Nara, Cố đô cổ kính và duyên dáng.
Nara (奈良市, Nara-shi), là thủ phủ của tỉnh Nara, thuộc vùng Kansai, gần
Kyoto. Theo thống kê năm 2003, thành phố Nara có dân số là 364.869
người với mật độ 1.724 người trên 1 km2. Diện tích tòan thành phố là
211,6 km².
Các thành ph kết nghĩa với Nara trên thế giới gồm Gyeongju – kinh đô cổ
của vương quốc Silla thuộc miền Nam Hàn Quốc, Trường An – kinh đô cổ
của nhà Đường tại Trung Hoa, Toledo – thủ đô của Tây Ban Nha thời Trung
cổ, Versailles – cung điện nổi tiếng nước Pháp và Canberra – thủ đô nước
Úc.
Từ Osaka, ta có thể tới Nara bằng xe bus hoặc tàu JR (Japanese Rail), cả
hai phương tiện này đều đi mất khỏang một tiếng rưỡi để tới nhà ga
Kintetsu. Từ đó ta nên dùng xe bus, khá rẻ và tiện lợi, để tới Công viên
Nara, trung tâm thành phố. Tại đây, ta có thể đi bộ để thưởng lãm hầu
hết các danh thắng của thành phố.
Công viên Nara (Nara Koen) là một công viên rộng ở trung tâm Nara, xây
dựng vào năm 1880. Nơi đây chứa hầu hết những thắng cảnh của Nara
như Chùa Tôdaiji, Đền Kasuga Taisha, Chùa Kofukuji và Bảo tàng Quốc gia
Nara, một bảo tàng tập trung vô số những sưu tập về nghệ thuật Phật
giáo. Đây cũng là nơi ở của hàng trăm con hươu hoang dã tự do lang
thang. Theo Thần đạo Shinto, hươu được xem là sứ giả của các thần linh,
do đó những con hươu ở Nara đã trở thành biểu tượng của thành phố và
thậm chí được đăng kí để thành Tài sản Quốc gia. Lũ hươu được tự do
lang thang khắp công viên, có lẽ cũng nhờ phân của chúng gồm nhiều hạt
nhỏ như đầu ngón tay, khô và không dính bết, không hôi lắm và được các
nhân viên liên tục quét dọn.
Lọai đặc sản bánh trái nổi tiếng nhất của Nara là shika-senbei, được bày
bán khắp mỗi góc phố và tại mọi dãy bán đồ lưu niệm. Tuy nhiên xin bạn
đừng thử ăn bánh, shika-senbei có nghĩa là bánh xốp bột gạo dành cho
hươu ăn! (shika là con hươu, senbei hay ôsenbei là lọai bánh xốp bột gạo
đặc sản của Nhật). Một số con hươu đã đạt tới trình độ điêu luyện, tức
biết quỳ xuống để xin bánh của khách du lịch! Hươu Nara chạy khắp nơi
theo du khách để đòi ăn ôsenbệ, đôi khi lộng hành quá mức, quấy nhiễu
mọi người, làm bọn trẻ con khóc tóang và các cô gái hét vang vì sợ.
Ngoài bánh ôsenbei, có một món đặc sản địa phương khác là Kakino
hazushi, tức sushi cuốn lá hồng, vốn có nguồn gốc từ vùng Yoshino lân
cận. Yamato-cha là một đặc sản khác của Nhật, tức là nước trà xanh, vị
hơi chát, uống mát rất đã khát trong cái nóng của mùa hè tháng Chín ở
Nhật. Tại Nhật, tôi thấy thứ nước trà này, đóng vào chai nhựa 500 ml như
nước ngọt, còn phổ biến hơn cả Coca Cola.
NGUỒN GỐC TÊN GỌI NARA
Có một huyền thọai ph phường về nguồn gốc tên gọi của thành ph
“Nara” rất phổ biến đối với người dân Triều Tiên, cho rằng từ “Nara” xuất
phát từ cách phát âm tương tự của từ “quốc gia” trong tiếng Triều Tiên.
Tuy nhiên, điều này thiếu thuyết phục do đấy là một từ trong tiếng Triều
Tiên hiện đại và ít có căn cứ lịch sử nào để biết được ngôn ngữ cổ Baekje
thực tế ra sao vào thời kỳ Nara được hình thành. Hầu hết các nhà nghiên
cứu lịch sử và ngữ văn đều cho rằng tên gọi của thành phố bắt nguồn từ
tiếng Nhật “nadaraka” (なだ らか), vốn có nghĩa là một vùng đất bằng
phẳng.
ĐÔI NÉT VỀ LỊCH SỬ HÌNH THÀNH NARA
Thời kỳ Yayoi: các công cụ bằng đá cổ đại cùng các vật dụng đất nung
thuộc thời kỳ Jomôn đã được tìm thấy trong phạm vi thành phố Nara; tuy
nhiên, việc phát hiện những di chỉ thuộc thời kỳ Yayoi trong các khu vực
của thành phố như tại khu Saki, khu Kashiwagi, khu Suruga, và khu
Kubonoshô đã làm người ta tin rằng “các ngôi làng” này được xây dựng
trên các vùng đất phù hợp cho việc trồng lúa.
Thời kỳ Kofun: Trong thế kỷ thứ tư, nhiều gia tộc có ảnh hưởng và quyền
lực đã để lại những lăng mộ đồ sộ tại lòng chảo Yamato. Trong đó, hùng
mạnh nhất là gia tộc Wani, sau này đổi tên thành gia tộc Kasuga và đặc
biệt mạnh mẽ trong khu vực quanh thành phố Nara cho tới cuối thế kỷ
thứ sáu là một nhóm gồm gia tộc Ôya và Ono. Một thị tộc có quyền lực
khác, cư trú ở miền Tây Bắc thành ph Nara là gia tộc Hijikata, sau này
nổi tiếng dưới tên gọi thị tộc Sugawara.
Thời kỳ Nara: vào năm 710 (năm Wadô thứ 3), kinh đô được dời từ
Fujiwara-kyô ở Asuka về Heijô-kyô tại Nara, trở thành kinh đô cố định đầu
tiên trong lịch sử Nhật Bản (trước đó, Thiên hoàng đã từng dời đô đến hơn
60 lần!). Trong vòng 70 năm sau đó, Heijô-kyô trở thành kinh đô vô cùng
thịnh vượng của nước Nhật cổ. Thành ph này tọa lạc trên khu vực rộng
4.3 km từ tây sang đông và 4.8 km từ bắc xuống nam cộng thêm một khu
vực rộng 1.5 km từ đông sang tây và 2.4 km từ bắc xuống nam nằm về
phía đông thành phố, tên gọi là Gekyô (hay Kinh đô Bên ngoài). Thành
phố này, rực rỡ với những cung điện tuyệt đẹp, những ngôi chùa và dinh
cơ quý tộc, được chia một cách có chủ đích thành từng khu bởi con ph
chính, Suzaku-ôji, và những con phố lớn nhỏ khác. Trong đó, phố chính
Suzaku-ôji chạy từ Heijô-kyô thẳng xuống hướng nam xuyên qua trung
tâm thành phố. Bản quy họach quy mô lớn này được cho là sao chép
Trường An, kinh đô của nhà Đường bên Trung Hoa. Vào đỉnh cao của thời
kỳ này, kinh đô Nara có dân số vào khỏang 100.000 người cộng thêm rất
nhiều khách vãng lai từ các vương quốc khác, bao gồm cả nhà Đường.
