Nên trả cổ tức bằng cổ phiếu
Nên trả cổ tức bằng cổ phiếu
Nhiều công ty đại chúng đang phải suy xét thận trọng đối với vấn đề
trả cổ tức cho năm tới bằng cổ phiếu hay bằng tiền mặt? Vào “mùa” đại hội
cổ đông của các công ty niêm yết. Qua một số đại hội cổ đông, câu trả lời
của rất nhiều cổ đông là khá rõ ràng: trả bằng tiền mặt và không chấp nhận
việc trả bằng cổ phiếu, nhất là trong thời điểm thị trường chứng khoán đang
suy giảm.
Tuy nhiên, quan điểm của bài viết là: nên trả cổ tức bằng cổ phiếu
thay cho tiền mặt!
Thị trường lên, cổ đông muốn cổ tức bằng cổ phiếu
Thị trường chứng khoán Việt Nam được coi là bước vào giai đoạn
“hoàng kim” từ cuối năm 2006, khi Việt Nam chính thức trở thành thành
viên WTO. Với sự tham gia mạnh mẽ mang tính xúc tác của khối đầu tư
nước ngoài, giá của tất cả cổ phiếu niêm yết tăng nhanh chóng, VN-Index
lên điểm mạnh mẽ, từ khoảng 500 điểm lên đến đỉnh 1.179,32 điểm ngày
8 trang |
Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 2100 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Nên trả cổ tức bằng cổ phiếu, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Nên trả cổ tức bằng cổ phiếu
Nhiều công ty đại chúng đang phải suy xét thận trọng đối với vấn đề
trả cổ tức cho năm tới bằng cổ phiếu hay bằng tiền mặt? Vào “mùa” đại hội
cổ đông của các công ty niêm yết. Qua một số đại hội cổ đông, câu trả lời
của rất nhiều cổ đông là khá rõ ràng: trả bằng tiền mặt và không chấp nhận
việc trả bằng cổ phiếu, nhất là trong thời điểm thị trường chứng khoán đang
suy giảm.
Tuy nhiên, quan điểm của bài viết là: nên trả cổ tức bằng cổ phiếu
thay cho tiền mặt!
Thị trường lên, cổ đông muốn cổ tức bằng cổ phiếu
Thị trường chứng khoán Việt Nam được coi là bước vào giai đoạn
“hoàng kim” từ cuối năm 2006, khi Việt Nam chính thức trở thành thành
viên WTO. Với sự tham gia mạnh mẽ mang tính xúc tác của khối đầu tư
nước ngoài, giá của tất cả cổ phiếu niêm yết tăng nhanh chóng, VN-Index
lên điểm mạnh mẽ, từ khoảng 500 điểm lên đến đỉnh 1.179,32 điểm ngày
12/3/2007. Diễn biến của thị trường chứng khoán trở thành tâm điểm trên rất
nhiều mặt báo cũng như các mạng truyền thông khác (thậm chí cho đến
nay).
Tranh thủ cơ hội trên, việc phát hành thêm cổ phiếu để tăng vốn cũng
được nhiều công ty niêm yết, công ty chứng khoán và công ty đại chúng
khác tận dụng tối đa. Nhiều công ty trong vòng 1 năm đã tổ chức 2 lần phát
hành thêm cổ phiếu.
Tại thời điểm đó, thì việc tăng vốn nói chung, dù được thực hiện để
làm gì (tài trợ cho các dự án, xây nhà máy mới, mua tàu biển mới... hay chỉ
cần lý do là tăng vốn điều lệ) hay dưới hình thức nào đi chăng nữa (phát
hành cổ phiếu thưởng, trả cổ tức bằng cổ phiếu hay phát hành quyền mua cổ
phiếu mới) đều được cổ đông ủng hộ nhiệt liệt, đơn giản là cổ phiếu cho dù
được điều chỉnh giảm theo tỷ lệ phân phối thì cũng vẫn tiếp tục tăng giá.
Mức cổ tức bằng tiền mặt không thể nào bằng mức lãi do chênh lệch giá.
Tuy nhiên, khi thị trường biến động thì nhà đầu tư càng nắm nhiều cổ
phiếu càng lỗ. Cắt lỗ là mục tiêu hàng đầu, nhưng đôi khi trong các đợt phát
hành, nhà đầu tư nếu còn nắm cổ phiếu (thực tế có mấy ai hoàn toàn cắt
được lỗ?) trước ngày chốt sổ cổ đông thì buộc phải nhận (hoặc mua) cổ
phiếu mới, nếu không phải chịu thêm khoản lỗ do điều chỉnh giá tham chiếu.
