The Tay figure and perceive the world as a unity of three realms: the heaven, the land of the living
and the hell. In their opinions, each human being has a soul and if the soul is separated from the
physical body, the dead turns into ghosts. The ghosts of grandparents and parents can bring wellbeing or cause menace to their descendants, depending on the behavior of their descendants
towards them when they die. Because when the dead go to the heaven, they still have to "work"
and have all the demands like living people. If the children do not give their dead parents beautiful
and peaceful grave, either the souls of the dead will be still lurking around the children and harass
them, or the dead who are in deprivation (because the descendants do not provide necessary things
and rituals), the dead soul is not satisfied, will rebuke the children, causing sickness or death to
their children and livestock. Perhaps that is the reason why the funeral ceremonies of the Tay in
general and Tay people in Bac Kan particularly are influenced by the non-ghost concept. This
concept makes people invite a Tao sorcerer for ritual practice so that their dead parents will not
turn into wicked ghost who will harm the children and the community.
8 trang |
Chia sẻ: thucuc2301 | Lượt xem: 357 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Một số quan niệm liên quan đến tang ma của người Tày Bắc Kạn - Lương Thị Hạnh, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Lương Thị Hạnh và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 96(08): 211 - 218
211
MỘT SỐ QUAN NIỆM LIÊN QUAN ĐẾN TANG MA
CỦA NGƯỜI TÀY BẮC KẠN
Lương Thị Hạnh*, Mai Thị Hồng Vĩnh, Nguyễn Văn Tiến
Đại học Khoa học – ĐH Thái Nguyên
TÓM TẮT
Người Tày hình dung và quan niệm thế giới là một thể thống nhất gồm 3 cõi: Cõi Trời, cõi Người
và cõi âm ti địa ngục. Theo quan niệm của đồng bào, con người có linh hồn, nếu linh hồn lìa khỏi
thể xác thì người chết biến thành ma. Ma ông bà, cha mẹ có thể đem phúc hay gây họa cho con
cháu, là do cách ứng xử của con cháu đối với ông bà, cha mẹ khi chết như thế nào? Vì người chết
khi về mường trời vẫn phải “làm ăn” với tất cả nhu cầu như ở trần gian. Do đó, nếu không lo
cho cha mẹ được mồ yên mả đẹp thì hoặc là linh hồn người chết vẫn lẩn quất xung quanh người
sống, quấy rối người sống, hoặc là linh hồn người chết vẫn còn thiếu thốn ở thế giới bên kia (do
con cháu không cung cấp đầy đủ mọi thứ, không làm đủ mọi nghi lễ,...), nên hồn người chết
không được thoả mãn, đã trở lại quở trách con cháu, gây ốm đau, chết chóc cho con người và
gia súc. Có lễ vì vậy mà tang ma của người Tày bị các quan niệm “phi” (ma) chi phối, khiến người
ta phải mời thầy Tào thực hành nhiều nghi lễ, nhiều đồ tế tự, để hồn ma cha mẹ không biến thành
ma dữ làm hại con cháu và cộng đồng.
Từ khóa: Quan niệm, tang ma, vũ trụ, nghi lễ, linh hồn, sinh mênh,...
Tiếp cận các quan niệm liên quan đến tang
ma, chúng tôi quan tâm đến lý thuyết có tính
chất nền tảng của nhà Dân tộc học nổi tiếng
Edward Tylor trong cuốn sách Văn hóa
nguyên thủy [03], tác giả đã dành hơn 500
trang viết về các nghi thức và lễ nghi, các
hình thức cúng trong tang lễ, lễ vật, thuyết vật
linh, các quan niệm về cõi sống và cõi chết,
Tác giả Tống Đạo Nguyên trong cuốn sách
Đạo giáo sinh tử kỳ thư [02] đã giải thích nền
văn minh Đạo giáo theo tư tưởng nhân văn
của thời hiện đại.*
Xuất phát từ cái nhìn của một linh hồn khi
chết, tác giả đã sử dụng phương thức tranh
liên hoàn, nhằm giúp cho người đọc như thực
sự nhìn thấy được những linh hồn của người
chết khi đi qua Thập điện Diêm Vương
(Mười điện).
Cuốn Văn hóa dân gian Tày lịch sử và hiện
tại của các tác giả Hoàng Ngọc La, Hoàng
Hoa Toàn [01, tác phẩm Tín ngưỡng dân gian
Tày - Nùng của tác giả Nguyễn Thị Yên [06]
là những công trình nghiên cứu khá công phu
về tín ngưỡng dân gian Tày – Nùng. Trong
công trình này tác giả đã phân tích thế giới vô
*
Tel: 0914 892999, Email: hanhluongthi4@gmail.com
hình trong quan niệm của người Tày là thế
giới ba tầng tương ứng với ba mường: mường
Trời, mường Đất và mường Nước (âm phủ),
tương ứng với mỗi mường lại có những dạng
thần linh, ma quỷ riêng.
