Tượng quan hầu trong lăng vua Trần Hiến Tông ở xã An Sinh huyện Đông Triều , tỉnh Quảng Ninh .Vua Trần Hiến Tông mất năm 1341 , tuy đã 13 năm làm vua , nhưng lúc ấy mới 23 tuổi . Có lẽ vì thế , trong sự thương tiếc của triều đình , đây là lăng mộ vua Trần duy nhất có các tượng “người đá , ngựa đá ,hổ đá , dê đá ,trâu đá “như các tác giả sách Đại Nam Nhất Thống Chí ở cuối thế kỷ XIX còn thấy > Sau nhiều biến thiên lịch sử , cho đến thập niên 70 của thế kỷ XX , khu lăng đã bụ hủy hoại , song vẫn còn hai tượng quan hầu , chó đá và trâu đá .
Bạn đang xem nội dung tài liệu Mỹ thuật thời kì nhà Trần, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Mỹ thuật thời kì nhà Trần
I: Hoàn cảnh lịch sử.
Những nét khái quát về xã hội thời Trần ý thức dân tộc ngày càng được khẳng định dưới triều Trần. Nhà Trần thay thế nhà Lý, ổn định trật tự trong nước, các phe phái đối kháng đã thu phục chính quyền trung ương. Bộ máy chính quyền được xây dựng có hệ thống từ trung ương tới các địa phương.Nho giáo tuy chưa phát triển mạnh như Phật giáo, nhưng với cơ sở từ thời Lý sang thời Trần, nhà nước cũng rất chú trọng đến việc học hành, thi cử chọn nho sỹ có tài. Nhiều nhân tài được đào tạo trong thời Trần như Chu Văn An, Lê Văn Hưu, Trương Hán Siêu, Mạc Đĩnh Chi, PhạmSư Mạnh ..vv.. Năm 1232, nhà nước cho mở khoa thi Thái học sinh đểchọn nhân tài. Chữ Nôm ngày càng được phổ biến rộng rãi hơn. Bên cạnh Nho giáo, Phật giáo vẫn được phát triển mạnh, kế tiếp truyền thống từ thời Lý. Mặt khác ở thời Trần còn có phái thiền do người Việt Nam sáng lập ra. Đó là phái Trúc Lâm với 3 vị tổ: Trần Nhân Tông-Pháp Loa và Huyền Quang. Phật giáo ngày càng hoà hợp và gần gũi với đời sống dân gian. Chùa tháp vẫn được xây dựng nhiều, trong các làng xã cũng có nhiều ngôi chùa đẹp tuy quy mô không lớn như thời Lý.Về kinh tế, nhà nước chú trọng khuyến khích nông nghiệp phát triển. Quân đội nhà Trần vẫn được tổ chức theo chế độ " ngụ binh ư nông"để góp thêm lực lượng sản xuất nông nghiệp. Kinh tế thành thị cũng song song phát triển kéo theo sự thịnh vượng của kinh tế hàng hoá, giao thông... Tất cả những điều đó đã góp phần làm cho nhà nước phong kiến thời Trần ngày một vững mạnh hơn. Cũng ở thời gian này, ở phương Bắc đế quốc phong kiến Mông Cổ đang phát triển mạnh và tìm cách bành trướng thế lực ra nước ngoài. ở Châu Âu, Mông Cổ đã chiếm từ bờ biển Thái Bình Dương tới Hắc Hải, thậm chí đến cả Đại Tây Dương. Năm 1271 chúng chiếm được Trung Quốc lập ra triều đại nhà Nguyên. Sau đó chúng có ý đồ chiếm Việt Nam và cả vùng Đông Nam á. Suốt từ 1258 đến 1285, 1287 chúng đã 3 lần đem quân đánh chiếm Đại Việt song cả 3 lần đều thất bại nặng nề. Chiến thắng MôngNguyên một lần nữa đã khẳng định truyền thống yêu nước và ý chí của dân tộc ta. Đồng thời đưa uy tín và ảnh hưởng của nước ta lên cao hơn. Mặt khác, trong xã hội Đại Việt thời đó cũng có nhiều sự thay đổi lớn. Chế độ nông nô, nô tì tan rã, dần dần biến các nông nô thành những người nông dân tự do. Nhà nước chú ý hơn tới việc "nới sức dân để làm kế sâu rễ bền gốc".Tất cả những điều kiện xã hội đó đã phần nào ảnh hưởng tới sự phát triển mĩ thuật của thời Trần và nhất là tạo điều kiện thuận lợi cho văn hoá nghệ thuật dân gian phát triển, tạo nên đặc điểm riêng biệt cho mĩ thuật thời Trần.