Chính cư dân thời kỳ này đã tạo nên sự thăng hoa của văn hóa thời kỳ
Tempyô.
Những tu viện Phật giáo khổng lồ được dựng lên tại kinh đô mới này và
mau chóng tạo được thế lực trong triều chính. Năm 784, Thiên hoàng
Kammu buộc phải dời đô từ Heijo-kyo (Nara) về Nagaoka và rồi chuyển
tới Heian-kyo (Kyoto) nhằm bảo vệ vị thế của thiên hòang và triều đình,
thóat khỏi ảnh hưởng can thiệp lên công việc triều chính của các ngôi
chùa đầy thế lực tại Nara. Tại Kyoto, kinh đô tiếp tục tồn tại trong suốt
hơn một ngàn năm.
Một đặc điểm của Nara và thời kỳ Heian là sự suy tàn dần dần của những
ảnh hưởng từ Trung Hoa, tuy chúng vẫn còn tác động rất mạnh mẽ. Nhiều
kiến thức từ nước ngòai mang về tới thời này đã dần được “Nhật hóa”. Một
ví dụ cụ thể là để phổ biến cho tầng lớp bình dân, nhiều trung tâm hành
chính đã được thành lập để hỗ trợ hệ thống chính quyền vốn được sao
chép từ mô hình của Trung Hoa. Trong nghệ thuật cũng vậy, những
khuynh hướng bản địa mau chóng trở nên phổ biến. Sự phát triển của hệ
ký tự Kana đã giúp hình thành nền văn học Nhật Bản. Rất nhiều bản kinh
Phật vừa được nhập từ Trung Hoa trong thời Heian cũng đã được Nhật
hóa. Điều này thể hiện khá rõ trong kiến trúc: các chùa Nara cũng sử
dụng hệ đấu-cũng như Trung Hoa, nhưng kết hợp khá nhuần nhuyễn với
những tiêu chuẩn Nhật Bản, vật liệu Nhật Bản và không gian Nhật Bản.
Sau khi Heian-kyô bị dời đi: Sau khi kinh đô bị dời về Kyôto, phế tích
Heijô-kyô nhanh chóng trở thành ruộng lúa. Tuy nhiên, hầu hết những
ngôi chùa lớn đều còn lại nguyên vẹn, cho phép Nara tiếp tục tồn tại trong
lịch sử như một thành phố sở hữu vô số đền chùa. Khởi đầu là sự chấn
hưng ảnh hưởng của chùa Kôfuku-ji, kế đó là chùa Tôdai-ji và Gangô-ji,
thành phố thực sự trở thành một thành phố lịch sử, biến Nara trở thành
như ngày nay.
Cuộc tấn công của lãnh chúa Heike (thị tộc Taira): Trong cuộc tấn công
của thị tộc Taira năm 1180 (năm Jishô thứ 4), công trình Daibutsu-den
(Đại Phật Điện, nơi đặt bức tượng Phật khổng lồ) bị thiêu rụi và Nara đã
gần như bị tiêu hủy. Tuy nhiên, không lâu sau, chùa Tôdai-ji và Kôfuku-ji
được xây lại và thị trấn Nara lại được tái thiết xinh đẹp như xưa. Với rất
nhiều ngôi làng đã tồn tại trong khu vực này từ cuối thế kỷ 13 và nhờ có
sự phát triển vững vàng của nền thương mại và tiểu thủ công nghiệp,
Nara đã nở rộ thành một kinh đô thứ hai, bên cạnh Kyoto, cho tới khi nó
bị qua mặt do sự phát triển của Sakai vào cuối thế kỷ 15. Dần dần, những
ngôi làng mới được thành lập, và tới đầu thế kỷ 16, đã có 200 làng ở đây
với dân số tổng cộng là 25.000 người. Cùng thời gian này, hàng bông đã
qua tẩy trắng của Nara và hàng đồng thau của Nishinokyô đã trở thành
thứ hàng rất cao giá tại Kyôto, trong khi những sản phẩm khác của Nara
như gươm, đồ sơn mài, quạt nan cùng búp bê thì được xuất rất nhiều về
Sakai.
Lần thứ hai tai họa xảy đến với pho tượng Phật khổng lồ: năm 1560 (năm
Eiroku thứ 3), Hisahide Matsunaga cho xây lâu đài Tamon trên núi
Mikenji-yama. Đấy là lần đầu tiên trong lịch sử Nara bị cai trị bởi một
chiến binh. Bảy năm sau, trận ác chiến giữa Hisahide và lãnh chúa vùng
Miyoshi lan tới Nara và Daibutsu-den (Đại Phật Điện – LTD) một lần nữa bị
thiêu rụi. Tuy nhiên lần này nỗ lực phối hợp của tòan thể cư dân của thị
trấn Nara đã giúp giới hạn bớt những thiệt hại gây ra bởi cuộc chiến, và
mau chóng mọi ngôi làng trong vùng đã cùng chung sức khôi phục lại
Nara.
Thời kỳ Edo: Trong thời kỳ Edo, Nara được đưa vào một lãnh địa nằm
dưới quyền cai trị trực tiếp của quan tổng đốc do triều đình Mạc phủ cắt
cử. Tất cả những thị dân cao tuổi có uy tín đều được chọn để nhận một
chức vị từ quan tổng đốc của Mạc phủ để đứng ra điều hành thị trấn.
Trong một cuộc thống kế dân số tiến hành vào cuối thế kỷ 17, trong tất cả
thị xã làng mạc trong khu vực có tổng cộng là 35.000 dân. Vào đầu thời
kỳ Edo, Nara nở rộ với những mặt hàng cao cấp như là bông trắng cũng
như rượu sake, mựs đen, áo giáp và mũ trụ, gươm và quạt, biến Nara
thành một thị trấn thủ công nghiệp.
google
___otAku___ = yUkj_nO_hAnA
17 trang |
Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 2060 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Nara, Cố đô cổ kính và duyên dáng, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Nara, Cố đô cổ kính và duyên dáng.
Nara (奈良市, Nara-shi), là thủ phủ của tỉnh Nara, thuộc vùng Kansai, gần
Kyoto. Theo thống kê năm 2003, thành phố Nara có dân số là 364.869
người với mật độ 1.724 người trên 1 km2. Diện tích tòan thành phố là
211,6 km².
Các thành phố kết nghĩa với Nara trên thế giới gồm Gyeongju – kinh đô cổ
của vương quốc Silla thuộc miền Nam Hàn Quốc, Trường An – kinh đô cổ
của nhà Đường tại Trung Hoa, Toledo – thủ đô của Tây Ban Nha thời Trung
cổ, Versailles – cung điện nổi tiếng nước Pháp và Canberra – thủ đô nước
Úc.