Có thể nói, đây là một số công trình đặc biệt
có giá trị, cung cấp những luận cứ khoa học
và những dẫn chứng xác đáng về tín ngưỡng
dân gian Tày – Nùng, phần nào giải mã được
các quan niệm về cõi sống cõi chết ẩn sâu
dưới các lớp vỏ của nghi lễ, phong tục, giúp
chúng ta hiểu thêm về tâm thức của dân tộc.
Trên cơ sở kế thừa những kết quả của các
công trình nghiên cứu về những vấn đề liên
quan đến tang ma ở Việt Nam trước đây, cùng
với việc nhận biết những thiếu sót, hạn chế
của các công trình này, với khả năng nghiên
cứu của mình, chúng tôi cố gắng tìm một
hướng đi mới cho đề tài, đó là: Tập trung tìm
hiểu và lý giải các quan niệm liên quan đến
tang ma trong quá trình phát triển tộc người
và lịch sử văn hóa tộc người Tày.
Quan niệm về vũ trụ
Quan niệm về vũ trụ nằm trong hệ thống tín
ngưỡng dân gian của mỗi dân tộc nói riêng.
Cũng như nhiều dân tộc khác, thế giới vũ trụ
của người Tày là một khoảng không gian bất
Lương Thị Hạnh và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 96(08): 211 - 218
212
tận mà ở đó vũ trụ được chia thành 3 cõi: Cõi
Trời (mường buôn, quắc phạ); cõi Đất (trần
gian, dương thế, dương đông) và cõi Nước
(mường dưới mặt đất, âm phủ). Trong tưởng
tượng của họ, ở cả ba cõi đều có con người
sinh sống, chim muông, cây cối và trăm loài
hoạt động khác nhau và mối quan hệ ở mỗi
cõi không giống nhau, tương ứng với mỗi cõi
lại có những dạng thần linh, ma quỷ riêng.
Cõi trời (mường Trời) trong tiếng Tày có
nghĩa là mường phạ, mường buôn hay quắc
phạ. Hình ảnh mường Trời được hiện lên
trong trí tưởng tượng của người Tày như sau:
Mường phạ còn bao gồm cả mường Then
(thiên) và Đẳm. Trên mường Trời có nhiều
tầng khác nhau. Tầng cao nhất của vũ trụ là
nơi ngự trị của các vị vua quan, thần phật:
Ngọc Hoàng, Phật Bà Quan Âm, Vua Hành
Khiển, Vua Số (Nam Tào Bắc Đẩu), Mẻ
Bjoóc và các nàng tiên. Các vị thần linh này
có quyền năng tối cao quyết định mọi vấn đề
sinh tử và số mệnh của con người dưới dương
thế. Do đó, đồng bào gọi nơi đó là Mường
Then – vùng đất của các vị thần linh. Vì vậy,
khi con người rơi vào hoàn cảnh khó khăn,
giữa lúc bế tắc hoặc nguy khốn người ta
thường cầu khấn mong trời phù hộ cho tai qua
nạn khỏi. Đây là cách mà con người ở trần
gian tin theo và truyền từ thế hệ này sang thế
hệ khác, để an ủi số phận và củng cố niềm hy
vọng vào tương lai [6, tr.63].
Đứng đầu cõi Trời là Ngọc Hoàng, bên cạnh
Ngọc Hoàng có Nam Tào, Bắc Đẩu, Thái
Thượng Lão Quân, Tam Thanh. Đó là những
vị thần tiêu biểu cho sức mạnh của tự nhiên:
sấm, sét, mây, mưa, sóng, gió, những người
ăn ở độc ác thường bị Ngọc Hoàng sai Thiên
Lôi đánh chết. Những người ăn ở hiền lành,
nhân hậu, hay giúp đỡ người khác, khi chết đi
linh hồn sẽ được siêu thoát lên trời, không
phải lao động khổ cực mà vẫn hưởng sung
sướng, chờ ngày đầu thai trở lại.
Trong lễ cầu an, cầu phúc đầu năm của người
Tày Bắc Kạn do các thầy Then, Pụt thực hiện,
trong lời ca họ thường nhắc đến các vị thần kể
trên, với vai trò đảm nhiệm riêng ở mỗi thời
điểm của cuộc sống con người. Mỗi con
người lại có nhiều vị thần bảo hộ khác nhau.
Hình hài con người được Mẻ Bjoóc (Mẹ Hoa)
tạo thành và đưa xuống dương gian. Trong
quá trình trưởng thành Mẹ Hoa vẫn giữ vai
trò chăm sóc sức khỏe, đặc biệt là khi còn thơ
ấu, người Tày quan niệm đứa trẻ có được
khỏe mạnh hay không do Mẹ Hoa. Bởi vậy,
nên trong các gia đình người Tày Bắc Kạn
thường lập bàn thờ Mẹ Hoa ngay cửa buồng
của sản phụ để cầu cho trẻ được khỏe mạnh.
Như vậy, Mường Trời trong trí tưởng tượng
của người Tày là nơi ngự trị của các đấng
toàn năng.
Dưới Mường Then là Đẳm, thế giới của tổ
tiên các dòng họ người Tày sau khi chết.
