Đối với Chính Phủ
Rà soát, sửa đổi, ban hành đồng bộ hệ thống
văn bản pháp luật liên quan đến quản lý môi
trường CCN nhằm tạo hành lang pháp lý vững
chắc cho công tác bảo vệ môi trường CCN;
Chỉ đạo các địa phương tăng cường đầu tư,
trang bị hệ thống quan trắc tự động tại các
CCN để thường xuyên theo dõi diễn biến, hiện
trạng, kiểm soát nguồn ô nhiễm tại các CCN;
Tăng cường nguồn vốn hỗ trợ đầu tư từ ngân
sách trung ương để đầu tư cho hạ tầng CCN
tại địa phương.
Đối với các Bộ/ngành
Bộ Tài nguyên và Môi trường: rà soát, sửa
đổi, bổ sung và xây dựng các văn bản pháp
luật liên quan đến bảo vệ môi trường CCN
phù hợp với yêu cầu và tình hình thực tế các
địa phương; xây dựng, ban hành các chế tài
xử lý và có chính sách di dời các cơ sở gây ô
nhiễm vào CCN; xây dựng các chính sách
BVMT riêng đối với CCN và các chính sách
khuyến khích phát triển công nghệ sạch, thân
thiện môi trường ở các CCN.
Bộ Công thương: sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện
quy chế quản lý CCN phù hợp với các địa
phương; tăng cường chỉ đạo UBND cấp tỉnh
quản lý chặt chẽ trong các khâu quy hoạch,
thành lập, đầu tư xây dựng hạ tầng đến quản
lý hoạt động của các CCN.
Các Bộ, ngành khác liên quan (Bộ xây dựng,
Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Nội vụ, Bộ Tài
chính) tăng cường chỉ đạo công tác hướng dẫn,
kiểm tra, giám sát CCN chấp hành pháp luật
trong phạm vi chức năng, nhiệm vụ của mình.
Đối với UBND các cấp:
Bố trí nguồn kinh phí sự nghiệp môi trường
cho các hoạt động quản lý môi trường CCN;
Xem xét, điều chỉnh, phê duyệt quy hoạch
phát triển CCN phù hợp với tình hình thực tế
tại địa phương;
Ban hành quy chế phối hợp công tác quản lý
môi trường của CCN;
Tăng cường thu hút đầu tư và có chính sách
ưu tiên đối với các ngành công nghiệp sạch, ít
ô nhiễm vào CCN;
Đối với doanh nghiệp
Chấp hành và thực hiện đầy đủ, nghiêm túc
các nội dung cam kết trong báo cáo ĐTM,
cam kết bảo vệ môi trường đã được phê
duyệt/xác nhận;
Triển khai, xây dựng hệ thống xử lý nước
thải, hệ thống xử lý khí thải đồng bộ với cơ sở
hạ tầng CCN;
Loại bỏ các công nghệ lạc hậu, gây ô nhiễm
môi trường. Đầu tư các công nghệ hiện đại
giảm thiểu gây ô nhiễm môi trường.
4 trang |
Chia sẻ: hoant3298 | Lượt xem: 578 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Một số vấn đề về quản lý môi trường cụm Công nghiệp tại Việt Nam: Thực trạng và giải pháp, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Nguyễn Hải Yến và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 117(03): 191 - 194
191
MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ QUẢN LÝ MÔI TRƢỜNG CỤM CÔNG NGHIỆP
TẠI VIỆT NAM: THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP
Nguyễn Hải Yến1, Nguyễn Thị Ngọc Ánh1, Nguyễn Thị Vân Chi2*
1Viện Khoa học quản lý môi trường, 2Cao đẳng Kinh tế kỹ thuật – ĐH Thái Nguyên
TÓM TẮT
Cụm công nghiệp đóng vai trò quan trọng trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội của đất nƣớc,
đặc biệt đóng góp cho tăng trƣởng giá trị sản xuất công nghiệp, giải quyết việc làm, chuyển dịch
cơ cấu kinh tế và lao động. Bên cạnh những kết quả tích cực đã đạt đƣợc, quá trình phát triển cụm
công nghiệp còn tồn tại nhiều vƣớng mắc, bất cập nhất là trong vấn đề quản lý môi trƣờng. Bài báo
tập trung phân tích một số kết quả đạt đƣợc, các khó khăn, bất cập và đề xuất kiến nghị nâng cao
hiệu quả quản lý môi trƣờng cụm công nghiệp trong thời gian tới.