Từ Osaka, ta có thể tới Nara bằng xe bus hoặc tàu JR (Japanese Rail), cả
hai phương tiện này đều đi mất khỏang một tiếng rưỡi để tới nhà ga
Kintetsu. Từ đó ta nên dùng xe bus, khá rẻ và tiện lợi, để tới Công viên
Nara, trung tâm thành phố. Tại đây, ta có thể đi bộ để thưởng lãm hầu
hết các danh thắng của thành phố.
Công viên Nara (Nara Koen) là một công viên rộng ở trung tâm Nara, xây
dựng vào năm 1880. Nơi đây chứa hầu hết những thắng cảnh của Nara
như Chùa Tôdaiji, Đền Kasuga Taisha, Chùa Kofukuji và Bảo tàng Quốc gia
Nara, một bảo tàng tập trung vô số những sưu tập về nghệ thuật Phật
giáo. Đây cũng là nơi ở của hàng trăm con hươu hoang dã tự do lang
thang. Theo Thần đạo Shinto, hươu được xem là sứ giả của các thần linh,
do đó những con hươu ở Nara đã trở thành biểu tượng của thành phố và
thậm chí được đăng kí để thành Tài sản Quốc gia. Lũ hươu được tự do
lang thang khắp công viên, có lẽ cũng nhờ phân của chúng gồm nhiều hạt
nhỏ như đầu ngón tay, khô và không dính bết, không hôi lắm và được các
nhân viên liên tục quét dọn.
Lọai đặc sản bánh trái nổi tiếng nhất của Nara là shika-senbei, được bày
bán khắp mỗi góc phố và tại mọi dãy bán đồ lưu niệm. Tuy nhiên xin bạn
đừng thử ăn bánh, shika-senbei có nghĩa là bánh xốp bột gạo dành cho
hươu ăn! (shika là con hươu, senbei hay ôsenbei là lọai bánh xốp bột gạo
đặc sản của Nhật). Một số con hươu đã đạt tới trình độ điêu luyện, tức
biết quỳ xuống để xin bánh của khách du lịch! Hươu Nara chạy khắp nơi
theo du khách để đòi ăn ôsenbệ, đôi khi lộng hành quá mức, quấy nhiễu
mọi người, làm bọn trẻ con khóc tóang và các cô gái hét vang vì sợ.
Ngoài bánh ôsenbei, có một món đặc sản địa phương khác là Kakino
hazushi, tức sushi cuốn lá hồng, vốn có nguồn gốc từ vùng Yoshino lân
cận. Yamato-cha là một đặc sản khác của Nhật, tức là nước trà xanh, vị
hơi chát, uống mát rất đã khát trong cái nóng của mùa hè tháng Chín ở
Nhật. Tại Nhật, tôi thấy thứ nước trà này, đóng vào chai nhựa 500 ml như
nước ngọt, còn phổ biến hơn cả Coca Cola.
NGUỒN GỐC TÊN GỌI NARA
Có một huyền thọai phố phường về nguồn gốc tên gọi của thành phố
“Nara” rất phổ biến đối với người dân Triều Tiên, cho rằng từ “Nara” xuất
phát từ cách phát âm tương tự của từ “quốc gia” trong tiếng Triều Tiên.
Tuy nhiên, điều này thiếu thuyết phục do đấy là một từ trong tiếng Triều
Tiên hiện đại và ít có căn cứ lịch sử nào để biết được ngôn ngữ cổ Baekje
thực tế ra sao vào thời kỳ Nara được hình thành. Hầu hết các nhà nghiên
cứu lịch sử và ngữ văn đều cho rằng tên gọi của thành phố bắt nguồn từ
tiếng Nhật “nadaraka” (なだらか), vốn có nghĩa là một vùng đất bằng
phẳng.
ĐÔI NÉT VỀ LỊCH SỬ HÌNH THÀNH NARA
Thời kỳ Yayoi: các công cụ bằng đá cổ đại cùng các vật dụng đất nung
thuộc thời kỳ Jomôn đã được tìm thấy trong phạm vi thành phố Nara; tuy
nhiên, việc phát hiện những di chỉ thuộc thời kỳ Yayoi trong các khu vực
của thành phố như tại khu Saki, khu Kashiwagi, khu Suruga, và khu
Kubonoshô đã làm người ta tin rằng “các ngôi làng” này được xây dựng
trên các vùng đất phù hợp cho việc trồng lúa.
Thời kỳ Kofun: Trong thế kỷ thứ tư, nhiều gia tộc có ảnh hưởng và quyền
lực đã để lại những lăng mộ đồ sộ tại lòng chảo Yamato. Trong đó, hùng
mạnh nhất là gia tộc Wani, sau này đổi tên thành gia tộc Kasuga và đặc
biệt mạnh mẽ trong khu vực quanh thành phố Nara cho tới cuối thế kỷ
thứ sáu là một nhóm gồm gia tộc Ôya và Ono. Một thị tộc có quyền lực
khác, cư trú ở miền Tây Bắc thành phố Nara là gia tộc Hijikata, sau này
nổi tiếng dưới tên gọi thị tộc Sugawara.
Thời kỳ Nara: vào năm 710 (năm Wadô thứ 3), kinh đô được dời từ
Fujiwara-kyô ở Asuka về Heijô-kyô tại Nara, trở thành kinh đô cố định đầu
tiên trong lịch sử Nhật Bản (trước đó, Thiên hoàng đã từng dời đô đến hơn
60 lần!). Trong vòng 70 năm sau đó, Heijô-kyô trở thành kinh đô vô cùng
thịnh vượng của nước Nhật cổ. Thành phố này tọa lạc trên khu vực rộng
4.3 km từ tây sang đông và 4.8 km từ bắc xuống nam cộng thêm một khu
vực rộng 1.5 km từ đông sang tây và 2.4 km từ bắc xuống nam nằm về
phía đông thành phố, tên gọi là Gekyô (hay Kinh đô Bên ngoài). Thành
phố này, rực rỡ với những cung điện tuyệt đẹp, những ngôi chùa và dinh
cơ quý tộc, được chia một cách có chủ đích thành từng khu bởi con phố
chính, Suzaku-ôji, và những con phố lớn nhỏ khác. Trong đó, phố chính
Suzaku-ôji chạy từ Heijô-kyô thẳng xuống hướng nam xuyên qua trung
tâm thành phố. Bản quy họach quy mô lớn này được cho là sao chép
Trường An, kinh đô của nhà Đường bên Trung Hoa. Vào đỉnh cao của thời
kỳ này, kinh đô Nara có dân số vào khỏang 100.000 người cộng thêm rất
nhiều khách vãng lai từ các vương quốc khác, bao gồm cả nhà Đường.
Chính cư dân thời kỳ này đã tạo nên sự thăng hoa của văn hóa thời kỳ
Tempyô.
Những tu viện Phật giáo khổng lồ được dựng lên tại kinh đô mới này và
mau chóng tạo được thế lực trong triều chính. Năm 784, Thiên hoàng
Kammu buộc phải dời đô từ Heijo-kyo (Nara) về Nagaoka và rồi chuyển
tới Heian-kyo (Kyoto) nhằm bảo vệ vị thế của thiên hòang và triều đình,
thóat khỏi ảnh hưởng can thiệp lên công việc triều chính của các ngôi
chùa đầy thế lực tại Nara. Tại Kyoto, kinh đô tiếp tục tồn tại trong suốt
hơn một ngàn năm.