Cuộc sống trên mường phạ thì sung túc, có
đầy đủ vinh hoa, phú quí. Vì vậy, khi chết
người ta phải tổ chức nghi lễ tiễn đưa linh hồn
về cõi trời để hưởng lạc.
Xưa kia, trong xã hội cổ truyền của người Tày
có sự phân biệt giữa các dòng họ quý tộc và
dòng họ thứ dân; theo đó, sau khi chết, linh
hồn của các dòng họ quý tộc được nằm ở tầng
trên và dòng họ thứ dân ở tầng dưới. Như
vậy, chúng ta thấy ở ngay thế giới của tổ tiên
“Đẳm” lại có thêm một sự phân tầng nữa.
Theo quan niệm của người Tày, hầu hết
những người sau khi chết đều về cư trú theo
dòng họ gia đình thành bản làng như ở mặt
đất hoặc cư trú theo phân loại hạng người:
người lương thiện, kẻ ác, làng gái góa, làng
gái khôn, làng gái đoảng, làng trai đần, làng
trai giỏi, Trên mường Trời cũng có chợ búa
buôn bán sầm uất, trong đó có chợ Tam
Quang là chợ âm phủ nổi tiếng nơi người
mường Trời đến mua bán và gặp gỡ giao lưu
với người mường Đất, thông qua việc hành lễ
của các thầy Then, Pụt.
Người chết về cơ bản được phân thành hai
dạng: dạng chết trẻ chưa có gia đình thì linh
hồn chưa siêu thoát nên chỉ được trú ngự ở
tầng phía dưới sông Ngân Hà mà chưa về
mường Trời được. Những người cao tuổi khi
chết sẽ vượt qua được sông Ngân Hà về ở
một ngôi nhà có rất nhiều gian, linh hồn sẽ
lựa chọn trú ngụ ở gian nào đó còn trống
trong ngôi nhà này [6, tr. 55]. Do đó, theo
quan niệm của người Tày linh hồn tổ tiên
luôn ở phía trên, còn người sống ở phía dưới.
Lương Thị Hạnh và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 96(08): 211 - 218
213
Bởi vậy, thế giới của những người đang sống
bao giờ cũng thấp hơn thế giới của tổ tiên.
Cõi Đất là nơi cư trú và sinh sống của con
người. Đồng bào Tày cho rằng ngoài con
người, Mường Đất còn là nơi trú ngụ của một
lực lượng vô hình khác thuộc về cõi âm mà
họ quen gọi chung là phi (ma) – bao gồm cả
ma lành và ma dữ được phân tầng chủ yếu
theo các cấp độ gia đình, làng bản và thiên
nhiên. Ở cõi Đất, con người tinh khôn hơn
hết, được trời phú cho quyền sai khiến muôn
vật để phục vụ cuộc sống của mình.
Trong gia đình chủ yếu có các ma Tổ Tiên và
ma bếp (Táo Quân) là quan trọng nhất, trong
các nghi lễ người ta đều phải mời đến các vị
này. Còn trong phạm vi bản thì có Thổ Công,
Thổ Địa là vị thần quản lí, coi sóc các việc âm
của bản. Liên quan đến cõi âm, Mường Đất
còn có ma của những người chết trẻ, chết bất
đắc kì tử không được thờ cúng gọi là phi
sương, phi miệt. Loại ma này không được thờ
cúng trong nhà, nên thường đi lang thang vất
vưởng ở các ngã ba đường, có khi gây hại cho
người sống. Trong thiên nhiên thì có ma sông
suối, ma rừng, ma gà,
Cõi Nước là mường dưới mặt đất (mường địa
phủ, âm phủ), do Long Vương cai quản, có 12
cửa ngục để giam giữ linh hồn người chết.
Đồng bào cũng tưởng tượng cả ba cõi này đều
có người ở, cùng làng bản, nhà cửa, ruộng
đồng, khi đi lao động, người Cõi Trời thắt
dao ngang trên đầu, người cõi trần gian thắt
dao ngang bụng; người cõi Nước thắt dao ở
bụng chân.
Như vậy, quan niệm về vũ trụ của người Tày
vốn rất rõ ràng theo trật tự và phân định thứ
bậc khác nhau ở cả 3 cõi. Trong cả ba cõi này,
có lẽ cõi Nước được nhắc đến ít nhất. Trong
một số trường hợp, như những ngày lễ tết
chẳng hạn, đồng bào còn kiêng (căm kiêm)
không được nhắc đến địa ngục vì sợ gặp điều
không may.
Việc giải thích vũ trụ dựa theo quan niệm lý
thuyết của Đạo giáo, Phật giáo và ý niệm dân
gian, coi Mường Trời là mơ ước, là điểm cư
ngụ lý tưởng cho các linh hồn đã ảnh hưởng
rất lớn đến việc thực hiện các nghi lễ tang ma
của người Tày ở tỉnh Bắc Kạn. Từ quan niệm
như vậy, nên người Tày đã thực hiện một hệ
thống các nghi lễ tang ma theo trình tự chặng
đường dẫn dắt linh hồn đến Mường Trời, theo
quy tắc phù hợp với cả ba giáo lý và ý niệm
dân gian. Có lẽ vì vậy mà trong suốt quá trình
tang ma, chúng ta thấy các triết lý ấy cứ hòa
quyện vào nhau, lý giải cho điểm đến tận
cùng của linh hồn.
