Chúng tôi đã trình bày một cách hình thức
một số khái niệm cơ bản quan trọng cho mô
hình phát triển phần mềm thành phần, đó là:
giao diện, các hợp đồng, các giao thức tƣơng
tác, các thành phần; những quan hệ và sự biến
đổi của chúng; các tính toán làm mịn. Từ đó
cho thấy ý nghĩa và sự cần thiết khi phát triển
phƣơng pháp hình thức trong kỹ nghệ phần
mềm hƣớng thành phần. Đó là những cơ sở
cho các tính toán làm mịn để xây dựng và
phát triển các hệ thống thành phần và đối
tƣợng trong các giai đoạn khác nhau của tiến
trình phát triển hệ thống.
Các tính toán làm mịn ở đây đƣợc phát triển
dựa trên mô hình tính toán rCOS, bảo đảm sự
đúng đắn và nhất quán trong quá trình biến
đổi và phát triển. Trên cở sở của các tính toán
này chúng tôi sẽ xây dựng các hệ thống ứng
dụng theo phƣơng pháp hƣớng thành phần,
bảo đảm hiệu quả cho việc quản lý độ phức
tạp và sự biến đổi của hệ thống và tận dụng
tối đa khả năng sử dụng lại các thành phần.
8 trang |
Chia sẻ: dntpro1256 | Lượt xem: 672 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Một số tính toán và làm mịn với các thành phần, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Nguyễn Mạnh Đức Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 78(02): 97 - 104
97
MỘT SỐ TÍNH TOÁN VÀ LÀM MỊN VỚI CÁC THÀNH PHẦN
Nguyễn Mạnh Đức
Khoa Toán, Trường Đại học Sư phạm – Đại học Thái Nguyên
TÓM TẮT
Trong bài báo chúng tôi sẽ trình bày một cách hình thức một số khái niệm cơ bản quan trọng cho
mô hình phát triển phần mềm thành phần, bao gồm giao diện, các hợp đồng, các giao thức tƣơng
tác, các thành phần và những quan hệ giữa các khái niệm đó, các tính toán làm mịn giữa chúng với
nhau. Các đặc tả và các tính toán làm mịn đƣợc thực hiện dựa theo mô hình tính toán rCOS, để bảo
đảm tính đúng đắn và nhất quán của hệ thống. Những công việc này có thể đƣợc thực hiện trong
các giai đoạn khác nhau của tiến trình phát triển phần mềm. Từ đó cho thấy ý nghĩa và sự cần thiết
khi phát triển phƣơng pháp hình thức trong kỹ nghệ phần mềm hƣớng thành phần.
Từ khóa: Làm mịn hệ thống đối tượng và thành phần , thiết kế , giao diện, hợp đồng, thành phần,
ngôn ngữ mô hình hóa thống nhất UML
GIỚI THIỆU*
Sử dụng các thành phần để xây dựng và bảo
trì các hệ thống phần mềm không phải là ý
tƣởng mới. Tuy nhiên, do độ phức tạp của các
hệ thống trong ngày nay đang tăng lên nhanh,
điều đó đã buộc chúng ta phải trở lại với ý
tƣởng này trong thực tế [3]. Các kỹ thuật dựa
trên công nghệ hƣớng đối tƣợng và thành
phần đã trở nên phổ biến và đƣợc sử dụng
rộng rãi để mô hình hóa và thiết kế các hệ
thống phần mềm lớn và phức tạp. Chúng cung
cấp sự hỗ trợ hiệu quả để phân tách một ứng
dụng thành các đối tƣợng và thành phần, phục
vụ hữu hiệu cho việc sử dụng lại, mở rộng
những thiết kế đã có và cài đặt mới Các
công việc phân tích và kiểm tra hệ thống phức
hợp có thể sẽ dễ dàng hơn do kiến trúc của hệ
thống thành phần [5].
Thiết kế và phát triển hệ thống phần mềm với
ngôn ngữ hƣớng đối tƣợng đã đƣợc thừa nhận
là rất phức tạp [2]. Phát triển phần mềm theo
hƣớng thành phần là bƣớc phát triển logic tiếp
theo của phƣơng pháp hƣớng đối tƣợng.
Nhiều nhà nghiên cứu đã chỉ ra sự cần thiết
phát triển công cụ hình thức hoá làm nền tảng
cho việc phát triển phần mềm hƣớng đối
tƣợng và hƣớng thành phần. Trong bài báo
này chúng ta xem xét kỹ thuật mô hình hóa
mà nó hỗ trợ sự đặc tả các hệ thống đối tƣợng
và thành phần ở mức trừu tƣợng cao, dựa trên
*
Tel: 0915 564 249; Email: nmductn@yahoo.com
lý thuyết lập trình thống nhất của Hoare và
He [1, 5]. Đề xuất một số vấn đề phục vụ cho
việc thiết kế và phát triển các hệ thống thành
phần, dùng cho việc xây dựng một cách đúng
đắn các chƣơng trình hƣớng thành phần.