Một đặc điểm của Nara và thời kỳ Heian là sự suy tàn dần dần của những
ảnh hưởng từ Trung Hoa, tuy chúng vẫn còn tác động rất mạnh mẽ. Nhiều
kiến thức từ nước ngòai mang về tới thời này đã dần được “Nhật hóa”. Một
ví dụ cụ thể là để phổ biến cho tầng lớp bình dân, nhiều trung tâm hành
chính đã được thành lập để hỗ trợ hệ thống chính quyền vốn được sao
chép từ mô hình của Trung Hoa. Trong nghệ thuật cũng vậy, những
khuynh hướng bản địa mau chóng trở nên phổ biến. Sự phát triển của hệ
ký tự Kana đã giúp hình thành nền văn học Nhật Bản. Rất nhiều bản kinh
Phật vừa được nhập từ Trung Hoa trong thời Heian cũng đã được Nhật
hóa. Điều này thể hiện khá rõ trong kiến trúc: các chùa Nara cũng sử
dụng hệ đấu-cũng như Trung Hoa, nhưng kết hợp khá nhuần nhuyễn với
những tiêu chuẩn Nhật Bản, vật liệu Nhật Bản và không gian Nhật Bản.
Sau khi Heian-kyô bị dời đi: Sau khi kinh đô bị dời về Kyôto, phế tích
Heijô-kyô nhanh chóng trở thành ruộng lúa. Tuy nhiên, hầu hết những
ngôi chùa lớn đều còn lại nguyên vẹn, cho phép Nara tiếp tục tồn tại trong
lịch sử như một thành phố sở hữu vô số đền chùa. Khởi đầu là sự chấn
hưng ảnh hưởng của chùa Kôfuku-ji, kế đó là chùa Tôdai-ji và Gangô-ji,
thành phố thực sự trở thành một thành phố lịch sử, biến Nara trở thành
như ngày nay.
Cuộc tấn công của lãnh chúa Heike (thị tộc Taira): Trong cuộc tấn công
của thị tộc Taira năm 1180 (năm Jishô thứ 4), công trình Daibutsu-den
(Đại Phật Điện, nơi đặt bức tượng Phật khổng lồ) bị thiêu rụi và Nara đã
gần như bị tiêu hủy. Tuy nhiên, không lâu sau, chùa Tôdai-ji và Kôfuku-ji
được xây lại và thị trấn Nara lại được tái thiết xinh đẹp như xưa. Với rất
nhiều ngôi làng đã tồn tại trong khu vực này từ cuối thế kỷ 13 và nhờ có
sự phát triển vững vàng của nền thương mại và tiểu thủ công nghiệp,
Nara đã nở rộ thành một kinh đô thứ hai, bên cạnh Kyoto, cho tới khi nó
bị qua mặt do sự phát triển của Sakai vào cuối thế kỷ 15. Dần dần, những
ngôi làng mới được thành lập, và tới đầu thế kỷ 16, đã có 200 làng ở đây
với dân số tổng cộng là 25.000 người. Cùng thời gian này, hàng bông đã
qua tẩy trắng của Nara và hàng đồng thau của Nishinokyô đã trở thành
thứ hàng rất cao giá tại Kyôto, trong khi những sản phẩm khác của Nara
như gươm, đồ sơn mài, quạt nan cùng búp bê thì được xuất rất nhiều về
Sakai.
Lần thứ hai tai họa xảy đến với pho tượng Phật khổng lồ: năm 1560 (năm
Eiroku thứ 3), Hisahide Matsunaga cho xây lâu đài Tamon trên núi
Mikenji-yama. Đấy là lần đầu tiên trong lịch sử Nara bị cai trị bởi một
chiến binh. Bảy năm sau, trận ác chiến giữa Hisahide và lãnh chúa vùng
Miyoshi lan tới Nara và Daibutsu-den (Đại Phật Điện – LTD) một lần nữa bị
thiêu rụi. Tuy nhiên lần này nỗ lực phối hợp của tòan thể cư dân của thị
trấn Nara đã giúp giới hạn bớt những thiệt hại gây ra bởi cuộc chiến, và
mau chóng mọi ngôi làng trong vùng đã cùng chung sức khôi phục lại
Nara.
Thời kỳ Edo: Trong thời kỳ Edo, Nara được đưa vào một lãnh địa nằm
dưới quyền cai trị trực tiếp của quan tổng đốc do triều đình Mạc phủ cắt
cử. Tất cả những thị dân cao tuổi có uy tín đều được chọn để nhận một
chức vị từ quan tổng đốc của Mạc phủ để đứng ra điều hành thị trấn.
Trong một cuộc thống kế dân số tiến hành vào cuối thế kỷ 17, trong tất cả
thị xã làng mạc trong khu vực có tổng cộng là 35.000 dân. Vào đầu thời
kỳ Edo, Nara nở rộ với những mặt hàng cao cấp như là bông trắng cũng
như rượu sake, mựs đen, áo giáp và mũ trụ, gươm và quạt, biến Nara
thành một thị trấn thủ công nghiệp.
google
::::::::::::::::::::::::::::
___otAku___ = yUkj_nO_hAnA
chó sói thay lông nhu*ng ko thay tính nêt'
yUkj_nO_hAnA
Xem hồ sơ
Gửi tin nhắn tới yUkj_nO_hAnA
Find More Posts by yUkj_nO_hAnA
The Following 2 Users
Say Thank You to
yUkj_nO_hAnA For
This Useful Post:
bamboo_forest (01-01-2008), Ban (01-03-2008)
01-01-2008, 10:33 AM #2
yUkj_nO_hAnA
Ninja
Tham gia ngày: Sep 2007
Nơi ở: nihon
Bài gởi: 109
Thanks: 5
Thanked 164 Times in 72 Posts
Khởi đầu thời kỳ Minh trị: Từ giữa thời kỳ
Edo, Nara đã nổi tiếng là một thị trấn du
lịch. Nhưng qua thời Minh Trị, Nara đã bước
vào thời gian trì trệ. Sự ban bố Haibutsu-
kishaku (bãi bỏ Phật giáo và những lời giảng
của Shaka để chuyển về đề cao Thần đạo
như Quốc đạo) ảnh hưởng lớn tất cả những
ngôi chùa lớn. Rất nhiều chùa bị giải tán và
thậm chí ngôi tháp năm tầng của chùa
Kofukuji còn bị chuẩn bị đem rao bán. Tuy
nhiên, tới năm 1871, một đạo luật nhằm
bảo vệ những di sản lịch sử quý giá được
ban bố. Nhờ đó, giá trị của những ngôi chùa
cổ và các tượng Phật đã dần dần được nhìn
nhận.