Quan niệm về hồn “khoăn”
Xuất phát từ quan niệm “vạn vật hữu linh”,
muôn vật, muôn loài đều do Pụt Luông (bụt
lớn) sinh ra và đều có linh hồn ngự trị, các
sinh vật sống, chết, khỏe mạnh hay yếu đuối
là do thần linh quyết định. Mặc dù quan niệm
này ở mỗi dân tộc có khác nhau, chẳng hạn
như các tộc người Dao, Kinh, Hà Nhì, cho
rằng con người có 3 hồn; người Hmông và
các dân tộc thuộc ngữ hệ Nam Á ở Tây Bắc
lại cho là có 9 hồn, thậm chí ở người Thái còn
quan niệm có tới 80 hồn (50 ở đằng trước, 30
đằng sau). Tùy theo quan niệm của từng tộc
người mà các hồn được nằm trên các bộ phận
khác nhau của cơ thể.
Người Tày quan niệm, thực thể của con người
gồm 2 bộ phận: Hồn và thể xác. Xác và hồn
gắn liền với nhau là người sống, khỏe mạnh;
hồn lìa khỏi xác một khoảng thời gian là ốm
đau, bệnh tật; nhưng nếu hồn lìa khỏi thể xác
vĩnh viễn, tức là con người đã chết. Khi con
người chết đi, không còn thể xác cho khoăn
trú ngụ nữa thì khoăn sẽ chuyển sang Phi, tức
là chuyển từ vía sang ma.
Theo nhà nghiên cứu Tày Vi Hồng: Người
Tày gọi “hồn” là con. Mỗi con người có
những mười hai con hồn. Đồng bào gọi hồn là
khoăn (gồm cả hồn và vía), mặc dù biểu
tượng này ở mỗi vùng người Tày cũng khác
nhau, ví dụ khi được hỏi, ông Hà Văn Ngự
lục sthay (đồ đệ, học trò) của thầy Tào Nông
Đình Quảng (Chợ Đồn - Bắc Kạn) cho biết:
Trong mỗi con người có 12 hồn, nhưng ông
không rõ vì sao khi chết người ta không mặc
12 áo, thắt và quấn 12 nút mà thường thấy
mặc quần áo, quấn và thắt 7 hoặc 9 đối với
nam, hay nữ. Rõ ràng những tập tục này theo
chúng tôi nó cũng có ít nhiều liên quan đến
quan niệm “ba hồn bảy vía, ba hồn chín
vía”của người Kinh [01,TL điền dã].
Lương Thị Hạnh và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 96(08): 211 - 218
214
Theo quan niệm 12 hồn, mỗi hồn được đậu ở
một nơi trên cơ thể và cũng là để bảo vệ
những bộ phận đó. Một con đậu trên đỉnh
đầu, con thứ hai đậu trước trán, hai con đậu
hai con mắt, hai con đậu hai bả vai, hai con
đậu hai tay, hai con đậu hai chân, một con đậu
ở cổ và con cuối cùng đậu ở bụng. Khi mười
hai con hồn ấy đều đậu ngay ngắn ở các vị trí
ấy thì người ta hoàn toàn khỏe mạnh. Nếu
chẳng may các con hồn ấy lạc một vài con (bị
giật mình vì lý do nào đó, đi lang thang rồi
không tìm về được nơi trú ngụ) thì người sẽ
bị mộng mị, đau ốm [04, tr.156]. Trong mười
hai con hồn, thì hồn trên đỉnh đầu là lớn nhất
(hồn chính), vì vậy đồng bào kiêng đánh vào
đầu hay xoa đầu trẻ nhỏ. Khi trẻ đang mải
chơi không được để trẻ giật mình, vì như thế
hồn sẽ hoảng sợ mà bỏ chạy, trẻ sẽ ốm (khoăn
ni). Nếu hồn chạy đi (khoăn ni) thì phải gọi
hồn về, công việc này trước tiên do ông bà
hay người mẹ của đứa trẻ thực hiện, nếu hồn
vẫn chưa về, trẻ chưa khỏi ốm, thì phải đón thầy
cúng đến làm lễ cho ma và đón hồn trở lại.
Hồn theo quan niệm của các tác giả trong tác
cuốn Văn hóa dân gian Tày. lại cho rằng:
“Mỗi con hồn là một “con sức”. vậy con sức
là gì? Câu trả lời thật đơn giản: Không có nó
ở cổ, làm sao người ta sống được, không có
nó ở bụng làm sao người ta nghĩ được...”. Khi
cả mười hai con hồn rời bỏ thể xác thì người
chết thành “Ma” tiếng Tày gọi là “phi”.