2. Một số đặc điểm của mĩ thuật thời Trần
a, Sự thừa kế những tinh hoa văn hoá thời Lý.
Nhà Trần kế tiếp ngay sau thời Lý. Vì vậy khi bắt đầu được thành lập, nhà Trần thừa hưởng toàn bộ gia sản văn hoá thời Lý nhất là về mặt kiến trúc. Mãi đến sau kháng chiến chống quân Nguyên Mông, kinh thành Thăng Long bị tàn phá nặng nề đến năm 1289 nhà Trần mới cho xây dựng lại kinh đô. Các công trình kiến trúc từ thời Lý như tháp Báo Thiên, chùa Dạm, chùa Phật Tích... vẫn còn tồn tại sừng sững và đẹp đẽ. Những công trình kiến trúc, những tác phẩm nghệ thuật điêu khắc từ thời Lý là cơ sở, nền móng cho mĩ thuật thời Trần phát triển. Mĩ thuật có sự thay đổi về phong cách phù hợp với diều kiện, hoàn cảnh xã hội mới. Tuy vậy cũng không thể có ngay một phong cách khác, mà cần có thời gian. Sự chuyển biến về phong cách sẽ diễn ra từ từ trên cơ sở thừa kế những tinh hoa của văn hoá nghệ thuật thời Lý. Điều này có thể thấy rõ qua một số tác phẩm và hình tượng nghệ thuật tiêu biểu, nhất là trong nghệ thuật chạm khắc trang trí. Những đề tài, hình tượng nghệ thuật ít có sự thay đổi. Trong chạm khắc ta lại gặp những nội dung đề tài quen thuộc. Đó là sóng nước, rồng, hoa sen, hoa văn tay mướp, phượng, người chim, mây, mặt trời.... Về hình thức thể hiện cũng có nhiều sự đồng nhất. Hoa văn sóng nước vẫn mang tinh thần hoa văn hình nấm, cao tầng như thời Lý.Hình rồng trên viên gạch thuộc hoa chùa Hoa Yên – Yên Tử – Quảng Ninh, vẫn mang những nét điển hình của rồng thời Lý như sự đều đặn, uốn lượn nhịp nhàng và sự mềm mại của đường nét. Đề tài rồng được thể hiện trong các mô típ đã được sử dụng nhiều trong mĩ thuật thời Lý như rồng châu vông sáng. Một số hao văn lá vẫn mang tính cách điệu cao như hình lá dương xỉ trang trí trên bệ đá chùa tháp Phổ Minh (Nam Định).Nhìn chung những chạm khắc trang trí thời Trần vẫn mang phong cách mềm mại, nhẹ nhàng, bộc lộ trí tưởng tượng phong phú và tài năng sáng tạo của ông cha ta. Những nét tinh hoa của văn hoá tạo hình thờ Lý vẫn trở lại trên các tác phẩm mĩ thuật thời Trần. Phải chăng đó không phải là đặc điểm của mĩ thuật thời Lý mà còn chính là đặc điểm mang tính dân tộc đậm đà của người Việt, mặc dù thời gian có thay đổi. Nói như vậy cũng không có nghĩa là đồng nhất mỹ thuật thời Lý và thời Trần, mà trên cở sở tinh hoa văn hoá Lý, mỹ thuật Trần lại phát triển trong điều kiện xã hội hội có nhiều biến thiên khác với thời Lý. Do đó bên cạnh việc kế thưà về văn hoá, nghệ thuật các nghệ nhân thời trần còn sáng tạo nhiều công trình tác phẩm mỹ thuậtđặc sắc và mang một phong cách riêng của thời Trần.Mặc dù vậy, những nét dân tộc vẫn được thể hiện rõ trong mỹ thuật thời Trần.
b. Những thay đổi và sáng tạo trong mỹ thuật thời Trần.