Sau phần giới thiệu, phần 2 trình bày khái
niệm giao diện (interface), phần 3 trình bày
khái niệm hợp đồng (contract), phần 4 trình
bày khái niệm về thành phần (component).
Trong mỗi phần chúng tôi sẽ đƣa ra các thảo
luận, một số tính chất và các ngữ nghĩa, mối
quan hệ giữa chúng và các tính toán làm mịn
liên quan. Trong phần 5 sẽ đƣa ra một số
nhận xét và kết luận về các công việc mà mà
chúng tôi đã tiến hành.
GIAO DIỆN (INTERFACES)
Giao diện của một thành phần có thể đƣợc
định nghĩa nhƣ là sự đặc tả điểm truy nhập
của thành phần đó [4]. Các khách hàng truy
nhập tới các dịch vụ đƣợc cung cấp bởi một
thành phần bằng cách sử dụng các điểm truy
nhập này. Nếu một thành phần có nhiều điểm
truy nhập, mỗi điểm truy nhập đó biểu diễn
cho các dịch vụ khác đƣợc đƣa ra bởi thành
phần, thì thành phần đƣợc mở rộng phải có
nhiều giao diện.
Interface là một tập hợp các đặc trƣng, ở đây
đặc trƣng có thể là trƣờng hoặc phƣơng thức.
Một cách hình thức, ta có thể định nghĩa
Interface nhƣ sau.
Định nghĩa (Interface): Interface là cặp khai
báo đặc các trưng I = . Trong
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
Nguyễn Mạnh Đức Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 78(02): 97 - 104
98
đó FDec là tập các khai báo trường, được ký
hiệu là I.FDec; MDec là tập các khai báo
phương thức, được ký hiệu là I.MDec.
Mỗi thành viên của FDec có dạng x: T, ở đây
x là tên và T là kiểu của trƣờng đƣợc khai
báo. Không đƣợc khai báo các trƣờng trùng
tên trong cùng một FDec.
Một phƣơng thức (phép toán) trong MDec có
dạng m(in inx, out outx), trong đó m là tên của
phƣơng thức, inx là danh sách các tham số
vào, outx là danh sách các tham số ra; Mỗi
một khai báo tham số vào hoặc ra có dạng u:
U là tên và kiểu của tham số.
Tên của phƣơng thức cùng với các tham số
cùng với các kiểu của các tham số vào và ra
tạo thành ký danh của phƣơng thức. Nói
chung cả inx và outx có thể trống. Để đơn
giản hóa và không làm mất tính tổng quát,
chúng ta có thể biểu diễn lại phƣơng thức ở
dạng m(in: U, out: V) bằng cách bỏ đi các từ
khóa inx và outx, do đó có thể coi m(in1: U,
out1: V) và m(in2: U, out2: V) là các phƣơng
thức cùng một ký danh. Đơn giản hơn có thể
biểu diễn một phƣơng thức của Interface là
m(u, v), với u và v là các tham số vào và ra
của m.
Trong một Interface không thực thi bất kỳ
một phƣơng thức nào của nó, thay vì đó chỉ là
các tên của các phƣơng thức cùng với các
tham số để cung cấp các ký danh cho những
phép toán của chúng.
Ví dụ 1: Một bộ đệm của các số nguyên, giao
diện của nó có khả năng cho ngƣời sử dụng
đặt vào và lấy ra dữ liệu từ nó. Ta có thể biểu
diễn giao diện này nhƣ sau:
IBuff = <buff: seq(int), {put(in x: int), get(out
y: int)}>
ở đây seq(int) là kiểu dãy hữu hạn có thứ tự
của các số nguyên và chúng ta qui ƣớc có thể
dùng các ký pháp chuẩn để chỉ độ dài, phần
tử đầu tiên hay cuối cùng của dãy.
Định nghĩa (tính gộp lại): Hai Interface là
có khả năng gộp lại (composable) nếu chúng
không sử dụng cùng một tên trường với các
kiểu khác nhau.
Giả sử I và J là các Interface có khả năng
gộp lại, kí pháp I ⊕ J biểu diễn một interface
với các thành phần trường và phương thức
như sau:
(I ⊕ J).FDec def I. FDec ∪
J.FDec
(I ⊕ J).MDec def I.MDec1 ∪
J.MDec
Theo định nghĩa trên ta có các tính chất sau
với các Interface có tính gộp lại:
(1) I ⊕ I = I
(2) I⊕ J = J⊕ I
(3) I1⊕ (I2⊕ I3 ) = (I1⊕ I2)⊕ I3
Ta có thể dễ dàng chứng minh các tính chất
này nhƣ sau:
(1) Theo tính chất lũy đẳng của
các phép toán tập hợp.
(2) Theo tính chất giao hoán của
các phép toán tập hợp.
(3) Theo tính chất kết hợp của
các phép toán tập hợp.
