophthalmus Sauvage, 1878) Ở ĐỒNG BẰNG SÔNG CỬU LONG TRƯỚC THÁCH THỨC CỦA BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU VÀ CÁC BIỆN PHÁP THÍCH ỨNG IMPACTS OF CLIMATE CHANGE ON PANGASIUS FARMING SECTOR IN MEKONG DELTA, VIETNAM AND THE ADAPTATION MEASURES Nguyễn Lâm Anh1 Ngày nhận bài: 29/12/2015; Ngày phản biện thông qua: 07/3/2016; Ngày duyệt đăng: 15/6/2016 TÓM TẮT Nghề nuôi cá tra phát triển mạnh trong những năm gần đây, đóng góp quan trọng vào sản lượng thủy sản nuôi và góp phần phát triển kinh tế xã hội ở đồng bằng sông Cửu Long. Hiện nay hình thức nuôi chủ yếu trong ao đất dọc theo các nhánh sông Tiền và Hậu có chế độ thủy văn bị chi phối bởi lưu lượng dòng chảy biến động theo mùa và chế độ thủy triều. Việt Nam là một trong năm quốc gia chịu ảnh hưởng mạnh nhất của biến đổi khí hậu thông qua hiện tượng nước biển dâng. Khi mực nước biển dâng, vùng nuôi cá tra ở An Giang và Đồng Tháp sẽ bị ảnh hưởng nặng nề vào mùa mưa khi các đỉnh lũ lên cao hơn và quá trình ngập lụt kéo dài hơn hiện nay. Trong khi đó, diện tích phù hợp nuôi cá tra ở vùng ven biển sẽ bị đe dọa bởi quá trình xâm nhập mặn trong mùa khô vào sâu hơn trong đất liền, kéo dài với độ mặn cao. Để đối phó với những tác hại do mực nước biển dâng, người nuôi cá tra phải tăng chi phí cho việc nâng cao đê bao, điều chỉnh thời vụ, giảm mật độ thả, thả con giống kích thước lớn hơn và cải tiến kỹ thuật chăm sóc. Các tổ chức liên quan như chính quyền, viện nghiên cứu, các công ty thủy sản có thể can thiệp về mặt chính sách, hệ thống đê điều, sản xuất giống cá tra chịu mặn và nâng cao nhận thức của người nuôi để giúp cho nghề nuôi cá tra ứng phó hiệu quả với tác động của biến đổi khí hậu. Từ khóa: nghề nuôi cá tra, đồng bằng sông Cửu Long, ảnh hưởng biến đổi khí hậu, giải pháp ứng phó ABSTRACT The rapid growth of the pangasius farming sector in recent years has contributed signifi cantly to the aquaculture product and socio-economic development in Mekong Delta. At present, pangasius have been cultured in earthern ponds along the Tien and Hau rivers. The hydrological regime of Tien and Hau rivers have been affected by seasonal river discharges and tidal ranges. Vietnam was ranked among the top fi ve countries most affected by rising sea levels. Sea level rise will increase the water level and prolong the inundation areas in the rainy season, whereas expand the salt water intrusion with high salinity in the dry season. These cause the vulnerability of suitable areas of pangasius farming. To deal with climate change impacts, the pangasius farmers have to invest more cost for increasing and maintaining pond dyke heigh, adjust the crop period, decrease stock density, stock lager fi sh and improve pond culture techniques. Taking into account the involvement and control of several stakeholders such as government, institutes, fi sheries companies through creating relevent policy, improving fl ood protection dyke, developing salinity tolerant pangasius strain, and enhancing the awareness building of farmers to effectively adapt to climate change of pangasius farming sector in Mekong Delta. Keywords: pangasius farming, Mekong Delta, climate