Có rất nhiều nguyên nhân khiến hồn lìa khỏi
xác. Có thể do con người đã xâm phạm vào
các khu rừng cấm “đông sthấn, đông căm”,
gốc cây, tảng đá, vực nước, hoặc đã làm điều
gì đó phật ý tổ tiên,... Nên đã bị ma quỉ, thần
thánh bắt giữ, dìm xuống nước gây sốt rét, bị
đem phơi nắng nên người nóng sốt hầm hập,
hay bị ma ông bà tổ tiên trách phạt, dọa nạt,
vì sợ quá mà hồn phải chạy trốn. Thậm chí đi
qua nơi có tai nạn chết người không bình
thường, nếu người vía nhẹ “khoăn nẩư” cũng
dễ bị ma người chết rủ rê mà quên đường trở
về thì người sẽ chết. Có lẽ vì vậy mà nảy sinh
ra lễ giữ hồn lại cho người ốm nặng. Hồn
cũng được đồng bào quan niệm như một đứa
trẻ, thích đi chơi; ví như khi có người chết
đuối, người ta cho rằng nguyên nhân cái chết
là bị con ma nước rủ đi, cả tin vào những sự
cám dỗ của bọn ma qủy và vì quá ham chơi
mà người đó đã đi theo “chết”. Cho nên
trong tang ma, các tộc người có nghi thức
làm "vô hại hóa người chết", như bỏ mẩu
gang, đồng bạc vào mồm người chết, để
nặng miệng, không được nhắc nhở bừa bãi
gây rủi ro ốm đau cho người sống, hay trói
chân tay người chết lại, không để quay trở về
quấy rầy người sống.
Hồn điều khiển mọi chức năng của con người:
cười, khóc, buồn, vui, Trong 12 con hồn,
riêng hồn chính trên đỉnh đầu luôn đi sát với
cơ thể, 11 hồn còn lại thường hay đi lang
thang khiến con người mệt mỏi, đau ốm.
Nhưng nếu hồn chính mà lìa khỏi cơ thể thì
sinh mệnh sẽ tắt. Hồn là phần không nhìn
thấy vô hình như cái bóng của sự vật.
Đồng bào còn có quan niệm rằng, thuộc tính
của linh hồn còn phụ thuộc vào lứa tuổi, giới
tính: Hồn khỏe mạnh ở lứa tuổi thanh niên và
nam giới khỏe hơn nữ giới, hồn ở trẻ con là
yếu nhất.
Giữa linh hồn người sống và hồn ma người
chết có sự khác biệt cơ bản. Nếu như đặc tính
của linh hồn người sống là yếu đuối, thụ
động, hay sợ hãi và thường bị các lực lượng
siêu nhiên bắt nạt, thậm chí đánh chết hoặc ăn
mất hồn, thì ngược lại, hồn và hồn ma của
người chết lại khỏe mạnh, chủ động và hay
gây sự, nhất là hồn ma của những người chết
xấu. Chẳng hạn, gây ra ốm đau dịch bệnh cho
người và gia súc trong làng, nếu như có ai
làm điều gì trái ý nó.
Quan niệm về cõi sống và cõi chết
Cũng như nhiều dân tộc khác, người Tày
quan niệm khi sống, con người gồm 2 phần:
phần xác và phần hồn (cả vía), tương ứng với
2 phần là hai thế giới khác nhau: thế giới hiện
hữu (cõi sống) và thế giới phi hiện hữu, huyền
bí (cõi chết, cõi âm). Đồng bào cho rằng cõi
người sống là phức tạp nhất, ở đó tồn tại
nhiều tầng lớp, nhiều loại người, tốt – xấu;
cao cả - thấp hèn,... [01, tr.74].
Thế giới hiện hữu mà con người đang sống
gọi là trần gian, ở thế giới này, con người
sống được là nhờ xác và hồn, khi xác và hồn
Lương Thị Hạnh và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 96(08): 211 - 218
215
gắn vào nhau, thì con người sống. Người còn
sống, không có “lực lượng” nào gây hại được.
Nếu hồn lìa khỏi thể xác sẽ làm cho mất cân
bằng tự nhiên đưa đến mộng mị, ốm đau, chết
chóc. Do đó, cuộc sống của con người ở trần
thế chỉ là tạm thời, giống như câu châm ngôn
của người Kinh “sống gửi thác về”, tức là
cuộc sống của một con người trên trần gian
thì rất ngắn ngủi, chỉ tính bằng những năm
tháng, trong khi cuộc sống ở bên kia cõi âm
lại vĩnh hằng, nên mới có câu “về nơi vĩnh
hằng” trong các đám ma. Đồng bào cũng tin
số mệnh của mỗi con người sung sướng hay
khổ đau, giàu sang hay nghèo hèn, là do
kiếp trước đã định. Chẳng hạn, những đứa trẻ
sơ sinh chết, là do kiếp trước ăn ở bạc, Mẹ
Bjoóc cho đầu thai, nay lại bắt, để cả hồn và
xác chúng thành con ma, hoặc giả, nhà này ăn
ở bạc, nay đầu thai nhầm, không xứng đáng
có những “đứa con như thế”, và chúng trở
thành ma trẻ con (phj eng) không làm nên trò
trống gì. Tuy nhiên, vì chúng là ma trẻ con
nên chúng rất tinh nghịch và cũng thích vui
đùa, thậm chí quấy rầy, rủ rê trẻ con ở dương
thế, khiến trẻ ốm đau, khi đó phải đón thầy về
làm lễ gọi hồn về. Người già qua đời (thai
ké), hồn già đáng kính, vì đã hoàn thành trọn
nghiệp ở trần gian, khi sống họ là những
người ăn ở hiền lành, phúc đức; khi chết họ
chết nhẹ nhõm và hồn họ sẽ trở thành ma
lành, phù hộ cho con cháu.