Ngoài ra, các cổ phiếu mới phải mất 1-2 tháng mới về tài khoản, do
đó lỗ càng thêm nặng. Cổ tức bằng tiền mặt, tuy ít những cũng trở thành một
khoản thu nhập thật sự. Do đó nhiều người từ chối việc phát hành thêm cổ
phiếu, và họ thấy rằng cùng nhau phản đối tại các cuộc họp đại hội cổ đông
mới có hy vọng khiến cho đợt phát hành không được thực hiện.
Chúng tôi cho rằng, ở đây có mâu thuẫn trong việc theo đuổi quyền
lợi giữa đôi bên: doanh nghiệp và cổ đông. Mâu thuẫn này xuất phát từ sự
khác biệt trong chính mục tiêu đầu tư giữa các cổ đông lớn (vốn gắn liền lợi
ích của doanh nghiệp với lợi ích của chính mình trong dài hạn) và cổ đông
nhỏ (vốn chỉ là cổ đông “tạm thời” – do “lướt sóng”, hay đầu tư ngắn hạn)
của cùng một công ty, và sâu xa hơn, nó xuất phát từ sự “ngộ nhận” của
nhiều nhà đầu tư cũng như sự “nuông chiều” của thị trường chứng khoán
Việt Nam trong hơn 1 năm qua.
Cổ tức cao không phải lúc nào cũng tốt
Trong thời gian qua, nhà đầu tư Việt Nam có vẻ quan tâm đến các
thông tin về trả cổ tức hơn là các thông tin về hoạt động kinh doanh của
doanh nghiệp. Bản thân các công ty cũng nhận thức được tầm quan trọng đó
và họ thường đưa ra các mức cổ tức cao làm “mồi câu” trước khi thực hiện
việc phát hành thêm.
Đó là ngộ nhận thứ nhất! Không phải lúc nào cổ tức cao cũng là
điều tốt.
Cổ tức là một trong những chính sách quan trọng của bất cứ công ty
cổ phần đại chúng nào trên thế giới, không chỉ ở Việt Nam. Lãnh đạo doanh
nghiệp luôn cân nhắc thận trọng về chính sách này vì nó phải đáp ứng đồng
thời 3 mục tiêu: làm hài lòng các cổ đông qua việc trả cổ tức định kỳ, đảm
bảo luôn có tái đầu tư để phát triển doanh nghiệp, mức trả cổ tức phải ổn
định để dự phòng cho cả những năm kinh doanh không như mong đợi (vì
một khi đã trả cổ tức cao trong 1 hay vài năm trước, doanh nghiệp sẽ “khó
ăn nói” với cổ đông nếu năm sau hạ mức cổ tức xuống). Trong 3 mục tiêu
trên, mục tiêu thứ hai là quan trọng nhất.
Bản thân doanh nghiệp, hay nói cách khác là ban lãnh đạo doanh
nghiệp – hơn ai hết hiểu rõ những lợi thế và khó khăn của mình. Họ biết lúc
nào công ty cần vốn và cần giữ lại lợi nhuận để bổ sung cho nguồn vốn của
mình, cũng như lúc nào mới bắt đầu tăng thêm cổ tức cho cổ đông.
Do đó, nếu doanh nghiệp đang làm ăn tốt, thì nên giữ lại lợi nhuận để
tái đầu tư. Bản thân cổ đông cũng sẽ được hưởng lợi ích cho dù không nhận
cổ tức, vì khoản lợi nhuận giữ lại đó sẽ góp phần làm gia tăng các giá trị nội
tại của doanh nghiệp, và từ đó sẽ làm tăng giá cổ phiếu trong tương lai.
Nếu phải trả cổ tức trong khi thực tế doanh nghiệp lại đang rất cần
vốn, công ty có thể trả cổ tức bằng cổ phiếu thay cho tiền mặt. Bản chất của
việc trả cổ tức bằng cổ phiếu là một cam kết tái đầu tư của cổ đông để sau đó
chính cổ đông sẽ thu được nhiều hơn nữa lợi nhuận trong tương lai.
Trả cổ tức bằng cổ phiếu cũng làm giá cổ phiếu trên thị trường chứng
khoán được điều chỉnh giảm xuống và trở nên “rẻ hơn nữa” trong con mắt
của nhà đầu tư, đặc biệt khi thị trường đang lên.
Cổ tức trả bằng tiền không giúp doanh nghiệp bớt khó khăn
Thị trường chứng khoán hơn một năm qua đã giúp cho rất nhiều
doanh nghiệp huy động thêm vốn để mở rộng sản xuất kinh doanh, đó là lợi
ích rất lớn mà doanh nghiệp được hưởng. Tuy nhiên, việc huy động vốn dần
dần trở nên quá đà, một phần cũng từ sự “nuông chiều”, “dễ dãi” của nhà
đầu tư và cả thị trường chứng khoán.