Cùng với việc ban bố Haihan-chiken (kết
thúc hệ thống Hán học và thiết lập hệ thống
cai trị kiểu phương Tây) năm 1871 (năm
Minh Trị thứ 4), tổng trấn Nara nắm tòan
quyền điều hành vùng Yamato, và một trụ
sở chính quyền do Trung ương thành lập
được dựng lên ở Nara. Tuy nhiên, tới năm
1876 (năm Minh Trị thứ 9), trấn Nara bị bãi
bỏ, và vùng Yamato, tiếp theo sau Sakai, bị
sát nhập vào trấn Osaka. Chuyện này rất
bất lợi cho Nara, khi nó vừa có được cơ hội
để hồi sinh khi trở thành nơi đặt trụ sở chính
quyền.
Năm 1887 (năm Minh Trị thứ 20), trấn Nara
được tái lập và trụ sở lại được chuyển về
Nara, giúp hồi sinh thị trấn. Hai năm sau,
khi chính quyền tự trị được thiết lập, vùng
này qua khảo sát đã cho thấy rằng dân số
không đủ để trở thành một thành phố. Cuối
cùng, vào năm 1898 (năm Minh Trị 31), thể
chế thành phố biết bao mong chờ đã được
chấp thuận. Điều này đã đem tới đây đường
xe lửa nối với Osaka và Kyoto, các công ty
và ngân hàng được xây dựng, việc hòan tất
công viên Nara đã có thể được tiếp tục, và
Nara thực sự bắt đầu trở thành một trung
tâm hành chính. Dưới góc độ hiện đại hóa,
thành phố Nara đã có thể bước vào thời kỳ
phát triển vững bền.
Tóm lại, tuy chỉ giữ vai trò kinh đô của Nhật
Bản trong một thời gian ngắn (từ 710 tới
784), Nara vẫn có được tới 8 công trình được
UNESCO công nhận là Di sản Thế giới, trong
đó nổi tiếng nhất là chùa Todaiji, chùa
Kofukuji và đền Kasuga-Taisha.
CHÙA TÔDAI-JI (“ĐÔNG ĐẠI TỰ” – 東大
寺), DI SẢN VĂN HÓA THẾ GIỚI
Todai-ji, một quần thể chùa Phật, được xây
từ năm 743 và hoàn thành năm 751, trong
một vùng chia thành 64 khu thuộc phần
phía Đông của Nara. Đây chính là thời điểm
ảnh hưởng của Phật giáo đang ở đỉnh cao,
giữ vai trò quốc đạo. Chùa trở thành một
trong những ngôi chùa lâu đời và nổi tiếng
bậc nhất, đồng thời là một thắng cảnh tuyệt
vời của Nhật Bản.
Trong thời kỳ Tempyo, nhân dân phải chịu
đựng rất nhiều thiên tai và dịch bệnh. Năm
685, Thiên hòang Temmu hạ chỉ rằng mọi
gia đình trên khắp đất nước đều phải lập
trong nhà một bàn thờ Phật. Người kế vị
ông, Thiên hòang Shomu, còn đi xa hơn
nữa. Ngài đã hạ chỉ rằng mỗi tỉnh của Nhật
đều phải xây dựng một ngôi chùa chính để
đòan kết thống nhất tòan quốc. Hai năm
sau, năm 743, ngài ra lệnh cho xây dựng
chùa Todai-ji, ngôi chùa trung tâm của tòan
cõi Nhật Bản, cầu kỳ lộng lẫy và đồ sộ nhất.
Đồng thời, ngài ban hành một sắc lệnh theo
đó người dân phải đúc ra một pho tượng
Phật, với niềm tin sâu sắc rằng quyền năng
của Đức Phật có thể che chở cho mọi người.
Phải chăng, bản thân cái tên Đông Đại Tự đã
thể hiện tham vọng của Thiên hòang, muốn
xây dựng một trung tâm Phật giáo tại phía
Đông sánh ngang cùng Tây Tạng?
Tổng thể chùa Todai-ji qua ảnh chụp vệ tinh
Nandaimon (Nam Đại Môn) của Todai-ji
(Đông Đại Tự). Xây dựng từ năm 1199 theo
đúng hình dáng như ngày nay. Cổng có 18
cột chống, mỗi chiếc cao 20 m với đường
kính hơn 1m.
Tượng gỗ Hộ pháp Nio (Thần sét hộ pháp)
đứng hai bên của Nandaimon (Nam Đại
môn). Mỗi tượng có chiều cao gần 8 mét,
tuổi thọ trên 800 năm, được tạc khắc bởi
người thợ chạm gỗ bậc thầy Unkei. [Chiếc
lưới thép phía trước là để ngăn chim và dơi].
Tượng được ghép bởi 3.115 mảnh gỗ.
Trung Môn (Chumon)
Đèn bằng đồng hình bát giác (Hakkaku
Toro), đã có thời từng được mạ vàng, nổi
tiếng do những điêu khắc trên các mặt đèn.
Có từ thời Tempyo (701-794).
Tượng Phật niết tịnh bằng gỗ.
Theo truyền thuyết, có đến 420.000 người
cúng tiền và 2.180.000 người tham gia xây
dựng chùa. Bản thân bức tượng Đại Phật là
do một nghệ sĩ đến từ vương quốc Baekje,
Triều Tiên, thiết kế. Con số người tham gia
xây chùa tương đương gần một nửa dân số
Nhật Bản thời kỳ đó, có lẽ là đã quá phóng
đại. Theo những tính tóan ngày nay, quá
trình xây dựng Todai-ji cần đến 1.665.000
ngày công, vẫn là một số hết sức khổng lồ.
Bức tượng Daibutsu (Đại Phật) – bức tượng
Phật bằng đồng mạ vàng lớn nhất thế giới –
nằm trong một công trình làm hòan tòan
bằng gỗ – Daibutsu-den (Đại Phật Điện).
Trong khuôn viên chùa, trải dài 1 cây số
theo suốt trục Bắc-Nam và Đông-Tây tính từ
Đại Phật điện là hàng lọat công trình khác,
gồm các điện và kho báu, trong đó có bảy
công trình là Di sản Quốc gia. Là một trong
những ngôi chùa cổ lớn nhất Nhật Bản,
Todaiji cũng sở hữu vô số báu vật văn hóa
với hơn 20 pho tượng Phật và tác phẩm
nghệ thuật được xếp lọai Di sản Quốc gia.
Quần thể nguyên gốc bao gồm cả hai ngôi
tháp bảy tầng cao 100 m, có lẽ là ngôi tháp
cao nhất thế giới thời kỳ đó. Những ngôi
tháp này ngày nay đều đã bị động đất phá
hủy hoàn toàn.
Todai-ji nhìn từ trên cao
Tượng Đại Phật được đúc vào năm 749 và
hoàn thành năm 751, tiêu thụ hết tòan bộ
sản lượng đồng của nước Nhật sản xuất ra
trong suốt nhiều năm trời và khiến nền kinh
tế đất nước gần như sụp đổ. Một đại lễ được
tổ chức vào năm sau đó, khi những con
ngươi mắt được vẽ lên pho tượng Đại Phật.