Sự kế thừa interface: Kế thừa (inheritance)
là các phƣơng tiện có ích cho sử dụng lại và
lập trình gia tăng. Khi thành phần cung cấp
chỉ một nhiệm vụ của các dịch vụ cần thiết
hoặc một số phép toán đƣợc cung cấp là
không đủ phù hợp cho sự cần thiết, chúng ta
có thể sử dụng thành phần này bằng cách viết
lại một số phép toán hoặc mở rộng nó với một
số phép toán xử lý và các thuộc tính.
Định nghĩa (kế thừa Interface): Cho I và J
là các Interface, giả thiết rằng không có
trường nào của J được định nghĩa lại trong I.
Ký pháp I extends J biểu diễn một Interface
có các miền trường và phương thức như sau:
(I extends J).FDec def I.FDec ∪
J.FDec
(I extends J).MDec def I.MDec ∪
{m(in: U, out: V)|m ∈ J.MDec∧ op ∉
I.MDec}
Theo định nghĩa này, ta có các tính chất sau:
(1) I extends (J1⊕ J2 ) = (I
extends J1)⊕ (I extends J2)
(2) (I1⊕ I2 ) extends J = (I1
extends J)⊕ (I2 extends J)
Ta có thể chứng minh các tính chất này
nhƣ sau:
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
Nguyễn Mạnh Đức Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 78(02): 97 - 104
99
(1) Theo tính chất kết hợp của các phép toán
tập hợp và do
(U \ V1 ) ∪ (U \ V2) = U \ (V1 ∪ V2)
(2) Theo tính chất kết hợp của các phép toán
tập hợp và do
(U1 \ V ) ∪ (U2 \ V) = (U1 ∪ U2) \ V
Sự làm ẩn (hiding): Để có thể đƣa ra các
dịch vụ khác nhau cho các khách hàng khác
nhau của một thành phần, chúng ta cho phép
làm ẩn các phép toán trong một interface để
không nhìn thấy chúng khi một thành phần
đƣợc bao bởi các thành phần nào đó. Việc
làm ẩn các toán tử cung cấp hiệu ứng ngƣợc
với kế thừa giao diện và đƣợc sử dụng để giới
hạn giao diện. Trong ký pháp đồ họa nhƣ
UML, vấn đề này có thể thực hiện đƣợc bằng
ký pháp tổng quát hóa [3, 9].
Định nghĩa (sự làm ẩn|sự che dấu): Giả sử I
là interface và S là tập các tên phương thức.
Ký pháp I\S chỉ interface I sau khi loại bỏ các
phương thức của S từ phần khai báo phương
thức của nó:
(I\S).FDec def I.FDec
(I\S).MDec def I.MDec \ S
Việc làm ẩn các phép toán có các tính chất
sau:
(1) (I \ S1) \ S2 = I \ (S1 ∪ S2)
(2) I \ ∅ = I
(3) (I1 ⊕ I2) \ S = (I1 \ S) ⊕ (I2 \ S)
(4) (I extends J) \ S = (I \ S) extends (J \ S)
Chứng minh: giả sử U, U1, U2, V, V1, V2 là các
tập hợp, ta có:
(1) đƣợc thỏa mãn do (U \ V1 ) \ V2 = U \
(V1 ∪ V2)
(2) đƣợc thỏa mãn do U \ ∅ = U
(3) đƣợc thỏa mãn do (U1 ∪ U2) \ V = (U1
\ V) ∪ (U2 \ V)
(4) đƣợc thỏa mãn do (U1 ∪ (U2 \ U1)) \ V
= ((U1 \ V) ∪ (U2 \ V)) \ (U1 \ V).
Từ (1) cho thấy rằng thứ tự của các phép
toán trong 2 tập không quan trọng. Từ (3)
ta thấy sự làm ẩn có tính phân phối với các
toán hạng trong interface. Dựa vào các tính
chất trên, một số các tính toán làm mịn của
contract và thành phần đã đƣợc xây dựng
và thực hiện [7, 8, 9].
HỢP ĐỒNG (CONTRACT)
Hợp đồng (Contract) là ngữ nghĩa đặc tả các
chức năng cho Interface. Đó là sự giao ƣớc
quan hệ của một giao diện tới một ứng dụng
bằng mô hình dữ liệu (trừu tƣợng) có tính rõ
ràng, cụ thể, mô tả các chức năng của các
toán tử dịch vụ, các giao thức đặc trƣng, và
bảo đảm các chất lƣợng yêu cầu khác của các
dịch vụ tùy thuộc vào ứng dụng. Mô hình
cũng cung cấp định nghĩa nhất quán giữa các
khung nhìn và phƣơng thức kiểm tra tính nhất
quán này. Sự liên quan có thể mở rộng theo
chiều ngang bằng cách bổ sung nhiều hơn các
dịch vụ, các tính chất để bảo đảm chất lƣợng
dịch vụ [3].
Sự đặc tả một phƣơng thức của một Interface
là thiết kế D = (, P) [1], ở đây :
- là tập của các biến (cùng với kiểu của
chúng) đƣợc sử dụng bởi phƣơng thức chứa
trong các tham biến vào và ra.