change impacts, adaptation 1 Viện Nuôi trồng thủy sản – Trường Đại học Nha Trang Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản Số 2/2016 TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG • 131 I. MỞ ĐẦU Theo báo cáo của Tổ chức Nông lương Thế giới (FAO, 2014) trong những năm từ 2007 đến 2012, sản lượng khai thác thủy sản thế giới có dấu hiệu chững lại quanh mốc 90 triệu tấn/năm, trong khi sản lượng nuôi trồng thủy sản tăng ổn định từ 49,9 triệu tấn (2007) lên 66,6 triệu tấn (2012) đóng góp ngày càng có ý nghĩa vào an ninh lương thực toàn cầu. Số liệu của Tổng cục Thống kê Việt Nam (2014) cũng cho thấy ở đồng bằng sông Cửu Long sản lượng khai thác thủy sản tăng 2 lần từ 363 nghìn tấn lên 646 nghìn tấn trong khi sản lượng nuôi trồng thủy sản tăng 8 lần từ 267 nghìn tấn đến 2.132 nghìn tấn trong những năm 1995-2011. Có thể thấy rõ sự phát triển thần kỳ của nuôi trồng thủy sản ở đồng bằng sông Cửu Long có đóng góp lớn của nghề nuôi cá tra (Pangasianodon hypophthalmus) (Phan và nnk, 2009; De Silva và Phuong, 2011; VASEP, 2013). Theo VASEP (2013), sản lượng cá tra năm 2012 đạt 1.190 nghìn tấn, xuất khẩu đi 142 nước trên thế giới và mang lại giá trị 1,7 tỷ USD. Nghề nuôi cá tra ở đồng bằng sông Cửu Long ngày càng phát triển với hình thức chủ yếu hiện nay là nuôi thâm canh trong ao đất (Phan và nnk, 2009; Bui và nnk, 2012) dọc theo các nhánh sông Tiền và sông Hậu (hình 1). Hai con sông này có chế độ thủy văn dao động phụ thuộc vào biên độ thủy triều và lưu lượng dòng chảy biến động theo mùa (Wassmann và nnk, 2004). Lũ lụt trong mùa mưa (tháng 5 đến tháng 11) và xâm nhập mặn trong mùa khô (tháng 12 đến tháng 4) sẽ ảnh hưởng đến diện tích phù hợp để nuôi cá tra. Theo báo cáo của Vụ Nuôi trồng thủy sản (2008) và các tác giả De Silva và Phuong (2011), độ mặn lớn hơn 4‰ sẽ ảnh hưởng xấu đến sự phát triển của cá tra. Những tác động này sẽ càng trở nên nguy hại hơn bởi mực nước biển dâng do tác động của biến đổi khí hậu. Ban liên chính phủ về biến đổi khí hậu (IPCC) (2007) dự báo mực nước biển toàn cầu sẽ dâng cao hơn trong thế kỷ 21 so với giai đoạn 1961 đến 2003. Báo cáo đánh giá lần thứ 5 (AR5) của IPCC (2013) tái khẳng định tỷ lệ tăng trung bình mực nước biển vẫn tiếp diễn từ đầu thế kỷ 20. Việt Nam được dự báo là một trong năm nước bị ảnh hưởng nặng nề nhất do mực nước biển dâng (Dasgupta và nnk, 2007). Năm 2009, Bộ Tài nguyên và Môi trường Việt Nam (Bộ TNMT) đã xây dựng các kịch bản về biến đổi khí hậu và nước biển dâng và tiếp tục cập nhật vào năm 2011 dựa trên các kịch bản phát thải khí nhà kính khác nhau của IPCC, và đã dự báo mực nước biển dâng vào năm 2100 ở nước ta là vào khoảng 75cm (Bộ TNMT, 2012). Bài báo này nhằm điểm qua các nghiên cứu về ảnh hưởng của mực nước biển dâng do biến đổi khí hậu đến nghề nuôi cá tra ở đồng bằng sông Cửu Long và các giải pháp ứng phó. Hình 1. Đồng bằng sông Cửu Long và các điểm nuôi cá tra (Nguồn: Anh và nnk, 2014) Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản Số 2/2016 132 • TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG II. NỘI DUNG 1. Ảnh hưởng của biến đổi khí hậu đến nghề nuôi cá tra ở đồng bằng sông Cửu Long Ngay