Pho tượng sau đó được sửa chữa và đúc lại
nhiều lần do nhiều nguyên nhân khác nhau
như động đất làm hư hại, hay do chùa phải
xây lại sau khi bị hai lần hỏa họan do khói
lửa chiến tranh vào những năm 1180 và
1567; thậm chí đã có lần đầu tượng bị gãy
rời xuống đất. Chiếc bệ tượng còn lại ngày
nay có niên đại từ thế kỷ thứ 8, trong khi
các phần phía trên, bao gồm cả chiếc đầu,
thực ra phần lớn đã được đúc lại vào nửa
sau của thế kỷ 12. Tai họa cũng đã từng
giáng xuống ngôi điện lớn, nhất là do khói
lửa của chiến tranh. Sau lần ngôi điện bị
cháy vào nửa sau của thế kỷ 16, tượng Đại
Phật đã phải đứng ngòai trời trong suốt một
thế kỷ cho tới năm 1692, khi ngôi điện Đại
Phật như ta thấy ngày nay được xây.
google
::::::::::::::::::::::::::::
___otAku___ = yUkj_nO_hAnA
chó sói thay lông nhu*ng ko thay tính
nêt'
yUkj_nO_hAnA
Xem hồ sơ
Gửi tin nhắn tới yUkj_nO_hAnA
Find More Posts by yUkj_nO_hAnA
The Following 2 Users
Say Thank You to
yUkj_nO_hAnA For This
Useful Post:
bamboo_forest (01-01-2008), Ban (01-03-2008)
01-01-2008, 10:37 AM #3
yUkj_nO_hAnA
Ninja
Tham gia ngày: Sep 2007
Nơi ở: nihon
Bài gởi: 109
Thanks: 5
Kích thước của tượng Đại Phật
Tổng chiều dài thân : 30 mét
Chiều cao tượng ngồi : 15 mét
Chiều cao tính cả phần bệ tượng : 17 mét
Phần đầu cao : 5.33 mét
Mắt : 1.02 mét
Mũi : 0.5 mét
Tai : 2.54 mét
Dựa theo thư tịch cổ, tượng gồm 40 phần ghép, đúc từ 443
tấn đồng, 7,560 kg sáp ong tinh khiết (để hàn), 440 kg
vàng ròng và 198 kg thủy ngân. Tượng Phật có bộ tóc khá
độc đáo, trông tực như những vòng xoắn ốc, bao gồm 966
hình cầu có đường kính 18 cm và nhô cao khỏi đầu 30 cm.
Tạo thành vòng hào quang bao quanh phía trên đầu tượng
là những tượng Quan Âm Bồ Tát mạ vàng rực rỡ.
Thanked 164 Times in 72
Posts
Đại Phật Điện
Ngôi Đại Phật Điện nguyên bản được hòan thành năm 751,
có chiều cao 48m, kích thước mặt bằng 50m x 88m (7 nhịp
theo hướng Bắc-Nam và 11 gian theo hướng Đông-Tây).
Lần xây dựng sửa chữa gần nhất của Đại Phật Điện là vào
năm 1709, trông vẫn rất ấn tượng với hình dáng giống như
nguyên bản ban đầu, có bề ngang thu ngắn bớt một phần
ba so với bản gốc. Ngày nay, điện có chiều cao 48 mét,
mặt bằng chữ nhật 56m x 50m, là công trình gỗ lớn nhất
thế giới. Đây là một ví dụ rất cụ thể của những ngôi chùa
vĩ đại mang tính biểu tượng xuất hiện vào thời Nara với
kích thước và kinh phí xây dựng khổng lồ được xây trong
lòng thành phố. Dù có kích thước đồ sộ như vậy, người ta
vẫn cho rằng Đại Phật Điện còn chưa đủ rộng để chứa pho
tượng. Bên trong ngôi điện ngày nay, khách tham quan
phải rất chật vật khi tìm khỏang rộng cần thiết để ngắm
nhìn được tòan bộ pho tượng.
Quần thể bao gồm không chỉ Đại Phật Điện, mà còn cả hai
ngôi tháp 7 tầng, một giảng viện và khu tịnh xá. Một dãy
hồi lang bao quanh Đại Phật Điện tương tự như thiết kế
mặt bằng của quần thể chùa Horyu-ji nổi tiếng. Tòan bộ
quần thể đối xứng đăng đối trải dài theo trục Bắc – Nam,
đi qua Nam Đại Môn (Nandaimon), Trung Môn (Chumon),
Đại Phật Điện (Daibutsu-den) và giảng viện. Rất nhiều
công trình lịch sử, bao gồm Shôsô-in (Kho báu Hòang gia)
– nơi chứa kho bảo vật của Thiên hòang Shomu, cũng nằm
cạnh khuôn viên ngôi chùa khổng lồ này.
Tượng Komoku-Ten, vị Hộ pháp trấn phía Nam, nằm bên
trong Đại Phật điện. Pho tượng cầm trong tay một chiếc
bút lông và một cuộn giấy, thể hiện tượng trưng của một
bản sao kinh Phật.
Phía sau Đại điện, có một chiếc cột lớn với phần đế cột có
một cái lỗ lớn xuyên qua. Cái lỗ này được xem là có cùng
kích thước với lỗ mũi của bức tượng Đại Phật. Nếu bạn chui
qua được cái lỗ, bạn sẽ luôn tìm được niềm vui và hạnh
phúc trong cuộc đời.
Ngày 20 tháng Năm 1994, Liên hoan âm nhạc quốc tế The
Great Music Experience được tổ chức tại Todaiji, dưới sự hỗ
trợ của UNESCO. Các nghệ sĩ tham gia gồm có Dàn nhạc
Giao hưởng Tokyo, nhóm X Japan và INXS, các ca sĩ Bon
Jovi, Bob Dylan, Hotei Tomoyasu, Roger Taylor, nhóm các
tay trống cổ truyền Nhật Bản và một dàn đồng ca của các
nhà sư Phật. Buổi biểu diễn đã được truyền thanh trực tiếp
trong các ngày 22 và 23 tháng Năm năm 1994 tới 55 quốc
gia trên khắp thế giới. Thật không có cách nào khéo léo
hơn để quảng bá hình ảnh văn hóa nghệ thuật của một
quốc gia, kết hợp hài hòa giữa khoa học kỹ thuật hiện đại
với các yếu tố văn hóa lịch sử đặc sắc và lâu đời.
_Điện Nigatsu-do (Nigatsu-do: tháng Hai). Xây dựng năm
752, được xây lại vào năm 1667 sau một trận hỏa họan.
Từ trên sàn điện nhìn xuống dưới lòng chảo Nara, ta có thể
quan sát bao quát tòan bộ cảnh quan hùng vĩ và sinh động
với hàng chục ngôi chùa, tháp lớn nhỏ. _
Trước khi bước vào một công trình tôn giáo, theo truyền
thống lâu đời, người Nhật luôn đặt vòi nước rửa tay, súc
miệng công cộng.
Cạnh vòi nước rửa tay súc miệng như vậy, phía trên điện
Nigatsu-do, có một tấm bảng ghi dòng chữ: “Đề nghị
không nên uống nước” và mũi tên chỉ vào nhà trong. Thì
ra đây là nơi cho du khách nghỉ chân miễn phí, có giường,
ghế ngồi, nước nóng lạnh, lò sưởi, quạt, nhà vệ sinh…
Khách có thể uống nước nhưng phải tự ra vòi nước rửa ly
úp trả lại chỗ cũ.