- P là tân từ có dạng (p ⊢ R) def (ok ∧
p) (ok’ ∧ R) đƣợc sử dụng để mô tả các
hành vi của phƣơng thức. p là tiền điều kiện,
trạng thái khởi tạo đƣợc chấp nhận là đúng để
nhờ đó mà phƣơng thức đƣợc kích hoạt và
đƣợc biểu diễn bởi tập {x | x ∈ ( \ {out})}
của các biến. Tân từ R đƣợc gọi là hậu điều
kiện, xác định quan hệ các trạng thái khởi đầu
tới các trạng thái cuối cùng và đƣợc mô tả bởi
tập {x’ | x ∈ ( \ {in})}.
Thiết kế D1 đƣợc làm mịn bởi thiết kế D2 (ký
hiệu là D1 ⊑ D2) nếu:
ok, ok’, v, v’ •
(D2 D1)
Một cách hình thức, contract đƣợc định nghĩa
nhƣ dƣới đây.
Định nghĩa (contract): Contract là cặp Ctr
= (I, Init, MSpec, Prot), trong đó:
1. I là một Interface.
2. Init là hàm xác định các giá trị khởi đầu
cho các trường đã khai báo trong I.FDec.
3. MSpec là ánh xạ mỗi phương thức m(in:
U, out: V) của I tới sự đặc tả của nó là thiết
kế với tập alphabet α, ở đây:
inα def {in} ∪ I.FDec, outα def {out’} ∪
I.FDec’, α = inα ∪ outα.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
Nguyễn Mạnh Đức Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 78(02): 97 - 104
100
4. Prot được gọi là giao thức của Interface,
đó là tập các dãy hữu hạn có thứ tự của các
sự kiện gọi phương thức. Dãy hữu hạn này có
dạng m1, m2, , mk.
Ý nghĩa của contract là:
1. Nếu ngƣời sử dụng các thành phần tuân
theo giao thức khi tƣơng tác với thành phần,
thì sẽ không xuất hiện các trạng thái đình trệ
cũng nhƣ sai lệch, và
2. Tại mọi thời điểm khi ngƣời sử dụng gọi
phép toán trong giao thức, trạng thái thay đổi
và trả lại giá trị sẽ phù hợp trạng thái đặc tả
chức năng của phép toán.
Với nhiều ứng dụng, các giao thức có thể
đƣợc chỉ rõ bởi các biểu thức chuẩn mực và
trong trƣờng hợp thuận tiện có thể đƣợc kiểm
tra tự động [3].
Ví dụ 2: Với giao diện của bộ đệm các số
nguyên trong ví dụ 1, Một contract CtrBuff
với giao diện của bộ đệm này có thể xác định
nhƣ sau:
CtrBuff.IBuff = IBuff // xác định
như trong ví dụ 1
CtrBuff.Init = |buff| = 0
CtrBuff.MSpec(put(in x: int)) def (true ⊢
buff’ = )
CtrBuff.MSpec(get(out y: int)) def (true ⊢
buff = out’ = head(buff))
CtrBuff.Prot = (put; get)* + (put; (get;
put)*)
Định nghĩa (reactive contract): Một
contract tác động trở lại (reactive contract)
là bộ ba Ctr = (I, Init, MSpec), ở đây MSpec
gắn mỗi phép toán m(x, y) trong interface I
với một thiết kế bị chặn.
Ví dụ 3: Con tract trong ví dụ 2 có thể coi nhƣ
contract tác động lại nhƣ sau:
CtrBuff.I = IBuff // xác định
như trong ví dụ 2
CtrBuff.Init = |buff| = 0
CtrBuff.MSpec(put(in x: int)) def (|buff|
= 0) & (true ⊢ buff’ = )
CtrBuff.MSpec(get(out y: int)) def (|buff|
> 0) & (true ⊢ buff’ = y’ = head(buff))
Cho contract tác động lại Ctr = (I, Init,
MSpec), hành vi động của nó đƣợc xác định
bởi các tập các trạng thái không phù hợp và
sai lệch F(Ctr) và D(Ctr). Mỗi phƣơng thức
gọi m(u, v) bao gồm hai sự kiện ?m(u) để tiếp
nhận yêu cầu và m(v)! để gửi trả lại cho lời
gọi, cho nên mỗi vết của các trạng thái không
phù hợp và sai lệch có dạng:
?m1(u1), m1(v1)!, , ?mn(un),
mn(vn)! và ?m1(u1), m1(v1)!, ,
?mn(un)
Các trạng thái không phù hợp và sai lệch
đƣợc xác định nhƣ sau [6]:
D(Ctr) bao gồm các dãy có thứ tự của các
tƣơng tác giữa Ctr và môi trƣờng của nó dẫn
contract tới trạng thái sai lệch.
F(Ctr) là tập của các cặp (s, X), ở đây s là
dãy thứ tự của các tƣơng tác giữa Ctr và môi
trƣờng của nó, X là tập các phƣơng thức để
contract có thể từ chối trả lời sau khi thực
hiện s. Một trạng thái không phù hợp (s, X) sẽ
là một trong các trƣờng hợp sau đây:
1. s =
và ∀m ∈ X . ךgm, k ≥ 0, nếu k=0 thì s = .