Từ khóa: cụm công nghiệp, quản lý môi trường, thực trạng, giải pháp.
ĐẶT VẤN ĐỀ*
Phát triển công nghiệp là xu hƣớng tất yếu
của quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa
đất nƣớc, tạo ra nhiều việc làm và đóng góp
đáng kể vào sự tăng trƣởng kinh tế. Một trong
những nhân tố đóng vai trò quan trọng trong
quá trình phát triển kinh tế - xã hội nói chung
và phát triển công nghiệp nói riêng là các cụm
công nghiệp (CCN). Trong những năm qua,
số lƣợng các CCN phân bố trên địa bàn cả
nƣớc tăng lên nhanh chóng. Theo số liệu
thống kê của Cục Công nghiệp địa phƣơng -
Bộ Công thƣơng, tính đến cuối năm 2012 cả
nƣớc có 878 CCN đã có quyết định thành lập
hoặc đã đƣợc phê duyệt dự án đầu tƣ xây
dựng hạ tầng với tổng diện tích 32.481 ha.
Trong số 878 CCN, hiện có 615 CCN đang
hoạt động với tổng diện tích đất là 16.252 ha.
Các CCN đang hoạt động đã thu hút đƣợc
7.312 dự án đầu tƣ với tổng số vốn đầu tƣ
đăng ký trên 112.000 tỷ đồng.
Trong quá trình hoạt động, các CCN đã đạt
đƣợc những kết quả nhất định trong việc thúc
đẩy tăng trƣởng kinh tế đất nƣớc, đóng góp
đáng kể vào tăng trƣởng GDP. Tuy nhiên, bên
cạnh những kết quả đạt đƣợc, hoạt động của
CCN cũng gây ra những tác động tiêu cực,
ảnh hƣởng nghiêm trọng đến môi trƣờng.
*
Tel: 0912 439858, Email: nguyenvanchi79@gmail.com
Những nguyên nhân chính dẫn đến tác động
tiêu cực là do công tác quản lý môi trƣờng
CCN chƣa hiệu quả; quy hoạch phát triển
CCN chƣa gắn với công tác bảo vệ môi
trƣờng; đầu tƣ hạ tầng bảo vệ môi trƣờng
chƣa đồng bộ; nhận thức và ý thức thức chấp
hành pháp luật của các tổ chức, doanh nghiệp
chƣa cao. Chính vì vậy, cần thiết đánh giá
đúng thực trạng nhằm đề xuất các giải pháp
nâng cao hiệu quả quản lý môi trƣờng CCN
tại Việt Nam trong thời gian tới.
THỰC TRẠNG BAN HÀNH VĂN BẢN
PHÁP LUẬT LIÊN QUAN ĐẾN QUẢN LÝ
MÔI TRƢỜNG CCN
Trong những năm qua Nhà nƣớc đã ban hành
nhiều văn bản pháp luật và các cơ chế chính
sách về quản lý môi trƣờng CCN nhƣ:
- Luật bảo vệ môi trƣờng năm 2005.
- Thông tƣ số 08/2009/TT-BTNMT ngày 15
tháng 7 năm 2009 và Thông tƣ số
48/2011/TT-BTNMT ngày 26 tháng 12 năm
2011 của Bộ TN&MT sửa đổi, bổ sung một
số điều của Thông tƣ số 08/2009/TT-BTNMT
ngày 15 tháng 7 năm 2009 quy định về quản lý
và bảo vệ môi trƣờng khu kinh tế, khu công
nghệ cao, khu công nghiệp và cụm công nghiệp.
- Quyết định số 105/2009/QĐ-TTg ngày
19/8/2009 của Thủ tƣớng Chính phủ về việc
ban hành Quy chế quản lý CCN.
- Thông tƣ số 39/2009/TT-BCT ngày
28/12/2009 của Bộ Công Thƣơng hƣớng dẫn
thực hiện một số nội dung của Quy chế quản
lý CCN.
Nguyễn Hải Yến và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 117(03): 191 - 194
192
- Thông tƣ liên tịch số 31/2012/TTLT-BCT-
BKHĐT ngày 10/10/2012 của liên Bộ Công
Thƣơng và Kế hoạch và Đầu tƣ hƣớng dẫn xử
lý CCN hình thành trƣớc khi Quy chế quản lý
CCN ban hành kèm theo Quyết định số
105/2009/QĐ-TTg ngày 19/8/2009 của Thủ
tƣớng Chính phủ có hiệu lực.