Nghệ thuật kiến trúc
Kiến trúc thời Trần lúc đầu được thừa kế thành tựu kiến trúc thời Lý do đó có nhiều điểm gần với kiến trúc thời Lý. Tuy vậy từ 1262 trở đi, vớikiến trúc chùa, tháp Phổ Minh, tháp Bình Sơn, chùa Thái Lạc... cùng với các tác phẩm chạm khắc trang trí trên các công trình đó đã bắt đầu bộc lộ phong cách mỹ thuật của thời Trần. Sự thay đổi về quan niệm đã dẫn đến sự thay đổi về vị trí, kiểu dáng các công trình kiến trúc, cách thể hiện các đề tài trang trí mang tính hiện thực phóng khoáng và thoáng đạt hơn.Qua dấu vết còn lại của một số ngôi chùa thời Lý cho thấy các chùa thời Lý thường được xây dựng ở những nơi đất cao và có cảnh đẹp như ở chân núi, trên núi...Vì vậy mặt bằng các chùa thời Lý thường được trải dài trên ba bốn bậc cấp và cao dần. Sang thời Trần, các chùa tháp đượcphân bố rộng rãi trên cả nước, tuy vậy nhiều hơn cả là những công
trình được dựng lên ở ven triền sông của vùng đồng bằng như Hà Tây,
Hải Dương, Nam Định, Quảng Ninh... Vì lẽ đó, bố cục mặt bằng chùa thời Trần cũng có thể có nhiều kiểu. Chùa Yên Tử, trung tâm của phái Trúc Lâm tam tổ được xây dựng trên núi, do đó phải bạt núi để xây dựng thành cụm chùa riêng theo từng cấp bậc. Lối kiến trúc này gần giống với lối kiến trúc của chùa Phất Tích, chùa Dạm thời Lý. Tuy vậy, còn có thể có bố cục theo kiểu " nội công ngoại quốc" có nghĩa là 3 toà Tiền Đường,Thiên Hương, Thượng Điện được sắp xếp theo kiểu chữ công ( ) hành lang bao quanh giống như chữ quốc ( ). Kiểu bố cục mặt bằng này sẽ gặp hiều hơn trong kiến trúc các thời kỳ sau. Qua đó cho thấy có những thừa kế và sự sáng tạo trong phong cách mỹ thuật thời Trần. Cùng với kiến trúc thời Lý, kiến túc thời Trần đã làm phongphú thêm, hoàn chỉnh thêm kiến trúc Phật giáo nói riêng và đóng góp cho kho tàng kiến trúc dân tộc nhiều công trình có giá trị cao.Tháp thời Trần được xây dựng theo kiểu tháp vuông 4 mặt, có nhiều tầng, nhỏ dần về phía ngọn. Tầng dưới cùng thường cao nhất có thể từ 2 đến 2,2 m. Bề ngoài thường được trang trí bằng nhiều hình tượng. Tháp có hai loại thờ Phật, thờ Tổ và tháp có đặt xá lị của các sư tổ ( tháp mộ). Đứng ở dưới đất ngước nhìn lên, ngọn tháp như vươn tới trời cao. Cây tháp như nét nối giữa trời và đất. Từ đó, những điều cầu nguyện, những mong muốn sự tốt lành cho con người sẽ đến được với Đức Phật. Có thể vì lẽ đó, mà tháp thường đứng với kiến trúc chùa và có chiều cao hơn ngôi chùa rất nhiều. Căn cứ trên các ngôi tháp còn lại ở thời Trần như tháp Phổ Minh, tháp Bình Sơn... thì chiều cao của tháp thường gần bằng hoặc bằng chu vi chân tháp ( có nghĩa là tỷ lệ giữa các cạnh đáy và chiều cao xấp xỉ tỉ lệ 1/4 ).Cùng với kiến trúc Phật giáo, trong thời Trần hai loại kiến trúc cung đình và kiến trúc lăng mộ cũng rất khá triển.Năm 1289, nhà Trần cho xây dựng lại kinh thành ThăngLong. So với thời Lý, kinh thành Thăng Long thời kỳ này đựơc mở mang thêm nhiều
đường phố, xây dựng thêm nhiều cung điện, lầu gác. Trước đó,( năm 1253) nhà Trần cho mở Quốc Học Viện đẩy mạnh việc thi cử, học hành. Ngoài ra, ở vùng quê hương Nam Định còn xây dựng phủ Thiên Trường với quy mô tương đối lớn trong thời gian từ 1262 đến 1264. Ngày nay các nhà khảo cổ còn tìm thấy nhiều dấu vết của khu cung điện đó. ở đây có khu Trùng Quang được to lớn và đẹp đẽ được Trần Nguyên Đán ví như cung điện nhà Hán, ngoài ra còn có nhiều cung điện làm chỗ nghỉ và làm việc cho các vua, các Thái Thượng Hoàng.