Từ những viện dẫn trên, người Tày cũng quan
niệm rằng, những ai mong muốn khi chết
được siêu thoát lên mường Trời, và muốn
được đầu thai trở lại làm người tốt, thì lúc còn
sống phải ăn ở đức hạnh. Ngược lại, nếu lúc
sống họ làm những việc bất nhân, thất đức
không chỉ bản thân bị báo ác (sống khổ sở,
chết vất vả) mà con cháu đời sau cũng phải
gánh chịu. Người nào có tội với trời sẽ bị chết
bất đắc kì tử (đặc biệt trường hợp bị sét đánh,
đồng bào cho rằng đó là bị trời đánh), con
cháu muốn cầu trời tha tội, cứu linh hồn phải
mời thầy Tào đến làm lễ để linh hồn người chết
không quấy quả con cháu, anh em họ hàng.
Như thế, đồng bào tin rằng số mệnh sẽ được
cải thiện theo chiều hướng tốt hơn rất nhiều
nếu khi sống họ tu thân, tích đức, làm nhiều
việc thiện, thì bản thân và con cháu họ sau
này sẽ được hưởng sung sướng.
Thế giới bên âm hay còn gọi là cõi chết, là thế
giới dành cho phần hồn của mỗi người sau
khi chết. Vì thế giới sau khi chết trong tưởng
tượng của người Tày, hồn ma vẫn phải làm
ăn, vẫn có những nhu cầu sinh hoạt như cuộc
sống trên cõi trần gian, theo họ con người
chết, chẳng qua chỉ là sự chuyển đổi về bóng
dáng và nơi ở từ thế giới này sang thế giới
kia, thế giới của những vị thần và các loại ma.
Ở thế giới ấy cũng có đầy đủ mọi mối quan hệ
gia đình và xã hội, có tổ tiên, có gia đình gồm
bố mẹ, anh em, vợ chồng, con cái, và đầy
đủ mọi thứ như cuộc sống thực tại. Bởi vậy,
khi có người thân qua đời, dù gia đình khó
khăn cũng phải cố gắng vay mượn tổ chức
đám ma đầy đủ, chu đáo, với mong muốn
người quá cố sẽ có một cuộc sống tốt đẹp hơn
với đầy đủ mọi thứ ở thế giới bên âm, từ đó
mà phù hộ cho con cháu có cuộc sống bình
an, khỏe mạnh ở trần thế.
Quan niệm về Phi (ma)
Như đã trình bày ở trên, người Tày quan niệm
cuộc sống gồm thế giới của sự sống và thế
giới hư vô. Thế giới của sự sống là nơi cư trú
của muôn loài và con người mà ta có thể nhận
thức, kiểm chứng bằng trực giác. Thế giới hư
vô tồn tại trong ý niệm, cái mà người ta
thường gọi là phi. Giữa hai thế giới này luôn
có sự liên hệ và chi phối lẫn nhau, thông qua
các hình thức cúng lễ của thầy Tào.
Đồng bào cho rằng, con người sở dĩ ốm đau
hay chết chóc vì hồn rời khỏi thể xác. Khi con
người chết đi, không còn thể xác cho hồn trú
ngụ nữa thì hồn sẽ chuyển hóa sang Phi, tức
là chuyển hóa từ vía sang ma.
Danh từ “phi” dịch ra tiếng Việt là “ma”, có
một nghĩa rất rộng, chỉ tất cả các thần thánh,
ma quỷ có mặt ở trên trời, dưới đất, dưới
nước, có loại ở ngay trên trần gian. Trong
những hoàn cảnh cụ thể, phi lại có ý nghĩa và
chức năng tâm linh khác nhau. Tất cả các loại
phi đều có khả năng biến hóa và có ảnh
hưởng (tốt hay xấu) đến cuộc sống con người.
Vì lẽ đó mà trong đời thường, con người
không thể không quan tâm hay tôn kính các
phi. Có lễ vì thế mà việc cúng bái các phi đã
Lương Thị Hạnh và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 96(08): 211 - 218
216
xuất hiện trong dân gian từ xa xưa. Người
Tày quan niệm giữa hai thế giới người và phi
trái ngược nhau, nếu ngày của người thì đêm
là của phi, các phi chỉ ăn hương ăn hoa [01,
tr.136].