Điều này tƣơng ứng với trƣờng hợp khi hệ
thống tới trạng thái ở đó không bị chặn bởi
của các sự kiện trong X là phù hợp, sau khi
gọi thực hiện dãy có thứ tự này.
2. s = và mk!
∉ X. Điều này tƣơng ứng với trƣờng hợp khi
phép toán mk đang đợi tới đầu ra kết quả của
nó, biểu diễn bất kỳ của các phép toán khác sẽ
có kết quả trong trạng thái không phù hợp. Vì
nó cho rằng sự thi hành của phƣơng thức là
nguyên tử.
3. s = và X có
thể là tập bất kỳ của các phƣơng thức, ở đây
sự thực hiện mk đƣa tới trạng thái đợi.
4. s ∈ D(Ctr) và X có thể là tập bất kỳ của
các phƣơng thức. Đó là vết sai lệch với tập
bất kỳ của các phƣơng thức luôn luôn là trạng
thái không phù hợp.
Ví dụ 4: Tiếp theo ví dụ trên, hành vi động
của bộ đệm có thể đƣợc mô tả theo mô hình
D/F ở trên nhƣ sau:
D(CtrBuff) = 0
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
Nguyễn Mạnh Đức Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 78(02): 97 - 104
101
F(CtrBuff) = {(s, X) {?put, put!, ?get,
get!}* ℙ{?put, put!, ?get, get!}|
(k ℕ • s = X {?get, get!,
put!}) (k ℕ • s =
X {?get, get!, put!}) (k ℕ • s = <S(k),
?put(xk+1), put()!> X { get!, ?put, put!})
(k ℕ • s =
X { ?put, put, ?get!})}
Ở đây:
- ℙ{S} là một tập con của tập S.
- S(k) def ?put(x1), put()!, ?get(), get(x1)!,
, ?put(xk), put()!, ?get(), get(xk)!
Chú ý rằng, khái niệm của các contract trong
giới hạn chức năng tĩnh và các giao thức
tƣơng tác đƣợc sử dụng để hỗ trợ cho việc lắp
ghép các thành phần, khái niệm contract tác
động trở lại đƣợc sử dụng để thiết kế, thẩm tra
và cấp sự chứng nhận (chứng thực) [3].
Contract gộp lại: Hai contract có thể đƣợc
gộp lại để mở rộng chúng chỉ khi các
Interface của chúng có khả năng gộp lại, và
những sự đặc tả của các phƣơng thức chung là
nhƣ nhau (nhất quán). Thành phần kết cấu
này sẽ đƣợc sử dụng để tính toán các dịch vụ
cung cấp và yêu cầu khi các thành phần đƣợc
bao gộp lại.
Định nghĩa (composable Contract): Các
Contracti = (Ii , Initi, MSpeci, Proti),với i =1,
2 có khả năng gộp lại nếu:
1. I1 và I2 có khả năng gộp lại và
2. Với bất kỳ phương thức m nào đang xuất
hiện trong cả I1 và I2
MSpec1(m(in1: U, out1: V)) = MSpec2(m(u: U,
v: V))[in1, out1’/u, v’]
Trong trường hợp này contract gộp lại được
ký pháp là Ctr1||Ctr2 và thành phần cấu trúc
của nó được xác định bởi:
I def (I1 ⊕ I2) và MSpec def MSpec1 ⊕
MSpec2
ở đây MSpec1 ⊕ MSpec2 chỉ sự ghi đè
MSpec1(m) bằng MSpec2(m) nếu m xuất hiện
trong cả I1 và I2.
Chú ý mục đích của lập luận thành phần cấu
trúc trên, điều kiện 2 tạo nên sự mở rộng bảo
toàn thành phần cấu trúc này và các dịch vụ
đƣợc giới hạn nhƣ dạng tổng quát hóa của
ngôn ngữ mô hình hóa thống nhất UML [3].
Làm mịn Contract: Khái niệm làm mịn sau
sẽ cho phép chúng ta so sánh và thay thế các
thành phần tùy theo các contract của chúng.
Định nghĩa (làm mịn contract): Cho Ctr1 và
Ctr2 là các contract. Ctr1 được goi là làm mịn
bởi Ctr2, ký hiệu là Ctr1 ⊑ Ctr2 nếu:
1. Ctr1.MDec ⊆ Ctr2.MDec
2. D(Ctr1) ⊇ D(Ctr2)
3. F(Ctr1) ⊇ F(Ctr2).
Trong đó F(Ctr) là D(Ctr) là các tập đặc trƣng
cho các hành vi động của các contract Ctr.
Điều kiện 1 chỉ ra rằng Ctr2 cung cấp các dịch
vụ không ít hơn của Ctr1, điều kiện 2 chỉ ra là
Ctr2 không có khả năng sai lệch hơn Ctr1 và
điều kiện 3 cho thấy rằng Ctr2 không có khả
năng đình trệ hơn Ctr1 [3].