Đứng từ góc độ đầu tư, khi giá cổ phiếu đang tăng thì cổ đông (tên gọi
khác của nhà đầu tư, ở đây không kể đến dân “lướt sóng”) rất dễ dàng chấp
nhận việc tăng vốn của doanh nghiệp mà không quan tâm mấy đến hiệu quả
sử dụng vốn tăng thêm đó.
Đứng từ góc độ chủ doanh nghiệp, đây là cơ hội quá lớn để thu hút
thêm tiền vốn mà không phải trả lãi vay. Đứng từ góc độ quản lý thị trường,
Ủy ban Chứng khoán đã “dễ dãi” khi chỉ bắt công ty công bố bản cáo bạch
mà không bắt buộc họ phải công bố bản báo cáo khả thi của việc sử dụng
vốn.
Vậy rủi ro là gì? Đó là rủi ro “loãng giá cổ phiếu” do doanh nghiệp
phát hành quá mức, cũng như rủi ro cho chính doanh nghiệp do sau này phải
dành thêm rất nhiều tiền để trả cổ tức do số cổ phiếu tăng lên quá nhanh và
quá nhiều.
Khi thị trường chứng khoán “đảo chiều”, nhà đầu tư còn gánh thêm
rủi ro do việc “cắt lỗ không thành công” do cổ phiếu mới phát hành chưa kịp
về đến tài khoản để bán đi. Do đó, họ sẽ không chấp nhận việc công ty phát
hành thêm cổ phiếu, cho dù chỉ để trả cổ tức (trường hợp này nhà đầu tư
không phải nộp tiền giống như phát hành quyền).
Đó là ngộ nhận thứ hai. Trả cổ tức bằng tiền mặt không giúp nhà
đầu tư mấy trong việc giảm lỗ mà còn khiến cho doanh nghiệp thêm khó
khăn!
Lý do thứ nhất là nền kinh tế nước ta năm nay rõ ràng là gặp nhiều
khó khăn. Doanh nghiệp không tránh được tình trạng vật giá đầu vào leo
thang, sản xuất đầu ra gặp trở ngại do sức tiêu thụ giảm, thị trường xuất khẩu
đang chịu tác động bởi tỷ giá và khả năng suy thoái kinh tế toàn cầu...
Nguồn vốn huy động từ thị trường chứng khoán bị thu hẹp do nhà đầu tư
phản đối, đi vay ngân hàng thì lãi suất cao...
Do đó, lợi nhuận chưa phân phối từ các năm trước trở thành nguồn
vốn hết sức quan trọng và cần được giữ lại để tái đầu tư hay dự phòng cho
những khó khăn sắp tới.
Đây là điều mà nhiều doanh nghiệp đang nhận thức rất rõ. Vì vậy, trả
cổ tức bằng tiền mặt khiến cho doanh nghiệp càng thêm khó khăn khi đi tìm
thêm nguồn vốn.
Lý do thứ hai là đối với các doanh nghiệp vẫn đang thực sự “ăn nên
làm ra” (cho dù có thể không bằng năm trước) nhưng giá cổ phiếu đang bị
giảm mạnh, việc trả cổ tức bằng cổ phiếu, tuy hơi khó khăn nhưng sẽ mang
lại lợi ích cho cả đôi bên: doanh nghiệp và cổ đông.
Trả cổ tức bằng cổ phiếu vẫn giúp doanh nghiệp giữ lại lợi nhuận để
tái đầu tư, tăng vốn điều lệ để mở rộng thêm các hạn mức cho vay hay huy
động vốn (đối với ngành ngân hàng), đồng thời giúp cho giá cổ phiếu trở
nên “rẻ hơn nữa” và mang lại tâm lý không thể “down” thêm được trong giới
đầu tư.
Sâu xa hơn, việc trả cổ tức này sẽ gia tăng giá trị cho cổ đông trong
tương lai, căn bản vẫn dựa trên hiệu quả kinh doanh của chính doanh nghiệp.
Do đó, trừ một số công ty có tốc độ tăng trưởng thấp hay đầu tư dàn
trải vào tài chính, chứng khoán hay bất động sản, chúng tôi mạnh dạn cho
rằng doanh nghiệp hoàn toàn vẫn có thể trả cổ tức bằng cổ phiếu. Chỉ có
điều, các chi tiết của việc phát hành thêm cổ phiếu cần được doanh nghiệp
cân nhắc thận trọng cho phù hợp với tình hình mới. Lãnh đạo công ty cũng
cần minh bạch và công khai nhiều thông tin hơn cho các cổ đông để họ tin
tưởng vào tương lai doanh nghiệp cũng như giá trị cổ phiếu.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Nên trả cổ tức bằng cổ phiếu.pdf