từ những năm đầu của thế kỷ 21, nhiều nhà nghiên cứu đã sử dụng mô hình thủy lực và hệ thông tin địa lý (GIS) để mô phỏng các kịch bản nước biển dâng ở đồng bằng sông Cửu Long và đã kết luận rằng lũ lụt trong mùa mưa sẽ có đỉnh cao hơn và kéo dài hơn trong khi xâm nhập mặn vào mùa khô sẽ lan rộng với độ mặn tăng (Wassmann và nnk, 2004; Hoa và nnk, 2007, 2008; Khang và nnk, 2008). Wassmann và nnk (2004) ước tính cao nhất có đến 60% diện tích trồng lúa ở đồng bằng sông Cửu Long bị ảnh hưởng do lũ lụt dâng cao trong mùa lũ theo các kịch bản nước biển dâng +20 cm và +45 cm. Khang và nnk (2008) đã mô phỏng sự thay đổi lưu lượng và xâm nhập mặn ở đồng bằng sông Cửu Long theo các kịch bản nước biển dâng +20 cm và +45 cm và từ đó ước tính diện tích trồng lúa bị ảnh hưởng do độ mặn tăng lần lượt là 200.000 ha và 400.000 ha. Đối với nghề nuôi cá tra, các nghiên cứu (Phan và nnk, 2009; Trương Hoàng Minh và nnk, 2014; Anh và nnk, 2015) đã phân tích ở vùng ven biển, người nuôi gặp hiện tượng xâm nhập mặn tăng cao vào mùa khô nên các ao nuôi gần biển có sản lượng giảm sút. Trong những tháng đầu năm 2011 ở Bến Tre, xâm nhập mặn kéo dài gây khó khăn cho việc cấp nước và thay nước cho ao nuôi cũng như dịch bệnh xảy ra nhiều. Theo báo cáo của Sở NN&PTNT thì tỷ lệ hao hụ t khá cao từ 10 - 15% ở các ao cá có khối lượng dưới 100g/con và 5 - 10% ở ao cá có khối lượng 100 - 500g/con, đồng thời tốc độ tăng tưởng của cá có dấu hiệu chậm hơn so với cùng kỳ năm trước (Sở NN&PTNT Bến Tre, 2012). Kam và nnk (2012) đã nhận định rằng người nuôi cá tra vùng ven biển sẽ bị mất một nửa lợi nhuận vì ảnh hưởng của biến đổi khí hậu. Trong khi đó, Thân Thị Hiền và nnk (2010), Trương Hoàng Minh và nnk (2014), Anh và nnk (2015) khẳng định rằng vùng nuôi cá tra tại các tỉnh như An Giang, Đồng Tháp và Cần Thơ bị ảnh hưởng nhiều bởi việc tăng các cơn lũ vào mùa mưa. Trương Hoàng Minh và nkk (2014) nhận định người nuôi cá tra đã phải tăng chi phí đắp bờ đê bao khoảng 20 triệu VNĐ/ha để đối phó với mực nước sông dâng cao. Anh và nnk (2015) dựa trên điều tra và phân tích thống kê đã khẳng định 75% người nuôi ở An Giang và Đồng Tháp đã bị giảm lợi nhuận khi bị những đợt lũ lớn bất thường. Anh và nnk (2014) đã sử dụng mô hình MIKE 11 và kỹ thuật GIS để dự báo ảnh hưởng của 3 kịch bản nước biển dâng +30 cm, +50 cm và +75 cm đến các vùng nuôi cá tra (thời điểm năm 2009) ở đồng bằng sông Cửu Long. Mức xâm nhập mặn tăng từ tháng 1 đến tháng 4 (mùa khô) ở tất cả các kịch bản nhưng vùng bị ảnh hưởng mở rộng nhiều khi nước biển dâng ở kịch bản +50cm và +75cm và mức độ mặn thấp (<4‰) khuếch tán nhanh hơn độ mặn trên 4‰ (bảng 1). Bảng 1. Diện tích của đồng bằng sông Cửu Long bị ảnh hưởng do xâm nhập mặn theo các kịch bản nước biển dâng (đơn vị tính km2) 2005 Các kịch bản nước biển dâng Độ mặn (‰) 0 cm + 30 cm % + 50 cm % + 75 cm % < 4 4 780 6 430 + 35 7 450 + 56 8 090 + 69 4 – 10 2 360 2 515 + 7 2 745 + 16 3 240 + 37 10 – 20 2 280 2 610 + 14 2 530 + 11 2 570 + 13 > 20 9 380 9 240 - 1 9 170 - 2 9 130 - 3 Diện tích >4‰ bị ảnh hưởng 14 020 14 365 + 2 14 445 + 3 14 940 + 7 (Nguồn: Anh và nnk, 2014) Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản Số 2/2016 TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG • 133 Trên sông Hậu, tại thời điểm hiện tại đường đẳng mặn 4‰ xâm nhập sâu 29 km vào tháng 3 và 32 km vào tháng 4 và khi nước biển dâng +50 cm sẽ tiến sâu 35 km vào tháng 3 và 38 km vào tháng 4 (Anh và nnk, 2014). Diện tích nuôi cá tra biến động theo từng năm do ảnh hưởng của nhiều nguyên nhân khác nhau chẳng hạn như giá cả, thị trường hay môi trường nên Anh và nnk (2014) sử dụng đường đẳng mặn 4‰ để dự báo phạm vi ảnh hưởng của xâm nhập mặn do tác động của biến đổi khí hậu (hình 2). Số ao nuôi cá tra bị ảnh hưởng do xâm nhập mặn trên 4‰, ngưỡng gây tác hại đến sinh trưởng của cá tra, ở các tỉnh ven biển Sóc Trăng, Bến Tre và Trà Vinh tăng không chỉ vì xâm nhập mặn vào sâu hơn trong đất liền mà còn vì thời gian bị xâm nhập mặn kéo dài hơn với mức độ mặn cao hơn (Anh và nnk, 2014). Hình 2. Dự báo vùng nuôi cá tra ở các tỉnh ven biển ở đồng bằng sông Cửu Long sẽ bị ảnh hưởng do xâm nhập mặn (đường đẳng mặn 4‰) theo các kịch bản nước biển dâng ( Nguồn; Anh và nnk, 2014) Nước biển dâng cũng hạn chế dòng chảy của sông từ thượng nguồn đổ vào biển dẫn đến thời gian lũ lụt hàng năm vào cuối mùa mưa ở đồng bằng sông Cửu Long cũng kéo dài hơn và vùng ngập nước cũng mở rộng hơn. Anh và nnk (2014) đã mô phỏng mực nước sông Cửu Long dâng vào mùa lũ theo các kịch bản nước biển dâng +30cm, +50cm và +75cm và đã xác định mực nước cao nhất tại các trạm đo đều tăng khi so sánh với thời điểm năm 2000, là năm có trận lũ lịch sử (bảng 2). Bảng 2. Mực nước cao nhất (m) tại các trạm đo theo các kịch bản nước biển dâng so với đỉnh lũ năm 2000 Trạm đo Các kịch bản nước biển dâng 2000 +30cm +50cm +75cm Tân Châu 5,10 5,16 5,24 5,33 Vàm Nao 3,87 3,96 4,01 4,10 Đại Ngãi 1,78 2,07 2,26 2,50 Tân An 1,60 1,89 2,09 2,32 ( Nguồn; Anh và nnk, 2014) Các tỉnh ven biển được dự báo lụt sẽ đến sớm hơn và kéo dài hơn trong khi đỉnh lũ sẽ cao hơn ở An Giang và Đồng Tháp, đường đẳng lũ trên 3 m vào tháng 10 mở rộng về phía Vĩnh Long và Cần Thơ, và tất cả các vùng nuôi cá tra sẽ phải đối phó với đường mực nước 2 m khi nước biển dâng +50 cm (hình 3) (Anh và nnk, 2014). Hình 3. Đường đẳng lũ vào tháng 10 năm 2000 (năm có trận lũ lịch sử) và theo các kịch bản nước biển dâng +50 cm và +75 cm. (Nguồn: Anh và nnk, 2014) Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản Số 2/2016 134 • TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG 2. Các biện pháp ứng phó với biến đổi khí hậu của nghề nuôi cá tra Hiện nay, sự thích ứng với biến đổi khí hậu có ý nghĩa sống còn (Gbetibouo, 2009). Smith và nnk (2001) đã định nghĩa sự thích ứng là bất cứ sự điều chỉnh nào trong các hệ thống tự nhiên hoặc con người nhằm đáp trả những tác động đã có hoặc dự báo của biến đổi khí hậu. Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam (MARD) đã đề ra chương trình hành động thích ứng với biến đổi khí hậu của ngành giai đoạn 2008-2020 tập trung vào đảm bảo sự an toàn của cư dân, sản xuất nông nghiệp và an ninh lương thực bền vững, hệ thống đê điều và cơ sở hạ tầng an toàn (MARD, 2008). Theo Smit và nnk (2000), giải pháp thích ứng với biến đổi khí hậu rất đa dạng cho cả quá trình và hình thức thực hiện. Carter và nnk (1994) phân biệt giữa thích ứng “tự phát” (autonomous) và thích ứng có “kế hoạch” (planned). Các cơ quan tổ chức thường đề ra các thích ứng kế hoạch trong khi cá nhân và nhóm cá nhân có thích ứng tự phát hoặc kế hoạch hoặc cả hai (Smit và nnk, 2000). Nath và Behera (2011) nhấn mạnh là chính phủ và các tổ chức xã hội đóng một vai trò quan trọng trong việc đưa ra các biện pháp thích ứng hiệu quả với biến đổi khí hậu. IPCC (2014) ghi nhận một vài biện pháp đã dùng để giúp nuôi trồng thủy sản thích ứng với tác động của biến đổi khí hậu chẳng hạn như những người nuôi sò điệp vùng tây bắc Mỹ thích ứng tự phát với sự thay đổi hàm lượng acid trong nước biển bằng cách ngay lập tức chặn nước vào khi pH xuống dưới ngưỡng cho phép, hay chọn thích ứng kế hoạch bằng cách chủ động di dời cơ sở nuôi đến Hawaii. Để đối phó với xâm nhập mặn ảnh hưởng đến diện tích nuôi cá tra ở vùng ven biển đồng bằng sông Cửu Long, người nuôi cá tra đã tự thích ứng bằng cách điều chỉnh thời vụ, giảm mật độ thả, thả con giống lớn và cải tiến kỹ thuật nuôi (Trương Hoàng Minh và nnk, 2014; Anh và nnk, 2015). Tùy thuộc vào tình hình xâm nhập mặn, người nuôi chủ động sản xuất 2 vụ/năm hay 3 vụ/2 năm và lùi ngày thả giống cũng như thu hoạch sớm để tránh những ngày độ mặn cao. Theo Phan và nnk (2009) kích thước con giống cá tra khi thả biến thiên từ 1,5 cm đến 18 cm và mật độ thả cũng dao động từ 18 đến 125 con/m2, do đó tùy điều kiện cụ thể người nuôi sẽ chọn con giống có kích thước lớn và thả với mật độ thấp để rút ngắn thời gian nuôi và giảm thiểu rủi ro. Bên cạnh đó, người nuôi đã dùng các biện pháp như thay nước hằng ngày khi chất lượng nước đảm bảo, sử dụng men vi sinh để cải thiện sức khỏe cá, dùng thức ăn chất lượng tốt hơn để cải thiện tốc độ tăng trưởng (Trương Hoàng Minh và nnk, 2014). De Silva và Soto (2009) đề xuất giải pháp phát triển cá tra có ngưỡng chịu mặn cao. Nhiều nghiên cứu thực nghiệm về khả năng chịu mặn của cá tra đã được thực hiện ở Đại học Cần Thơ. Nguyễn Chí Lâm và nnk (2011) nghiên cứu ảnh hưởng của độ mặn ở các mức 0, 3, 6, 9, 12 và 15‰ đến sự thay đổi lý sinh và sinh trưởng của các cá thể cá tra giống có khối lượng trung bình 25g. Kết quả cho thấy cá có thể nuôi trong độ mặn 9‰ nhưng tốc độ sinh trưởng giảm rõ rệt. Đỗ Thi Thanh Hương và Trần Nguyễn Thế Quyền (2012) nghiên cứu ngưỡng độ mặn của trứng và ấu trùng cá tra và công bố rằng phôi cá tra có thể phát triển và nở trong nước lợ độ mặn đến 11‰. Những nghiên cứu trên tuy mới chỉ là bước đầu nhưng cũng có cơ sở để đề xuất giải pháp thích ứng với xâm nhập mặn bằng việc phát triển giống cá tra có ngưỡng chịu mặn cao. De Silva và Phuong (2011) chỉ ra rằng thuận lợi của việc nuôi cá tra có ngưỡng chịu mặn cao đòi hỏi ít sự thay đổi đối với cơ sở hạ tầng và quá trình sản xuất cũng như tránh được việc tìm kiếm thị trường mới so với việc nuôi thả các loài thủy sản chịu mặn khác. Tuy nhiên hiệu quả chi phí cho cả một quá trình dài của chiến lược này cần phải được nghiên cứu thêm. Để đối phó với mực nước dâng cao vào mùa lũ do nước biển dâng, các ao nuôi cá tra ở các tỉnh An Giang, Đồng Tháp, Cần Thơ và Vĩnh