Contract tổng quát (General Contract):
Contact tổng quát GCtr là mở rộng của khái
niệm contract Ctr với việc khai báo một tập
phương thức riêng PriMDec và sự đặc tả
PriMSpect của chúng, GCtr = (Ctr, PriMdec,
PriMSpec). Hành vi của GCtr được xác định
trong Ctr.
Một contract Ctr có thể xem nhƣ là contract
tổng quát GCtr với PriMDec = .
Làm ẩn dịch vụ (server hiding) của contract:
Có thể làm ẩn phép toán chung trong MDec
của contract tổng quát. Cho GCtr = (Ctr,
PriMDec, PriMSpec) là một contract tổng
quát, S là tập con của tập các phương thức
chung MDec, thì GCtr\S là một contract được
xác định như sau: (Ctr\S, PriMDec S,
PriMSpec MSpec\S).
Sự hợp thành của các contract: Cho GCtri, i
= 1, 2 là 2 contract tổng quát thỏa mãn:
1. Tất cả các trƣờng chia sẻ chung có kiểu
giống nhau;
2. Tất cả các phƣơng thức chia sẻ chung
đƣợc đặc tả nhƣ nhau;
3. Điều kiện khởi tạo của hai contract là
nhƣ nhau;
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
Nguyễn Mạnh Đức Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 78(02): 97 - 104
102
Sự hợp thành của các contract GCtr1 và GCtr2
là một contract tổng quát đƣợc ký hiệu là
GCtr1||GCtr2 = ((I, Init, MSPec), PriMDec,
PriMSpec), với:
(GCtr1||GCtr2).I.FDec def GCtr1.I.FDec ∪
GCtr2.I.FDec
(GCtr1||GCtr2).Init def GCtr1.Init
GCtr2.Init
(GCtr1||GCtr2).I.MDec def GCtr1.I.MDEc ∪
GCtr2.I.MDec
(GCtr1||GCtr2).MSpec def GCtr1.MSpec ⊕
GCtr2.MSpec
(GCtr1||GCtr2).PriMDec def GCtr1.PriMDec
∪ GCtr2.PriMDec
(GCtr1||GCtr2).PriMSpec def
GCtr1.PriMSDec ⊕ GCtr2.PriMSDec
THÀNH PHẦN (COMPONENT)
Một thành phần là một sự thực thi của
Contract với Interface đƣợc cung cấp của nó.
Để thi hành một Contact, thành phần này có
thể sử dụng các dịch vụ đƣợc cung cấp bởi
các thành phần khác. Các dịch vụ đó đƣợc gọi
là dịch vụ yêu cầu và đƣợc mô hình hóa nhƣ
là một Contract của một Interface, Interface
đó đƣợc gọi là Interface yêu cầu.
Định nghĩa thành phần (component):
Component C là bộ
C = (I, Init, MCode, PriMDec, PriMCode,
InMDec)
ở đây:
1. I là một Interface, Init là điều kiện khởi
đầu của nó.
2. PriMDec là tập các phương thức được
khai báo ở miềm private trong component.
3. MCode (hoặc PriMCode) là ánh xạ mỗi
phương thức m trong I.MDec (hoặc
PriMDec) tới lệnh g&c bị chặn trong một
ngôn ngữ lập trình.
4. InMDec chỉ ra Interface yêu cầu mà các
phép toán của nó được gọi thực hiện từ các
phép toán trong PriMCode và I.MDec,
nhưng không được định nghĩa trong I.MDec
∪ PriMDec.
Ta sử dụng C.I, C.Init, C.MCode, C.PriMDec,
C.PriMCode, C.InMDec để chỉ các phần của
một thành phần C.
Chú ý:
1. Nhƣ đã trình bầy ở trên, mô hình của
contract đƣợc sử dụng nhƣ là ngữ nghĩa
chung cho các ngôn ngữ lập trình khác nhau
dùng làm phƣơng tiện cho các thành phần.
Điều đó tại sao nói rằng mô hình thành phần
hỗ trợ khả năng cùng hoạt động. Đối tƣợng
rCOS trong [2] cung cấp các tính toán thống
nhất cho việc định nghĩa và suy luận cho cả
ngôn ngữ lệnh và hƣớng đối tƣợng, và do đó
có thể sử dụng để xây dựng hình thức các
thành phần [6].
2. Mô hình thành phần cũng hỗ trợ sự đóng
gói của cả dữ liệu và sự thực hiện của các
thành phần. Một thành phần có thể chỉ đƣợc
sử dụng tùy theo contract của nó, đó là ngữ
nghĩa trừu tƣợng của thành phần. Những sự
hỗ trợ mạnh mẽ tính sử dụng lại này không
chỉ với các thành phần, mà còn kiểm chứng
các tính chất của các contract. Đó là điều cốt
yếu của phƣơng pháp này [6].
Ngữ nghĩa của thành phần ở chức năng mà nó
đƣa ra contract cho giao diện yêu cầu, trả về
contract chung đƣợc tính toán từ mã của các
phép toán.