Ngoài ra, các UBND tỉnh, huyện đã ban hành
các quy chế quản lý và bảo vệ môi trƣờng
CCN trên địa bàn.
Việc ban hành các văn bản pháp luật đã hỗ trợ
kịp thời cho công tác quản lý môi trƣờng
CCN, đặc biệt sau khi Thủ tƣớng Chính phủ
ban hành Quyết định số 105/2009/QĐ-CP đã
xác định rõ cơ quan quản lý CCN, tạo hành
lang pháp lý thống nhất từ Trung ƣơng đến
địa phƣơng.
Tuy nhiên, hệ thống văn bản pháp luật về bảo
vệ môi trƣờng CCN còn thiếu, chƣa có sự liên
kết, chồng chéo và mâu thuẫn. Tại phần lớn
các địa phƣơng đều chƣa ban hành văn bản
quy định riêng đối với quản lý môi trƣờng
CCN (mới chỉ có 13/63 địa phƣơng đã ban
hành cơ chế chính sách riêng về phát triển
CCN). Bên cạnh đó, các văn bản pháp luật
cấp Trung ƣơng không phù hợp với tính chất
đặc trƣng của CCN phân bố tại nhiều địa
phƣơng đã gây khó khăn, vƣớng mắc trong quá
trình quản lý, triển khai và tổ chức thực hiện.
THỰC TRẠNG CÔNG TÁC QUY HOẠCH
CỤM CÔNG NGHIỆP
Theo số liệu thống kê của phòng Quản lý
CCN, Cục Công nghiệp địa phƣơng, đến năm
2012 có 17 địa phƣơng đã hoàn thành việc
lập, phê duyệt quy hoạch phát triển CCN; 11
địa phƣơng đang trong quá trình lập quy
hoạch; 6 địa phƣơng đang trình duyệt quy
hoạch; 29 địa phƣơng còn lại lồng ghép quy
hoạch phát triển CCN thành một nội dung
trong quy hoạch phát triển công nghiệp trên
địa bàn.
Nhìn chung công tác quy hoạch ngày càng
đƣợc các địa phƣơng nhận thức đúng mức,
giúp hạn chế việc phát triển CCN tự phát và
thiếu quy hoạch. Tuy nhiên, chất lƣợng quy
hoạch phát triển CCN ở các địa phƣơng nhìn
chung chƣa cao, chƣa bám sát nhu cầu mặt
bằng sản xuất của các doanh nghiệp trên địa
bàn. Tại nhiều địa phƣơng, UBND tỉnh chƣa
xem xét, điều chỉnh, phê duyệt quy hoạch
phát triển CCN theo đúng quy định của Chính
phủ và phù hợp với điều kiện kiện kinh tế - xã
hội của địa phƣơng. Thậm chí, tại một số địa
phƣơng, công tác quy hoạch CCN chƣa đƣợc
thực hiện, trong khi các doanh nghiệp đã đi vào
hoạt động sản xuất, gây khó khăn cho việc quy
hoạch chi tiết và đầu tƣ hạ tầng CCN.
THỰC TRẠNG CÔNG TÁC THANH TRA
VIỆC THỰC THI PHÁP LUẬT BẢO VỆ
MÔI TRƢỜNG TẠI CÁC CCN
Theo quy định, các đơn vị quản lý có chức
năng thanh tra, kiểm tra vấn đề môi trƣờng
CCN bao gồm: Thanh tra môi trƣờng – Tổng
cục môi trƣờng có thẩm quyền thực hiện tranh
tra, kiểm tra, xử lý các hành vi vi phạm trong
công tác bảo vệ môi trƣờng của các doanh
nghiệp nằm trong CCN; Sở Tài nguyên và
Môi trƣờng là đơn vị chủ trì thực hiện công
tác thanh tra, kiểm tra theo kế hoạch và kiểm
tra đột xuất việc thực hiện pháp luật về bảo vệ
môi trƣờng của các doanh nghiệp trong các
CCN; Ủy ban nhân dân các huyện tổ chức
thanh tra, kiểm tra theo thẩm quyền, giám sát
việc thực hiện kết luận của các đoàn thanh tra,
kiểm tra, xem xét, xử lý kịp thời các hành vi
vi phạm theo định kỳ hàng năm ngoài các đợt
kiểm tra của tỉnh.