Nơi đây có trường học, chùa Tháp Phổ Minh... Tất cả các công trình đó làm cho phủ Thiên Trường trở thành nơi đô hội sầm uất, thịnh vượng của nhà Trần.
Cuối thời Trần, lợi dụng sự suy yếu của giai cấp thống trị của nhà Trần, Hồ Quý Ly đã nuôi âm mưu cướp ngôi của nhà Trần. Năm 1397, Hồ Quý Ly đã ép vua Trần Thuận Tông dời đô về Vĩnh Lộc – Thanh Hoá và xây dựng ở đây một kinh đô mới, đó là thành Tây Đô. Năm 1400, khi đã lên ngôi, Hồ Quý Ly vẫn coi đây là kinh đô cho nước Đại Ngu của mình.Kiến trúc cung đình thời Trần có 3 công trình lớn như kinh thành Thăng Long, Phủ Tây Đô và Phủ Thiên Trường( Nam Định). Ngoài hai thể loại kiến trúc cung đình và kiến trúc Phật giáo, thời kỳ này đã bắt đầu có những kiến trúc lăng mộ của các vua hoặc quan lớn như: Trần Thủ Độ cũng ược xây lăng ở Hưng Nhân ( Thái Bình ) . Mặc dù vậy về kiểu dáng cũng chưa có gì đáng kể. Phần lớn các lăng ngày nay đã bị tàn phá, không còn
được nguyên vẹn và việc xác định vị trí lăng rất khó. Tài liệu th
ì không còn nhiều, tuy vậy cũng có một số tài liệu nhắc đến khu lăng mộ của Trần Thủ Độ ở Thái Bình, lăng vua Trần Anh Tông, Trần Minh Tông, Trần Hiển Tông ở An Sinh -Đông Triều –Quảng Ninh...
Nghệ thuật điêu khắc:
Thời kỳ này điêu khắc vẫn gắn liền với kiến trúc, đi cùng kiến trúc và mang đặc điểm phong cách phù hợp với kiến trúc. Đi với kiến trúc chùa tháp có tượng Phật, tượng sấu, tượng rồng. Với lăng mộ có tượng quan hầu, tượng thú vừa mang tính chất trang trí cho lăng mộ vừa là người canh gác, hậu cần giữ cho trang nghiêm, tĩnh lặng của ngôi mộ tạo sự bình yên cho linh hồn người đã khu
ất. Nếu các bức tượng phù điêu còn lại của thời Lý tập trung nhiều ở chùa Phật Tích, chùa Dạm...thì ở thời Trần các tác phẩm tìm được lại tập trung ở các khu lăng mộ là chính.Trong số những tác phẩm điêu khắc còn lại của thời Trần có rất nhiều
tượng đá. Tượng Phật thì hầu như chưa tìm được tác phẩm nào, nhưng bệ đá hoa sen thì lại tìm được khá nhiều như bệ đá chùa Ngọc Đình (1374), chùa Bối Khê (1382)...Theo nhiều nhà nghiên cứu mĩ thuật thì những bệ đá hoa sen có thể là bệ tượng Phật hoặc để bày đồ lễ và thường được đặt ở vị trí tôn nghiêm nhất trong chùa. Bệ đá hoa sen thường được thể hiện là một khối chữ nhật, phần trên cùng chạm hai lớp cánh sen, phần tiếp theo thu nhỏ lại, bốn góc tạo hình bốn con chim thần. Các mặt chia ô chạm rồng, mây, hoa, lá... Dưới cùng là bế đệ Trong một số lăng mộ của vua quan thời Trần có những con vật gần gũi với đời sống người dân như con trâu, con chó... bên cạnh những đề tài chính thống khác như tứ linh... Mặc dù vậy ngay cả trong những pho tượng thể hiện đề tài chính thống vẫn bắt gặp những nét dân gian, chất hiện thực sinh động và biểu hiện cảm xúc mạnh mẽ. Trên các pho tượng thời Trần, trang trí hoa văn đơn giản và bớt đi nhiều so với thời Lý.Các tác phẩm chạm khắc, trang trí vẫn thể hiện những đề tài quen thuộc như : rồng, mây, sông nước, hoa lá... Tuy vậy cũng có một số thay đổi như đề tài thể hiện tổng hợp: đầu rồng, sừng tê, ngọc