Các ngữ nghĩa của thành phần có thể xác định
một cách hình thức nhƣ sau: Giả sử InCtr là
một contract mà các phƣơng thức giao diện
của nó giống nhƣ các phƣơng thức yêu cầu
của thành phần C, nghĩa là InCtr.MDec =
C.InMDec. Hành vi C(InCtr) của thành phần
C đối với InCtr là một contract tổng quát ((I,
MSpec), Init, PriMDec, PriMSpec), trong đó:
I.FDec def C.FDec InCtr.FDec
I.MDec def C.MDec InCtr.MDec
Init def C.Init InCtr.Init
MSpec def \ MDec
PriMSpec def \ PriMDec
Ở đây gán mỗi phép toán trong MDEc
PriMDec đƣơc tính toán thiết kế bị chặn từ
mã (op) def guard(op)&[body(op)], nếu m
InMDec đƣợc gọi trong body(op), một sự
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
Nguyễn Mạnh Đức Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 78(02): 97 - 104
103
đặc tả của op gán bởi InCtr và đƣợc sử dụng
trong tính toán [3].
Định nghĩa (làm mịn component): Một
component C1 được làm mịn bởi component
C2 ký hiệu là C1 ⊑ C2, nếu C1.MDec ⊆
C2.MDec, C1.InMDec⊇ C2.InMDec và sự làm
mịn contract C1(InCtr) ⊑ C2(InCtr) thỏa tất
cả các contract vào InCtr.
Công nghệ thành phần còn hỗ trợ trên môi
trƣờng nhiều lớp , cho phép một ƣ́ng dụng
đƣợc chia nhỏ thành nhiều dịch vụ khác nhau
chạy trên những hệ thống máy tính khác
nhau. Một số dịch vụ nhƣ : lôgíc ƣ́ng dụng ,
thu thập thông tin , điều khiển giao dịch , hiển
thị dữ liệu , và quản trị có thể chạy trên các
máy tính khác nhau và giao tiếp để cung cấp
cho ngƣời sƣ̉ dụng cuối một giao diện ƣ́ng
dụng thống nhất.
Sự hợp thành của các thành phần với
nhau: Cho C1 và C2 là các thành phần mà
chúng có miền các trƣờng và miền các
phƣơng thức khác nhau, sự lắp ghép C1 với C2
sẽ hợp thành một contract mới (ký hiệu là C1
>> C2), với:
(C1 >> C2).FDec def C1.FDec ∪ C2.FDec
(C1 >> C2).MDec def C1.MDec ∪ C2.MDec
(C1 >> C2).Init def C1.Init ∧ C2.Init
(C1 >> C2).MCode def C1.MCode ∪
C2.MCode
(C1 >> C2).PriMDec def C1.PriMDec ∪
C2.PriMDec
(C1 >> C2).PriMCode def C1.PriMCode ∪
C2.PriMCode
(C1 >> C2).InMDec def (C2.InMDec \
C1.MDec) ∪ C1.InMDec)
Dễ thấy rằng toán tử lắp ghép là đơn điệu đối
với sự làm mịn có thứ tự của các thành phần
[3], Trong trƣờng hợp đặc biệt khi mà:
(C1.InMDec ∪ C2.InMDec) (C1.MDec ∪
C2.MDec) = ∅,
thì phép lắp ghép C1 và C2 đƣợc gọi là phép
hợp tách rời (disjoint union) và kí hiệu là
C1||C2.
Thành phần phản hồi (feedback
component): Cho C là một thành phần, giả sử
rằng phƣơng thức chung m của nó có cùng
một số lƣợng và các kiểu của các tham số với
phƣơng thức n đã đƣợc nhập vào. Ta sử dụng
ký pháp C[m ↳ n] để biểu diễn một thành
phần mà các việc phản hồi do dịch vụ đƣợc
cung cấp m cho dịch vụ nhập vào n, với các
phần nhƣ sau:
C[m ↳ n].I def C.I \ {m}
C[m ↳ n].Init def C.Init
C[m ↳ n].MCode def (C.MDec) \ {m} ⊳
C.MCode
C[m ↳ n].PriMDec def C.PriMDec ∪ {m}
C[m ↳ n].PriMCode def C.PriMCode ∪ {m
→ C.MCode(m)}
C[m ↳ n].InMDec def C.InMDec \ {n}
Ví dụ 5: Ta định nghĩa 2 thành phần bộ đệm
của các số nguyên C1 và C2 nhƣ sau:
C1.FDec = {x1: seq(int)}
C1.MDec = {put(in: int;), get1(; out: int)}
C1.MCode(put) = (x1 := )⊳(x1 = <
>)⊲(put1(head(x1);); x1 := )
C1.MCode(get1) = (x ≠ ) → (out :=
head(x1); x1 = )
C1.InMDec = {put1(in: int;)}
C2.FDec = {x2: seq(int)}
C2.MDec = {put1(in: int;), get(; out: int)}
C2.MCode(put1) = (x2 = ) → (x2 = )
C2.MCode(get) = (out := head(x2); x2 := <
>)⊳(x2 ≠ )⊲(get1(; out))
C2.InMDec = {get1(in: int;)}
Do đó, C1 >> C2 đƣợc minh họa trên hình 1,
(C1 >> C2) \ {get1) đƣợc minh họa trên hình 2
và C1>>C2)[C2.put1 ↳ C1.put1] đƣợc minh
họa trên hình 3.