Long phải nâng cao đê bao và tăng chi phí Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản Số 2/2016 TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG • 135 cho việc thay nước và xử lý nước nuôi (Thân Thị Hiền và nnk, 2010; Trương Hoàng Minh và nnk, 2014; Anh và nnk, 2014, 2015). Lê Xuân Sinh (2008) đã chỉ ra chi phí để duy tu hệ thống đê bao của các hộ nuôi cá tra ở vùng trung và thượng lưu sông Cửu Long chiếm 0,23% chi phí sản xuất (cho 1 ha/vụ nuôi) và vùng hạ lưu là 0,12%. Kam và nnk (2012) đã ước tính tổng chi phí nâng cao hệ thống đê bao của tất cả hộ nuôi để đối phó với mực nước biển dâng ở vùng sâu trong nội địa) là 14,6 triệu USD trong khi ở vùng ven biển là 3 triệu USD. Kam và nnk (2012) cho rằng với mức đầu tư này nếu nằm trong biện pháp thích ứng kế hoạch của chính phủ như chương trình xây dựng hệ thống đê bao chống lũ sẽ không chỉ người nuôi cá tra hưởng lợi mà còn mang lại lợi ích cho các ngành sản xuất nông nghiệp khác như nghề trồng lúa và như thế chi phí thích ứng tự phát của người nuôi cá tra sẽ được giảm thiểu đáng kể. Nghiên cứu của Anh và nnk (2015) cho thấy ngoài việc tự phát đối phó với tác động của biến đổi khí hậu, người nuôi cá tra còn mong nhận được sự hỗ trợ từ chính quyền và các bên liên quan khác để sự ứng phó hiệu quả hơn. Nguồn hỗ trợ có thể từ phía các cơ quan hữu quan như Trường, Viện, cơ quan thủy sản (10,2% số người được hỏi); chính quyền địa phương (4,7%); doanh nghiệp tư nhân (6,0%); tập trung chủ yếu vào các hình thức như tư vấn kỹ thuật (53,2%), hỗ trợ tài chính (20,9%) và tập huấn về kỹ thuật và quản lý sản xuất (19,6%). Tuy nhiên, hiệu quả của chiến lược thích ứng với biến đổi khí hậu của người nuôi cá tra không chỉ dựa trên việc tập trung vào cải thiện kiến thức và kỹ năng sản xuất mà còn cần đẩy mạnh tuyên truyền nâng cao nhận thức của người nuôi về tác động và biện pháp ứng phó với biến đổi khí hậu (Anh và nnk, 2015). Tóm lại những dẫn chứng trong bài viết này đã dự báo các tác động không thể tránh khỏi bởi mực nước biển dâng do biến đổi khí hậu đến vùng đồng bằng sông Cửu Long nói chung và nghề nuôi cá tra nói riêng. Hiện nay người nuôi cá tra phải tự thích ứng với các hiện tượng thời tiết cực đoan và ảnh hưởng tăng dần của mực nước biển dâng. Tuy nhiên trong tương lai, các biện pháp thích ứng phải được kết hợp chặt chẽ giữa tự phát và kế hoạch, giữa người nuôi và các tổ chức liên quan trong một thể thống nhất như quản lý tổng hợp vùng ven biển, áp dụng cách tiếp cận sinh thái trong nuôi trồng thủy sản, tăng cường chất lượng con giống có khả năng chịu mặn, cải thiện kỹ thuật nuôi và tăng cường nhận thức người nuôi để việc ứng phó với biến đổi khí hậu của nghề nuôi cá tra ở đồng bằng sông Cửu Long đạt hiệu quả cao. TÀI LIỆU THAM KHẢO Tiếng Việt 1. Bộ TNMT, 2012. Kịch bản biến đổi khí hậu và mực nước biển dâng cho Việt Nam. NXB Hà Nội. 2. Thân Thị Hiền, Nguyễn Văn Công và Vũ Thị Thảo, 2010. Nghiên cứu đề xuất giải pháp thích ứng biến đổi khí hậu ( BĐKH) trong hoạt động nuôi trồng thủy sản (NTTS) tại khu vực sông Cửu Long. Hội thảo quốc tế: Giải pháp thích ứng BĐKH vùng đồng bằng sông Cửu Long: 24-6/2010, Rạch Giá, Kiên Giang, Việt