Kết quả các đợt thanh tra, kiểm tra việc thực
hiện pháp luật bảo vệ môi trƣờng cho thấy,
phần lớn các doanh nghiệp chƣa thực hiện
đầy đủ các nội dung đã cam kết trong báo cáo
đánh giá tác động môi trƣờng, cam kết bảo vệ
môi trƣờng đã đƣợc phê duyệt/xác nhận. Bên
cạnh đó, theo số liệu báo cáo, trong tổng số
615 CCN đang hoạt động, mới chỉ có 40 CCN
có hệ thống xử lý nƣớc thải tập trung, chiếm
tỷ lệ 6,5%. Trong các CCN, hầu hết các
doanh nghiệp chƣa xây dựng hệ thống xử lý
nƣớc thải. Nhiều doanh nghiệp đã xây dựng
hệ thống xử lý nƣớc thải nhƣng chƣa phù hợp
Nguyễn Hải Yến và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 117(03): 191 - 194
193
với công suất xả thải. Nguyên nhân là do các
doanh nghiệp chƣa quan tâm đến công tác bảo
vệ môi trƣờng, kinh phí đầu tƣ xây dựng hệ
thống xử lý nƣớc thải lớn, nguồn tài chính của
doanh nghiệp hạn hẹp nên nhiều doanh
nghiệp cố tình trì hoãn việc xây dựng hệ
thống xử lý nƣớc thải.
Về vấn đề kiểm soát ô nhiễm khí thải, phần
lớn các doanh nghiệp nằm trong CCN đều
chƣa xây dựng hệ thống xử lý khí thải theo
đúng quy định hoặc có xây dựng nhƣng chỉ
mang tính hình thức. Bởi vậy, nguồn khí thải
phát sinh chƣa đƣợc xử lý đạt QCVN.
Vấn đề đăng ký chủ nguồn thải chất thải nguy
hại và quản lý chất thải nguy hại cũng chƣa
đƣợc thực hiện đầy đủ, nghiêm túc và đúng
quy định. Các doanh nghiệp chƣa ký hợp
đồng đầy đủ với các đơn vị chức năng để vận
chuyển, xử lý chất thải nguy hại.
Bên cạnh các vấn đề trên, công tác quản lý
môi trƣờng CCN còn gặp phải một số khó
khăn, vƣớng mắc khác nhƣ:
Đầu tƣ cho công tác bảo vệ môi trƣờng còn
rất hạn chế: khả năng đáp ứng tài chính của
Nhà nƣớc hạn hẹp, trong khi kinh phí đầu tƣ
cho bảo vệ môi trƣờng đòi hỏi khá lớn. Theo
kết quả của các nghiên cứu trƣớc đây, mức
đầu tƣ trung bình của các nƣớc ASEAN cho
bảo vệ môi trƣờng trên 1% GDP thì ở Việt
Nam mới chỉ đáp ứng gần 1%. Mặt khác, việc
sử dụng kinh phí trong công tác bảo vệ môi
trƣờng còn phân tán, hiệu quả không cao.
Đội ngũ cán bộ chuyên môn, chuyên trách về
môi trƣờng trong các tổ chức quản lý môi
trƣờng các cấp còn thiếu về số lƣợng, yếu
kém về chất lƣợng. Đặc biệt, ở cấp quận,
huyện, phƣờng, xã, cán bộ quản lý môi
trƣờng dựa chủ yếu vào đội ngũ cán bộ làm
công tác địa chính nên chƣa thực sự phát huy
đƣợc hiệu quả.
Công tác giải phóng mặt bằng để xây dựng và
phát triển CCN tại các địa phƣơng gặp nhiều
khó khăn, vƣớng mắc, đặc biệt là giải phóng
mặt bằng để xây lắp các công trình bảo vệ
môi trƣờng.
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
Đối với Chính Phủ
Rà soát, sửa đổi, ban hành đồng bộ hệ thống
văn bản pháp luật liên quan đến quản lý môi
trƣờng CCN nhằm tạo hành lang pháp lý vững
chắc cho công tác bảo vệ môi trƣờng CCN;
Chỉ đạo các địa phƣơng tăng cƣờng đầu tƣ,
trang bị hệ thống quan trắc tự động tại các
CCN để thƣờng xuyên theo dõi diễn biến, hiện
trạng, kiểm soát nguồn ô nhiễm tại các CCN;
Tăng cƣờng nguồn vốn hỗ trợ đầu tƣ từ ngân
sách trung ƣơng để đầu tƣ cho hạ tầng CCN
tại địa phƣơng.