Liên Hoa Điện, công trình có tuổi thọ lâu đời nhất của cả
quần thể. Một số bộ phận của điện có từ thế kỷ thứ 8, dù
đã từng trải qua một cuộc sửa chữa lớn năm 1199.
Xã hội Nhật Bản vào giữa thế kỷ 8 SCN đã đạt tới trình độ
phong kiến tập quyền phát triển khá cao. Chiểu theo ý chí
một duy nhất một cá nhân Thiên hòang, cả nước Nhật rùng
rùng bắt tay vào xây dựng một công trình kiến trúc vĩ đại,
hòan tòan xứng tầm với các kim tự tháp nổi tiếng của Ai
Cập cổ đại. Một hiện tượng tương tự chưa từng xảy ra
trong suốt chiều dài lịch sử Việt Nam. Dù xét dưới bất cứ
góc độ và nhãn quan nào, điều này cũng đáng để chúng ta
suy ngẫm. Ngày nay, kiến trúc Todai-ji, hòan hảo cả về kỹ
thuật xây dựng lẫn thẩm mỹ kiến trúc, là một biểu tượng
xứng đáng cho tinh thần và trí tuệ Nhật Bản.
ĐỀN KASUGA – TAISHA (春日大社)
Nằm cạnh Todai-ji là Kasuga Taisha, một kiến trúc tôn giáo
quan trọng khác của Nara. Công trình chính của đền được
xây dựng năm 768, nhưng người ta tin rằng đền thờ vốn
thật ra đã có từ đầu thời Nara. Kasuga Taisha là ngôi đền
nổi tiếng nhất Nara. Đền được thành lập đồng thời với đô
thành và thờ vị thần bảo trợ cho thành phố này. Nằm tại
phía Tây của chân núi Mikasa và Kasuga, nơi được coi là
những ngọn đồi thiêng, nơi xuất thân của vị thần Kasuga
Taisha, vốn được thị tộc Fujiwara (thị tộc quyền lực nhất
Nara và trong suốt thời kỳ Heian) thờ phượng. Do đó, đền
nhận được sự bảo trợ của thị tộc Fujiwara và Hội đồng
Hòang gia.
Có bốn ngôi đền nằm trong khuôn viên Kasuga Taisha, thờ
các vị thần khác nhau, bảo trợ cho thị tộc cầm quyền
Fujiwara. Kiến trúc của đền Kasuga được gọi là “phong
cách Kasuga” hay Taisha-zukuri do hình dáng độc đáo của
bộ mái lợp bằng vỏ cây bách. Đền có các dãy hành lang
sơn màu đỏ son rực rỡ, xung quanh và bên trong đền có
khỏang 2.000 chiếc đèn bằng đá và 1.000 đèn bằng đồng,
được cúng tặng từ thế kỷ 11 cho tới nay. Bao quanh bởi
một khu rừng xanh rì rậm rạp, ngôi đền có một dáng vẻ vô
cùng tao nhã độc đáo. Ngôi đền chính, vốn không hề thay
đổi suốt từ xưa đến nay, hài hòa một cách tuyệt vời với
thiên nhiên xung quanh, phảng phất hình ảnh những ngôi
đền giữa thời cổ đại ở Nhật Bản. Ngay khi ta bước qua
chiếc cổng Torii và lọt vào khu đất của đền thờ, ta sẽ được
dạo bước trên một lối mòn tuyệt đẹp, hai bên là dằng dặc
hàng ngàn chiếc đèn đá. Đền Kasuga Taisha rất nổi tiếng
nhờ vô số đèn treo và đèn đá do những tín đồ hiến tặng.
Những chiếc đèn treo bằng đồng bên trong đền và hàng
trăm cây đèn đá trải dài dọc lối vào đền được thắp sáng
vào dịp Lễ hội đèn tổ chức vào tháng Hai và tháng Tám.
Đền Kasuga Taisha được xếp hạng là một trong ba ngôi
đền thờ Thần đạo quan trọng nhất Nhật Bản. Theo nghi lễ
Thần đạo Nhật bản, các đền thờ thường xuyên bị tháo gỡ
và xây lại cứ 20 năm một lần để tẩy uế, giữ cho luôn tinh
sạch. Kiến trúc như ngày nay chúng ta thấy là công trình
được xây lại vào năm 1893. Mặc dù đây đúng ra là ngôi
đền Kasuga thứ 57 được xây, kiến trúc này vẫn dựa chính
xác trên mẫu nguyên thủy, một ví dụ cụ thể tuyệt vời cho
lối kiến trúc Nhật thế kỷ thứ 8.
Đền Kasuga được bao quanh bởi một công trình nổi tiếng
khác là Vườn Thực vật Man’yo – vườn thực vật đầu tiên tại
Nhật Bản. Với trên 300 lọai thực vật được sắp đặt khéo léo,
khu vườn này đã tạo nguồn cảm hứng cho vô số tác phẩm
văn học cổ điển Nhật Bản.
Từ xưa tới nay, đền Kasuga Taisha vẫn nổi tiếng là nơi diễn
ra những lễ hội kéo dài suốt năm, ví dụ như “Kasuga
Wakamiya on Matsuri”, khi đó tất cả những đèn lồng treo
dọc các hành lang và những đèn đá dọc lối đi bộ đều được
thắp sáng. Đền Kasuga Taisha cũng là nơi tổ chức lễ Obon
(lễ rằm tháng 7 âm lịch) hàng năm – Lễ hội Mantoro.
Trong hội lễ có lịch sử 800 năm này, hàng ngàn cây đèn đá
và đèn treo được thắp sáng bởi những người tham gia
nhằm tưởng nhớ vong linh tổ tiên của mình.
google
::::::::::::::::::::::::::::
___otAku___ = yUkj_nO_hAnA
chó sói thay lông nhu*ng ko thay tính nêt'
yUkj_nO_hAnA
Xem hồ sơ
Gửi tin nhắn tới yUkj_nO_hAnA
Find More Posts by yUkj_nO_hAnA
The Following 2 Users
Say Thank You to
yUkj_nO_hAnA For This
Useful Post:
bamboo_forest (01-01-2008), Ban (01-03-2008)
01-01-2008, 10:38 AM #4
yUkj_nO_hAnA
Ninja CHÙA KOFUKU-JI (CỔ PHÚC TỰ – 興
福寺)
Kiến trúc đặc sắc thứ ba của kinh đô
Nara là chùa Kofuku-ji, một Di sản Văn
hóa Thế giới. Chùa Kofuku-ji là một
trong Thất Đại tự của Nara, đã được
viết tới trong tác phẩm bất hủ “Truyện
Tham gia ngày: Sep 2007
Nơi ở: nihon
Bài gởi: 109
Thanks: 5
Thanked 164 Times in 72 Posts
Genji” của nữ sĩ Murasaki. Kofuku-ji là
chùa bản tộc của thị tộc đầy quyền lực
Fujiwara và là một trong những ngôi
chùa hàng đầu của tông phái Hosso.