Nam 3. Đỗ Thị Thanh Hương và Trần Nguyễn Thế Quyên, 2012. Ảnh hưởng của độ mặn lên sự phát triển phôi và điều hòa áp suất thẩm thấu của cá tra (Pangasianodon hypophthalmus) giai đoạn cá bột và hương. Tạp chí Khoa học 2012:21b 29-37 Trường Đại học Cần Thơ 4. Nguyễn Chí Lâm, Đỗ Thị Thanh Hương, Vũ Nam Sơn và Nguyễn Thanh Phương, 2011. Ảnh hưởng của độ mặn lên thay đổi sinh lý và tăng trưởng của cá tra (Pangasianodon hypophthalmus) giống. Tạp chí Khoa học 2011:17a 60-69 Trường Đại học Cần Thơ Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản Số 2/2016 136 • TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG 5. Trương Hoàng Minh, Đào Minh Hải, Nguyễn Thanh Phương, 2014. Ảnh hưởng của biến đổi khí hậu đến nghề nuôi cá tra (Pangasianodon hypophthalmus) ở đồng bằng sông Cửu Long. Tạp chí ĐH QG Hà Nội 1(2014): 86-99 6. Lê Xuân Sinh, 2008. Hiện trạng về nghề nuôi cá tra ở đồng bằng sông Cửu Long. Khoa Thủy sản, Trường Đại học Cần Thơ, 2008. 7. Sở NN&PTNT Bến Tre, 2012. Báo cáo tình hình nuôi cá tra năm 2011 và kế hoạch cho năm 2012. 8. Tổng cục thống kê, 2014. Cơ sở dữ liệu. www.gso.gov.vn 9. VASEP, 2013. Giữ ổn định diện tích nuôi cá tra. www.vasep.com.vn 10. Vụ Nuôi trồng thủy sản, 2008. Quy hoạch phát triển nghề nuôi cá tra đến 2010 và chiến lược đến 2020. Tiếng Anh 11. Anh Lam Nguyen., Vinh, D.H., Bosma, R., Verreth, J.A.J., Leemans, R., De Silva, S.S., 2014. Simulated impacts of climate change on current farming locations of striped catfi sh (Pangasianodonhypophthalmus; Sauvage) in the Mekong Delta, Vietnam. AMBIO (2014) 43:1059-1068. DOI 10.1007/s13280-014-0519-6. 12. Anh Lam Nguyen, Minh Hoang Truong, Johan AJ Verreth, Rik Leemans, Roel H Bosma and Sena S De Silva, 2015. Exploring the climate change concerns of striped catfi sh producers in the Mekong Delta, Vietnam. SpringerPlus (2015) 4:46. DOI 10.1186/s40064-015-0822-0 13. Bui, Tam M., Lam T. Phan, B. A. Ingram, Thuy T. T. Nguyen, G. J. Gooley, Hao V. Nguyen, Phuong V. Nguyen, and S. S. De Silva. 2010. Seed production practices of striped catfi sh, Pangasianodon 14. Carter, T.R., Parry, M.L., Harasawa, H., Nishioka, S., 1994. IPCC Technical guidelines for assessing climate change impacts and adaptation. Department of geography, University College, London. 15. Dasgupta, S, B. Laplante, C. Meisner, D. Wheeler, and J. Yan. 2007. The Impact of Sea Level Rise on Developing Countries: A Comparative Analysis. World Bank Policy Research Working Paper 4136, Washington, DC. 16. De Silva, S.S., N. T. Phuong (2011) Striped catfi sh farming in the Mekong Delta a tumultuous path to a global success. Reviews in Aquaculture 3, 45-73. 17. FAO, 2014. The State of World Fisheries and Aquaculture. Fisheries and Aquaculture Department, FAO, Rome, Italy. 18. Gbetibouo, G.A., 2009. Understanding Farmers’ Perceptions and Adaptations to Climate Change and Variability The Case of the Limpopo Basin, South Africa. IFPRI (International Food Policy research institute). Discussion Paper 00849 19. Hoa, Le T. V., Nguyen H. Nhan, E. Wolanski, Tran T. Cong, and H. Shigekoa, 2007. The combined impact on the fl ooding in Vietnam’s Mekong River delta of local man-made structures, sea level rise, and dams upstream in the river catchment. Estuarine, Coastal and Shelf Science 71, 110-116 20. Hoa, Le T. V., H. Shigeko, Nguyen H. Nhan, and Tran T. Cong, 2008. Infrastructure effects on fl oods in the Mekong River Delta in Vietnam. Hydrological Processes 22, 1359–1372. 