báu... Hình tượng các cô tiên dâng hương, dâng hoa đều thể hiện trong hình thức nửa người,nửa chim rất phong phú và sinh động. Hình tượng này gặp nhiều trong các trang trí ở chùa Lạc Thái – Hải Hưng. Mật độ các hoa văn trang trí thoáng hơn, đường nét bớt sự đều đặn và phóng khóang hơn. ở một số nơi còn trang trí các đề tài mang đậm chất dân gian như tác phẩm: " Dê, hoa, lá" ở bệ tượng phật chùa Bối Khê (1382) – Hà Tây.Hình tượng rồng mặc dù về cơ bản vẫn giữnhiều nét kế thừa rồng thời Lý song trong cách thể hiện lại có nhiều sự thay đổi. Các uốn khúc không còn đều đặn, thoăn thoắt mà khúc doãng, khúc mau tạo sự sống động và hiện thực cho con rồng thời Trần. Những nét mềm mại trong con rồng thời Lý bớt đi nhiều, thay vào đó là nét mập mạp, khoẻ khoắn và cứng cáp hơn. Một vài chi tiết như chân, đầu móng rõ ràng khúc chiết hơn.Có thể so sánh ở nhiều tác phẩm, nhiều thể loại nghệ thuật để thấy rõ sự thay đổi trong phong cách sáng tạo của thời Trần dựa trên những cơ sở tinh hoa nghệ thuật được tiếp thu của thời Lý. Đặc điểm này bộc lộ rất rõ trong mỹ thuật thời Trần.
.Nghệ thuật hội hoạ:
Bên cạnh những tác phẩm chân dung mang tính chất lý tưởng như bức tranh chân dung 72 người học trò vủa Khổng Tử, thời Trần còn có bộ tranh chân dung của những người có công trongcuộc kháng chiến chống quan Nguyên Mông. Những bức tranh đó được tập trung trong bộ " Trung hưng thực lục". Trong đó có ghi rõ tiểu sử, chép truyện và vẻ hình. Đây là một bộ sách có giá trị lịch sử và giá trị nghệ thuật cao. Song rất tiếc là đến nay vẫn chưa tìm thấy được tranh, mà chỉ lưu truyền những câu thơ vua ban khi tặng tranh. Qua đó chúng ta biết
3; Một số tác phẩm tiêu biểu của thời Trần.
a, Chùa Bút Tháp Phổ Minh( Lộc Vương-Nam Định)
Chùa Phổ Minh là một trong những công trình kiến trúc tiêu biểu của thời Trần. Chùa được xây dựng từ thời Lý . Sang thời Trần chùa được xây dựng mởi mang hơn. Có thể chùa đã được xây dựng lại với quy mô rộng lớn từ năm1262. Tuy đã nhiều lần tu bổ nhưng chùa vẫn còn giữ được nhiều dấu tích nghệ thuật đời Trần.
Chùa Phổ Minh được xây dựng theo kiểu nội công ngoại quốc. Cụm kiến trúc chính của chùa bao gồm 9 gian tiền đường, 3 gian thiêu hương, toà thượng điện cũng 3 gian nhưng rộng hơn, xếp theo hình chữ "công". Bộ cửa gian giữa nhà tiền đường gồm 4 cánh bằng gỗ lim, to dày, chạm rồng, sóng nước, hoa lá và văn hoa hình học. Hai cánh ở giữa chạm đôi rồng lớn chầu Mặt Trời trong khuôn hình lá đề, được coi là một tác phẩm điêu khắc khá hoàn mỹ. Cũng như đôi sấu đá trên thành bậc tam quan và đôi rồng trên thành bậc gian giữa tiền đường, bộ cánh cửa này còn giữ được những dấu ấn của nghệ thuật chạm khắc đời Trần.
Một số công trình kiến trúc bài trí khác đã làm tô thêm vẻ đẹp của chùa Phổ Minh, như 3 gian tam quan khung gỗ, tường gạch, mái ngói rêu phong, cổ kính với bức hoành phong đề 4 chữ lớn. "Đại hùng bảo điện" và thành bậc thềm ở chính giữa có chạm đôi sấu đá rất sống động, hai hồ tròn thả sen nằm đăng đối hai bên lối đi dẫn vào chùa.