Theo tài liệu Tín ngưỡng dân gian Tày lịch sử
và hiện tại [04] của các tác giả Hoàng Ngọc
La và Hoàng Hoa Toàn, cho rằng: Loại ở trên
trời “phi phạ” hoặc biên giới giữa trời và đất
là các vị thần, bụt và tổ tiên. Các vị thần linh
này thường được thờ ở dưới trần gian, cư ngụ
trong bản, ngoài mường tại các đền miếu hay
đình, hoặc tại các bàn thờ trong gia đình hay
ngoài sàn. Các vị thần này chỉ xuống hạ giới
chứng giám vào những dịp tế lễ, cúng bái
định kỳ hàng năm hay vào những dịp người
trần gian thỉnh cầu. Các vị thần hay phi trên
cõi Trời thường phù hộ cho con người, trừ khi
giận dữ vì con người ăn ở trái đạo, trái lẽ trời
thì mới bị thần thánh quở phạt bằng dịch hạn,
lũ lụt, sâu bọ, dịch bệnh. Người ăn ở thất đức
làm nhiều việc ác cũng bị thần thánh làm
tội. Đồng bào cũng quan niệm ma Tổ tiên
(phi pẩu pú) từ đời cụ kỵ trở lên thì về hẳn
thượng giới.
Ma ở dưới âm ti địa phủ “phi đin” do Diêm
vương cai quản, có nhiệm vụ xét xử người
sau khi chết, vì thế trong đám ma của người
Tày thường có nghi lễ “đại siêu”, dùng phép
thuật xuống cửa đao lên thang gươm đi vào
địa ngục “phá ngục” đưa người chết khỏi
“thập điện Diêm vương” trở về.
Loại phi ở dưới nước, trên cõi trần gian về
nguồn gốc và khu vực ngự trị của các loại phi
khác nhau: ma thuồng luông “phi ngược”,
được coi là thần sông nước, trú ngụ ở các
khúc sông vực nước sâu. Vì thế hàng năm cứ
sáng sớm Mồng Một Tết Nguyên Đán, trước
khi ra suối gánh nước, đồng bào Tày một số
vùng ở Bắc Kạn thường mang theo một nén
hương cắm ở bờ sông để cầu xin phi ngược
đừng dâng nước làm ngập mùa màng và cho
người dân có nước dùng quanh năm, một số
nơi còn lập miếu nhỏ trên bờ sông (vùng hồ
Ba Bể), vào những dịp lễ hội lớn của bản đều
phải đặt một ít lễ vật dâng cúng.
Còn có phi hay các thần rừng, thần núi,
“phi thấn”, trú ngụ ở các gốc cây to, tảng đá
lớn, loại phi này bình thường không làm
hại người, trừ khi vô tình hay hữu ý động
chạm đến nơi ở của chúng như chặt cây phá
rừng, di chuyển tảng đá mà không cầu cúng
xin phép thì sẽ bị trách phạt. Sự trách phát
của ma quỷ thần thánh này nhiều khi gây ra
những hậu quả tai hại như: chết bất đắc kì tử,
chết ngã cây, chết đuối hoặc chết hộc máu
mồm. Có loại ma do hồn người chết biến
thành, hồn của các tù trưởng, các anh hùng có
công cứu nước, cứu dân, thậm chí cả tướng
giặc chết vào “giờ thiêng” đều có thể biến
thành thần hay ma quỷ. Chúng cư ngụ chi
phối một vùng lãnh nhất định hoặc biến thành
thần bản mường. Loại này thường phù hộ
giúp con người, nhưng có khi do việc cúng
tế không chu đáo hoặc vì một lý do nào đó
của con người khiến thần phật ý thì thần
cũng làm hại.
Đặc biệt người Tày còn tin rằng ở một số
người nào đó có ma hay quỷ thần trong
người, gọi chung là “phi đíp” (ma sống). Sở
dĩ gọi là ma người sống là vì loại ma này luôn
luôn ở trong người sống, chuyên gây hại cho
người khác. Có thể chia làm nhiều loại khác
nhau: ma thuật làm hại (ma gà, ma âm binh),
ma thuật tình yêu, ma thuật liên quan đến
chữa bệnh. Chẳng hạn như ma gà (phi cáy) có
nhiều tên gọi khác nhau: phi Phạm Nhan, phi
đằm cằm, người Nùng gọi là phi hang cắn,
người Tày Bắc Kạn gọi là phi cáy. Theo họ,
người có ma gà nếu nói điều lành thì thành
điều xấu như khen trẻ nhỏ ngoan thì trẻ sẽ
quấy khóc, khen lợn béo thì lợn sẽ bỏ ăn và bị
ốm, Đối với những gia đình bị nghi có ma
gà, con cái của họ khó lấy vợ lấy chồng. Trên
thực tế, đã có nhiều chị em có nhan sắc, con
nhà lương thiện nhưng không gả được
chồng, đành phải chịu số phận ế ẩm, hoặc
phải đi lấy chồng biệt xứ chỉ vì gia đình
mang tiếng “có ma”.
Như vậy, trong đời sống tín ngưỡng của đồng
bào Tày có rất nhiều loại ma khác nhau, song
tựu chung có thể phân thành 2 loại ma lành và
ma dữ tức là phúc thần hay hung thần. Ma
lành: ma tổ tiên, ma bếp, ma mụ, ma bản,
bảo vệ người và súc vật, giúp người trừ các tà
ma quỷ quái xâm nhập vào bản, gia đình. Ma
Lương Thị Hạnh và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 96(08): 211 - 218
217
dữ như ma rừng, ma sấm sét, thuồng luồng,
yêu tinh, có thể về hại người, gia súc và
mùa màng.