21. IPCC, 2007: Climate Change 2007: The Physical Science Basis. Contribution of Working Group I to the Fourth Assessment Report of the Intergovernmental Panel on Climate Change. Cambridge University Press, Cambridge, United Kingdom and New York, NY, USA, 996 pp. 22. IPCC, 2013: Climate Change 2013: The Physical Science Basis. Contribution of Working Group I to the Fifth Assessment Report of the Intergovernmental Panel on Climate Change. Cambridge University Press, Cambridge, UK and New York, NY, USA, 1535 pp. 23. IPCC, 2014. Climate change: Implication for fi sheries and aquaculture. University of Cambridge. 24. Kam, S.P., Badjeck, M.C., The, L., The, L., Tran, N., 2012. Autonomous adaptation to climate change by shrimp and catfi sh farmers in Vietnam’s Mekong River delta. WorldFish Working Paper: 2012-24. 25. Khang Nguyen Duy, Akihiro Kotera, Toshihiro Sakamoto, and Masayuki Yokozawa, 2008. Sensitivity of salinity intrusion to sea level rise and river fl ow change in Vietnamese Mekong Delta - impacts on availability of irrigation water for rice cropping. J. Agric. Meterol. 64: 167-176 Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản Số 2/2016 TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG • 137 26. MARD (Ministry of Agriculture and Rural Development), 2008. Action plan framework for adaptation and mitigation of climate change of the agriculture and rural development sector period 2008-2020. MARD, Ha Noi, Vietnam. 27. Nath, P.K., and Behera, B., 2011. A critical review of impact of and adaptation to climate change in developed and developing economies. Environment, Development and Sustainability, 13: 141-162. 28. Phan, Lam T., Bui, Tam M., Nguyen, Thuy T.T., Gooley, G.J., Ingram, B.A., Nguyen Hao V., Nguyen Phuong T. De Silva Sena S., 2009. Current status of farming practices of striped catfi sh, Pangasianodon hypophthalmus in the Mekong Delta, Vietnam. Aquaculture, 296, 227-236. 29. Smit, B., Burton, I., Klein, R.J.T., Wandel, J., 2000. An anatomy of adaptation to climate change and variability. Climatic change 45: 223-251. 30. Smith, B., Pilifosova, O., Burton, I., Challenger, B., Huq, S., Klein, R.J.T, Yohe, G., 2001. Adaptation to climate change in the context of sustainable development and equity. In:. J. J. McCarthy, O. F. Canziani, N. A. Leary, D. J. Dokken, and K. S. White, editors. Climate Change 2001. Impacts, Adaptation, and Vulnerability. Cambridge University Press, Cambridge. Pp 897-912 31. Wassmann, R., N. X. Hien, C. T. Hoanh, and T. P. Tuong, 2004. Sea level rise affecting the Vietnamese Mekong Delta: water elevation in the fl ood season and implications for rice production. Climatic change 66: 89-107, 2004. Kluwer academic publishers, 2004.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfnghe_nuoi_ca_tra_pangasianodon_hypophthalmus_sauvage_1878_o.pdf