Trong chùa có bày tượng Trần Nhân Tông nhập Niết bàn (tượng nằm); tượng Trúc Lâm Tam tổ dưới bóng cây trúc; một số tượng Phật đẹp lộng lẫy. Chuông lớn của chùa có khắc bản văn "Phổ Minh đỉnh tự" đúc năm 1796 - chùa vốn có một vạc lớn, sử sách coi là một trong bốn vật báu của Việt Nam (An Nam tứ đại khí) nhưng nay không còn.
Sau thượng điện, cách một sân hẹp là ngôi nhà dài 11 gian. Ở giữa là 5 gian nhà tổ, bên trái là 3 gian nhà tăng và bên phải là 3 gian điện thờ. Hai dãy hành lang nối tiền đường ở phía trước với ngôi nhà 11 gian ở phía sau làm thành một khung vuông bao quanh kiến trúc chùa.
Kiến trúc thời nhà Trần được bảo tồn khá nguyên vẹn ở đây là tháp Phổ Minh, dựng năm 1305. Tháp cao khoảng 17 m, gồm 14 tầng. Nền tháp và tầng thứ nhất xây bằng đá, những tầng còn lại phía trên xây bằng gạch. Tầng nào cũng trổ 4 cửa vòm cuốn, giữa các tầng là gờ mái... Tầng tháp thứ nhất đặt trên bệ đá, có hai lớp cánh sen, lớp dưới chúc xuống, lớp trên ngửa lên đỡ lấy tháp hình vuông, mỗi cạnh rộng hơn 5 m. Bệ và tầng thứ nhất có những hình chạm nông trên mặt đá như hoa lá, sóng nước, mây cuốn, đặc trưng cho phong cách trang trí thời nhà Trần. Mặt ngoài những viên gạch các tầng trên được trang trí hình rồng.
b, Tháp Bình Sơn ( chùa Vĩnh Khánh , xã Tam Sơn, huyện Lập Thạch, tỉnh Phú Thọ).
Tháp Bình Sơn, còn gọi là Tháp chùa Vĩnh Khánh hay Tháp Then, là một ngôi tháp cổ, tương truyền nguyên thủy có 15 tầng tuy hiện nay chỉ còn lại 11 tầng. Tháp được xây dựng từ thời Trần, nằm ở trong khuôn viên chùa Vĩnh Khánh (chùa Then) thuộc thôn Bình Sơn, thị trấn Tam Sơn huyện Sông Lô, tỉnh Vĩnh Phúc.
Là ngọn tháp tiêu biểu cho kiến trúc chùa tháp thời Lý-Trần ở Việt Nam và là ngọn tháp đất nung đời Trần cao nhất còn lại đến ngày nay,Tháp Bình Sơn với hình khối thanh thoát, đường nét mềm mại, trang trí phong phú điêu luyện, là di tích lịch sử và di tích nghệ thuật có giá trị cao vào bậc nhất. trên lãnh thổ Việt Nam.
Tháp Bình Sơn tương truyền có 15 tầng, theo các cụ cao niên địa phương kể lại thì trên nóc tháp còn có một hình khối búp hoa sen chưa nở bằng đất nung tạo cho tháp một dáng vẻ thanh thoát vươn cao. Tháp hiện chỉ còn 11 tầng tháp và 1 tầng bệ vì phần chóp của tháp đã bị vỡ, có chiều cao đo được 16,5 mét. Tháp cấu tạo với bình đồ hình vuông nhỏ dần về phía ngọn với cạnh của tầng dưới cùng là 4,45 mét, cạnh của tầng thứ 11 là 1,55 mét.
Toàn bộ phần còn lại của tháp, căn cứ vào thống kê phân loại trong tiến trình tháo dỡ phục dựng, cho thấy tháp được xây dựng bằng 13.200 viên gạch nung, gồm 2 loại trong đó có một loại hình vuông kích thước là 0,22m × 0,22m, một loại hình chữ nhật kích thước 0,45m × 0,22m. Trong lòng tháp là một khoảng rỗng nhỏ chạy suốt chân tháp lên đến ngọn.
c , Tượng ở lăng mộ.
Tượng hổ lăng Trần Thủ Độ.( Hưng Nhân-Thái Bình).