Các loại ma lành được thờ trong nhà hay ở
miếu Thổ Công, Thành Hoàng. Loại ma này
thường ban ơn, ban phúc cho người trần thế,
nhưng cũng trừng phạt người trần nếu làm trái
ý hoặc lo cúng bái không chu đáo. Thân thuộc
nhất như ma tổ tiên trong nhà cũng có thể về
quở trách con cháu đến khốn khổ và gia chủ
phải sắm lễ cúng tạ mới được tha. Đối với
loại ma dữ, đồng bào không thờ cúng, song
khi ốm đau, hoạn nạn, thầy cúng “phát hiện”
ra con ma nào về quấy rầy thì phải cúng con
ma đó, tùy loại ma to nhỏ, dữ nhiều dữ ít mà
liệu sắm lễ.
Mỗi loại ma quỷ, thần linh tác động vào con
người một cách khác nhau như: ma bà chửa
chết “phi đang rằm” thường làm hại đàn bà
khi chửa đẻ; “phi tốc nặm” ma chết đuối
thường hay làm người chết đuối theo; “phi pjài”
là hồn ma trẻ con hay quấy rầy trẻ con,
Tuy nhiên, ranh giới phân biệt giữa ma lành
và ma dữ cũng chỉ mang tính chất tương đối,
ma nào cũng có thể đem phúc hay gây họa
cho con người, nếu con người ứng xử không
tốt. Do đó, không chỉ có tang ma của người
Tày mà cả các tộc người khác đều bị các quan
niệm “phi” (ma) chi phối, khiến người ta phải
mời thầy cúng thực hành nhiều nghi lễ, hiến
nhiều đồ tế tự, để hồn ma không biến thành
ma dữ làm hại con người và gia súc.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Tư liệu thành văn:
[1]. Hoàng Ngọc La, Hoàng Hoa Toàn (1999), Tín
ngưỡng dân gian Tày lịch sử và hiện tại, Đề tài
nghiên cứu khoa học cấp bộ, Mã số: B98-05-10.
[2]. Tống Đạo Nguyên (2011), Đạo giáo sinh tử kỳ
thư, Nxb Văn hóa Thông tin, Hà Nội.
[3]. E.B Tylor (2001), “Văn hóa nguyên thủy”,
Tạp chí Văn hóa nghệ thuật, HN.
[4]. Hà Văn Viễn, Lương Văn Bảo, Lâm Xuân
Đình, Triệu Kim Văn, Bàn Tuấn Năng, Đàm Thị
Uyên, Hoàng Thị Lan (2004); Bản sắc và truyền
thống văn hóa các dân tộc tỉnh Bắc Kạn, Nxb Văn
hóa Dân tộc, Hà Nội.
[5]. Đặng Nghiêm Vạn (2007), Văn hóa Việt Nam
đa tộc người, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
[6]. Nguyễn Thị Yên (2009), Tín ngưỡng dân
gian Tày, Nùng, Nhà xuất bản Khoa học xã hội,
Hà Nội.
Tư liệu điền dã:
1. Ông Hà Văn Ngự (lục sthay), dân tộc Tày, Thôn
Pù Lầu, xã Phương Viên, huyện Chợ Đồn, tỉnh
Bắc Kạn.
2. Ông Lý Xuân Khoa (thầy Tào), Phường Đức
Xuân, thị xã Bắc Kạn.
Lương Thị Hạnh và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 96(08): 211 - 218
218
SUMMARY
SOME CONCEPTS RELATED TO FUNERAL CEREMONIES
OF THE TAY IN BAC KAN PROVINCE
Luong Thi Hanh*, Mai Thi Hong Vinh, Nguyen Van Tien
College of Sciences - TNU
The Tay figure and perceive the world as a unity of three realms: the heaven, the land of the living
and the hell. In their opinions, each human being has a soul and if the soul is separated from the
physical body, the dead turns into ghosts. The ghosts of grandparents and parents can bring well-
being or cause menace to their descendants, depending on the behavior of their descendants
towards them when they die. Because when the dead go to the heaven, they still have to "work"
and have all the demands like living people. If the children do not give their dead parents beautiful
and peaceful grave, either the souls of the dead will be still lurking around the children and harass
them, or the dead who are in deprivation (because the descendants do not provide necessary things
and rituals), the dead soul is not satisfied, will rebuke the children, causing sickness or death to
their children and livestock. Perhaps that is the reason why the funeral ceremonies of the Tay in
general and Tay people in Bac Kan particularly are influenced by the non-ghost concept. This
concept makes people invite a Tao sorcerer for ritual practice so that their dead parents will not
turn into wicked ghost who will harm the children and the community.
Key words: concept, funeral, space, ritual, soul, life,
*
Tel: 0914 892999, Email: hanhluongthi4@gmail.com
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- brief_36079_39633_181201384833211_8457_2052233.pdf