KẾT LUẬN
Chúng tôi đã trình bày một cách hình thức
một số khái niệm cơ bản quan trọng cho mô
hình phát triển phần mềm thành phần, đó là:
giao diện, các hợp đồng, các giao thức tƣơng
tác, các thành phần; những quan hệ và sự biến
đổi của chúng; các tính toán làm mịn. Từ đó
cho thấy ý nghĩa và sự cần thiết khi phát triển
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
Nguyễn Mạnh Đức Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 78(02): 97 - 104
104
phƣơng pháp hình thức trong kỹ nghệ phần
mềm hƣớng thành phần. Đó là những cơ sở
cho các tính toán làm mịn để xây dựng và
phát triển các hệ thống thành phần và đối
tƣợng trong các giai đoạn khác nhau của tiến
trình phát triển hệ thống.
Các tính toán làm mịn ở đây đƣợc phát triển
dựa trên mô hình tính toán rCOS, bảo đảm sự
đúng đắn và nhất quán trong quá trình biến
đổi và phát triển. Trên cở sở của các tính toán
này chúng tôi sẽ xây dựng các hệ thống ứng
dụng theo phƣơng pháp hƣớng thành phần,
bảo đảm hiệu quả cho việc quản lý độ phức
tạp và sự biến đổi của hệ thống và tận dụng
tối đa khả năng sử dụng lại các thành phần.
Lời cảm ơn: Nghiên cứu này có sử dụng một
số kết quả trong đề tài nghiên cứu B2010-
TN03-23. Chúng tôi xin chân thành cảm ơn
sự hỗ trợ quý báu với đề tài B2010-TN03-23.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1]. C.A.R. Hoare and He Jifeng (1998), Unifying
Theories of Programming, Prentice Hall.
[2]. He Jifeng, Li Xiaoshan and Zhiming Liu
(2005), rCOS: Refinement Calculus for Object
Systems, Technical report UNU/IIST No.322,
UNU/IIST: International Institute for software
technology, the United Nations University,
Macau.
[3]. J. Hefeng, Li Xiaohan and Li and Zhiming Liu
(2005), Component-Based software engineering-
the need to link method and their theories,
No.330, UNU/IIST: International Institute for
software technology, the United Nations
University, Macau.
[4].He Jifeng, Zhiming Liu, Li Xiaohan (2005),
Reactive Components, Technical report UNU/IIST
No.327, UNU/IIST: International Institute for
software technology, the United Nations
University.
[5].Zhiming Liu, He Jifeng, Li Xiaohan (2005),
“rCOS: Refinement of Component and Object
Systems”. Invited talk at 3rd International
Symposium on Formal Methods for Component
and Object Systems.
[6].Xin Chen, He Jifeng, Zhiming Liu and Naijun
Zhan (2007), “A Model Component-Based
Programming”, In International Symposium on
Fundamentals of Software Engineering, to appear
in LNCS, Springer.
[7].Zhenbang Chen, Zhiming Liu, Anders P.
Ravn, Volker Stolz and Naijun Zhan (2007),
Refneinement and verification in component based
model driven design, Technical report UNU/IIST
No.388, UNU/IIST: International Institute for
software technology, the United Nations
University, Macau.
[8].Đặng Văn Đức, Nguyễn Văn Vỵ, Nguyễn
Mạnh Đức (2008), “Một qui trình phát triển hệ
thống phần mềm trên cơ sở mô hình rCOS”, Kỷ
yếu Hội thảo khoa học Quốc gia lần thứ 3 -
Nghiên cứu cơ bản và ứng dụng công nghệ thông
tin (FAIR07), nhà xuất bản Khoa học và Kỹ thuật,
tr. 184-201.
[9].Nguyễn Mạnh Đức, Đặng Văn Đức (2006),
“Về một cách tinh chế mô hình lớp UML”, Tạp
chí Tin học và điều khiển học, Viện Khoa học và
Công nghệ Việt nam, 22 (1) tr. 63-74.
SUMMARY
SOME THE CALCULATES AND REFINEMENTS WITH COMPONENTS
Nguyen Manh Duc
*
Faculty of Math., Thainguyen University of Education
In this article we are formal of the basic and important concepts for model of development
component software, including interfaces, contracts, interaction protocols, components, component
compositions and the relations among these notions, the calculates and refinements among theses.
The specification and calculates and refinements implemented based on rCOS model, ensure
corrects and consistent of systems. The works can implements in different stages of process
software development. From that place shows meaning and need when formal development
method for component-oriented software engineering.
Key words: rCOS, design, Interface, Contract, Component, UML
* Tel: 0915 564 249; Email: nmductn@yahoo.com
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- brief_33457_37278_79201210394978_split_9_3979_2052262.pdf