"Tượng hổ ở lăng Trần Thủ Độ (Thái Bình). Trần Thủ Độ là thái sư triều Trần, ông là người uy dũng, quyết đoán, người góp phần dựng lên vương triều Trần, người có vai trò quan trọng trong chiến thắng chống quân xâm lược Mông Cổ (1258). Khu lăng mộ của ông được xây dựng vào năm 1264 tại Thái Bình, ở lăng có tạc một con hổ. Tượng hổ có kích thước gần như thật (dài 1m43), thân hình thon, bộ ức nở nang, bắp vế căng tròn. Tượng đã lột tả tính cách dũng mãnh của vị chúa sơn lâm ngay cả trong tư thế rất thư thái: nằm xoải chân, chân thu về phía trước, đầu ngẩng cao. Tượng hổ tạo khối đơn giản, dứt khoát, có chọn lọc và được sắp xếp một cách chặt chẽ, vững chãi. Sự trau chuốt, nuột nà của hình khối và đường nét với những đường chải mượt của tóc hổ, những đường vằn đều đặn trên ức tạo nên những hoa văn trang trí tôn thêm vẻ đẹp của hổ. Thông qua hình tượng con hổ, các nghệ sĩ điêu khắc thời xưa đã nắm bắt và lột tả được tính cách, vẻ đường bệ, lẫm liệt của Thái sư Trần Thủ Độ."
Tượng thú và quan hầu ở lăng Trần Hiến Tông( An Sinh-Đông Triều – Quảng Ninh ).
Tượng quan hầu trong lăng vua Trần Hiến Tông ở xã An Sinh huyện Đông Triều , tỉnh Quảng Ninh .Vua Trần Hiến Tông mất năm 1341 , tuy đã 13 năm làm vua , nhưng lúc ấy mới 23 tuổi . Có lẽ vì thế , trong sự thương tiếc của triều đình , đây là lăng mộ vua Trần duy nhất có các tượng “người đá , ngựa đá ,hổ đá , dê đá ,trâu đá “như các tác giả sách Đại Nam Nhất Thống Chí ở cuối thế kỷ XIX còn thấy > Sau nhiều biến thiên lịch sử , cho đến thập niên 70 của thế kỷ XX , khu lăng đã bụ hủy hoại , song vẫn còn hai tượng quan hầu , chó đá và trâu đá .
Rất tiếc cả hai tượng quan hầu đều bị gẫy mất đầu nhưng may tìm được một đầu tượng chắp lên rất khớp ., và như thế có thể nhận ra một tượng quan hầu khá nguyên . tượng cao 130 cm, đứng trên đế chữ nhật cạnh trước 39 cm cạnh bên 30 cm còn nổi trên đất 10cm . Tượng và bệ liền một khối đá dựng thẳng đứng , tất cả khuôn lại trong một trụ gọn gàng như kiểu tượng mồ tây nguyên , không có những chi tiết nhô ngang dễ gãy . Tượng được diễn tả một viên quan hầu cận đứng nghiêm , hai tay ép sát sườn rồi đưa ngang về trước bụng để nâng một vật như chiếc hộp trước ngực , nhưng bàn tay bị che khuất . Đầu tượng đội mũ bó sát thành băng ngang phía trên trán .Thân mặc áo dài quét đất , gấu áo hơi loe ra , phía trước để lộ hai bàn chân đi giầy , ống tay áo rộng thành khối vuông trước bụng , áo không có trang trí mà chỉ có nếp chảy xuôi , bốn cạnh thân nổi rõ . Như vậy toàn thân tượng cũng như các thành phần chính được quy về các khối hình học có góc cạnh rõ ràng , điều đó làm tăng tính khúc triết , khỏe khoắn , dứt khoát . Đầu tượng hơi dài , mặt thon thả ,mắt , nũi , miệng đều rát thực và ở trạng thái đăm chiêu , bình thản .Trong không gian lăng mộ , giữa lũng hoang cạnh sườn núi , tượng quan hầu trang nghiêm và tĩnh lặng đến tuyệt đối , phảng phất một nỗi ưu tư .
d, Một số bức chạm khắc tiêu biểu.
Nhạc công cưỡi phượng chạm trên cốn ở tòa thượng điện chùa thái lạc.
Bia chùa Hàn( xã Nhật Tâm,huyện Tứ Lộc, tỉnh Hải Dương).
Hình chạm trên ngai gỗ chùa thầy.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- my_thuat_thoi_ki_nha_tran_3154.doc