Đối với các Bộ/ngành
Bộ Tài nguyên và Môi trường: rà soát, sửa
đổi, bổ sung và xây dựng các văn bản pháp
luật liên quan đến bảo vệ môi trƣờng CCN
phù hợp với yêu cầu và tình hình thực tế các
địa phƣơng; xây dựng, ban hành các chế tài
xử lý và có chính sách di dời các cơ sở gây ô
nhiễm vào CCN; xây dựng các chính sách
BVMT riêng đối với CCN và các chính sách
khuyến khích phát triển công nghệ sạch, thân
thiện môi trƣờng ở các CCN.
Bộ Công thương: sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện
quy chế quản lý CCN phù hợp với các địa
phƣơng; tăng cƣờng chỉ đạo UBND cấp tỉnh
quản lý chặt chẽ trong các khâu quy hoạch,
thành lập, đầu tƣ xây dựng hạ tầng đến quản
lý hoạt động của các CCN.
Các Bộ, ngành khác liên quan (Bộ xây dựng,
Bộ Kế hoạch và Đầu tƣ, Bộ Nội vụ, Bộ Tài
chính) tăng cƣờng chỉ đạo công tác hƣớng dẫn,
kiểm tra, giám sát CCN chấp hành pháp luật
trong phạm vi chức năng, nhiệm vụ của mình.
Đối với UBND các cấp:
Bố trí nguồn kinh phí sự nghiệp môi trƣờng
cho các hoạt động quản lý môi trƣờng CCN;
Xem xét, điều chỉnh, phê duyệt quy hoạch
phát triển CCN phù hợp với tình hình thực tế
tại địa phƣơng;
Ban hành quy chế phối hợp công tác quản lý
môi trƣờng của CCN;
Nguyễn Hải Yến và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 117(03): 191 - 194
194
Tăng cƣờng thu hút đầu tƣ và có chính sách
ƣu tiên đối với các ngành công nghiệp sạch, ít
ô nhiễm vào CCN;
Đối với doanh nghiệp
Chấp hành và thực hiện đầy đủ, nghiêm túc
các nội dung cam kết trong báo cáo ĐTM,
cam kết bảo vệ môi trƣờng đã đƣợc phê
duyệt/xác nhận;
Triển khai, xây dựng hệ thống xử lý nƣớc
thải, hệ thống xử lý khí thải đồng bộ với cơ sở
hạ tầng CCN;
Loại bỏ các công nghệ lạc hậu, gây ô nhiễm
môi trƣờng. Đầu tƣ các công nghệ hiện đại
giảm thiểu gây ô nhiễm môi trƣờng.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Số liệu thống kê của Cục Công nghiệp địa
phƣơng (2012).
2. Viện Khoa học quản lý môi trƣờng – Tổng cục
môi trƣờng (2012), Báo cáo chuyên đề thuộc đề
tài nghiên cứu cấp Bộ “Nghiên cứu cơ sở khoa
học và thực tiễn nhằm đề xuất giải pháp kiểm soát
ô nhiễm khí thải từ cụm công nghiệp ở Việt Nam”
từ năm 2012-2014.
3. Viện Khoa học quản lý môi trƣờng – Tổng cục
môi trƣờng (2013), Báo cáo điều tra, khảo sát tình
hình quản lý cụm công nghiệp tại Việt Nam.
SUMMARY
ISSUES OF ENVIRONMENTAL MANAGEMENT IN INDUSTRIAL CLUSTERS
IN VIETNAM: CURRENT SITUATION AND SOLUTIONS
Nguyen Hai Yen
1
, Nguyen Thi Ngoc Anh
1
, Nguyen Thi Van Chi
2*
1The Institute of Science for Environmental Management,
2College of Economics and Technology - TNU
Industrial clusters have been playing an important role in social, economic development,
especially they contribute to the growth of industrial production value, increase job, restructure
economy and labor force. Besides the positively achieved results, the development process of
industrial clusters has faced with some problems, namely environmental management issues. Thus,
the article focuses on analyzing achieved results and difficulties, problems the article also provides
recommendations for effectively managing environment in industrial clusters.
Keywords: industrial clusters, environmental management, situation, solutions
Ngày nhận bài:10/12/2013; Ngày phản biện:30/12/2013; Ngày duyệt đăng: 17/3/2014
Phản biện khoa học: TS. Hà Quang Trung – Trường Cao đẳng Kinh tế Kỹ thuật - ĐHTN
*
Tel: 0912 439858, Email: nguyenvanchi79@gmail.com
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- brief_42136_45982_96201415205026_3613_2048674.pdf