Cùng với việc thiết lập kinh đô mới tại
Heijo-kyo (Nara) vào năm Wado thứ ba
(710 SCN), chùa Umayasaka (xây năm
669 SCN) được chuyển từ Asuka ở
Kyoto tới chỗ mới và đổi tên thành
Kofuku-ji. Theo dòng thời gian, chùa đã
từng 5 lần bị hỏa họan thiêu rụi và
cũng 5 lần được xây lại ngay sau đó.
Ngôi chùa ngày nay là bản sao chính
xác của nguyên gốc, được xây lại vào
năm 1426.
Tháp Gojunoto (ngôi tháp năm tầng)
của chùa Koufuku-ji chính là biểu tượng
của Nara. Tháp cao 50 m, theo phong
cách tháp Trung Hoa, là ngôi tháp cao
thứ hai Nhật Bản, chỉ đứng sau tháp
chùa Toji ở Kyoto. Tháp này cũng đả
được xếp hạng di sản quốc gia. Ngôi
tháp gốc vốn được xây trong thời
Tenpyo nhưng qua năm tháng nó bị
hủy họai bởi nhiều yếu tố. Ngôi tháp
ngày nay được xây trong thời
Muromachi. Do ngôi tháp năm tầng có
thể trông thấy được từ mọi hướng, nó
thường được dùng để điểm mốc cho
mọi người khỏi lạc đường, trong đó góc
nhìn từ hồ Sarusawa là đẹp nhất.
Tháp Gojunoto
Kể từ khi Chùa Kôfuku-ji được đặt dưới
sự bảo trợ của thị tộc Fujiwara, việc
xây dựng các điện của nó đều được
điều hành bởi các hòang đế và nữ
hòang, khiến Kôfuku-ji có thể tiếp tục
phát triển ảnh hưởng của mình dưới sự
điều hành trực tiếp của triều đình. Sau
thời kỳ Heian, rất nhiều công trình của
chùa đã bị thiêu cháy. Tuy nhiên, với sự
phục hồi của thị tộc Fujiwara, những
công trình ấy đã mau chóng được xây
dựng lại cùng thời kỳ. Ở đỉnh cao
quyền lực của thị tộc Fujiwara, chùa
gồm tổng cộng trên 150 công trình.
Theo như “Truyện Heike”, các thầy tu-
chiến binh của Kofukuji đã liên kết với
hòang tử Takakura để chống lại nhà
Taira. Vào năm 1180, lãnh chúa Taira
Kiyomori gửi một đại diện tới đàm phán
với các thầy tu. Tuy nhiên, các nhà sư
này đã bắt lấy 60 cận vệ của ông ta,
chặt đầu họ rồi đem treo rải dọc bờ hồ
Sarusawa. Sự sỉ nhục này đã trực tiếp
dẫn tới việc Nara bị tấn công và đốt
cháy. Ngày nay, chỉ còn 6 công trình
trong số đó là tồn tại. Bốn trong số đó
đã được công nhận là Di sản Quốc gia.
Đông Kim Điện, bên trong có tượng
Yakushi Nyorai – Dược Sư Lưu Ly
Quang Phật (Bhaisajyaguru). Pho
tượng được Thiên hòang Shomu đặt
vào trong điện vào năm 726 để cầu
mong Hòang hậu Gensho mau khỏi
bệnh. Bức tượng đã được tu sửa lại vào
lần gần đây nhất là năm 1415.
Yakushi Nyorai – Phật Dược sư
Nam Bát giác điện (Nanendo-den).
Được xây dựng lần đầu năm 813 và
công trình đang tồn tại hiện nay là bản
sửa chữa của năm 1789.
Kofuku-ji cũng là một ví dụ tiêu biểu
cho việc kết hợp hài hòa và yên bình
giữa các tôn giáo tại Nhật Bản. Năm
937, một nhà sư của Kofuku-ji đã nhìn
thấy trong giấc mơ của mình vị thần
Shinto của đền Kasuga, xuất hiện dưới
vẻ ngòai của một vị Phật. Vị thần yêu
cần được trở thành người bảo hộ cho
chùa, và tới năm 947, sự hợp nhất giữa
đền Kasuga và chùa Kofuku-ji đã hòan
tất khi các nhà sư đi tới đền Kasuga để
thực hiện những nghi lễ Phật giáo.
Chùa Kofuku-ji mau chóng trở thành
một trung tâm quan trọng để nghiên
cứu Phật giáo, đào tạo ra rất nhiều cao
tăng. Cùng với sự suy tàn của thị tộc
Fujiwara, Kofuku-ji cũng đi xuống. Sau
Cải cách Minh Trị (1868), chùa phải sáp
nhập với Học viện Chân ngôn tông
(Shingon).
Bậc thềm dẫn xuống hồ Sarusawa.
Nara, kinh đô cố định đầu tiên của Nhật
Bản, là sự biểu hiện rõ nét của tinh
thần dân tộc Nhật, két hợp hài hòa
giữa tôn giáo cổ truyền Thần đạo với
một tôn giáo mới du nhập theo ngả
Trung Hoa-Triều Tiên. Dù chỉ giữ vai trò
kinh đô trong một thời gian ngắn (từ
710 tới 784), những gì Nara có được sẽ
mãi trở thành một phần quan trọng của
nền văn minh nhân lọai.
Tp HCM, tháng 11/2005
ThS. KTS. Lý Thế Dân
::::::::::::::::::::::::::::
___otAku___ = yUkj_nO_hAnA
chó sói thay lông nhu*ng ko thay
tính nêt'
yUkj_nO_hAnA
Xem hồ sơ
Gửi tin nhắn tới yUkj_nO_hAnA
Find More Posts by yUkj_nO_hAnA
The Following 2 Users
Say Thank You to
yUkj_nO_hAnA For This
Useful Post:
bamboo_forest (01-01-2008), Ban (01-03-2008)
01-03-2008, 03:23 PM #5
ZenG
|¤ hòa nhan ái ngôn ¤| for more ìnf click [Only Registered Users Can See
Tham gia ngày: Sep 2006
Nơi ở: in-between the world
of light and darkness
Bài gởi: 786
Thanks: 73
Thanked 668 Times in 301
Posts
Links. Click Here To Register...]
::::::::::::::::::::::::::::
[Only Registered Users Can See Links. Click Here To
Register...] ¤ [Only Registered Users Can See Links.
Click Here To Register...]
Còn gì nữa sau khi ta khuất
Hoa xuân chim núi hay là vàng rơi
(trích "thiền sư Ryokan")
ZenG
Xem hồ sơ
Gửi tin nhắn tới ZenG
Find More Posts by ZenG
« Ðề Tài Trước | Ðề Tài Kế »
Ðiều Chỉnh
Tạo trang in
Email trang này
Xếp Bài
Linear Mode
Switch to Hybrid Mode
Switch to Threaded Mode
Quyền Sử Dụng Ở Diễn Ðàn
vB code đang Mở
Smilies đang Mở
[IMG] đang Mở
HTML đang Tắt
Múi giờ GMT. Hiện tại là 03:26 PM.
Powered by: vBulletin Version 3.6.8
Copyright ©2000 - 2008, Jelsoft Enterprises Ltd.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Nara, Cố đô cổ kính và duyên dáng.pdf