Để tiếp tục đẩy mạnh xuất khẩu lao động, chính
quyền cần tăng cường công tác quản lý các trung
tâm, các cơ sở, tổ chức đưa người đi xuất khẩu lao
động thực hiện đúng cam kết với người lao động.
Thực hiện nghiêm các quy định, luật pháp của Nhà
nước, cần có sự kết hợp có hiệu quả giữa chính
quyền các cấp với các cơ sở tổ chức xuất khẩu lao
động, cơ sở đào tạo nghề và các cơ quan ban,
ngành có liên quan để tạo điều kiện thuận lợi cho
người lao động có thời hạn ở nước ngoài.
Nhìn chung, giải quyết việc làm cho người lao
động nông thôn bị thu hồi đất canh tác là vấn đề đã
được đề cập rất nhiều trong thời gian qua. Vì đây
là vấn đề nan giải, phức tạp nên cần có sự quan
tâm của Nhà nước và chính quyền địa phương, có
các chính sách phù hợp và có các giải pháp đồng
bộ thời mới có thể đạt được mục tiêu đề ra.
6 trang |
Chia sẻ: linhmy2pp | Ngày: 11/03/2022 | Lượt xem: 395 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Một số giải pháp nhằm giải quyết việc làm cho người nông dân trong diện thu hồi đất nông nghiệp ở Thái Nguyên, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Nguyễn Thị Linh Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 88(12): 41 - 46
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 41
MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM GIẢI QUYẾT VIỆC LÀM CHO NGƯỜI NÔNG DÂN
TRONG DIỆN THU HỒI ĐẤT NÔNG NGHIỆP Ở THÁI NGUYÊN
Nguyễn Thị Linh
*
Thành đoàn Thái Nguyên
TÓM TẮT
Tỉnh Thái Nguyên được tái lập ngày 1/1/1997. Thái Nguyên hiện đang được nghiên cứu để trở
thành vùng kinh tế trọng điểm Bắc thủ đô Hà Nội. Đến nay, tỉnh Thái Nguyên trở thành một đơn
vị điển hình về phát triển kinh tế theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Tỉnh Thái Nguyên có
7 khu công nghiệp, 29 cụm công nghiệp, cơ cấu kinh tế của tỉnh đã có sự chuyển dịch theo hướng
tăng nhanh tỷ trọng ngành công nghiệp, dịch vụ; giảm dần tỷ trọng trong ngành nông nghiệp. Bên
cạnh đó, tỉnh Thái Nguyên cũng thường xuyên quan tâm tới vấn đề giải quyết việc làm cho người
lao động nông thôn, nhờ đó, đời sống của người dân ngày một ổn định, bộ mặt của tỉnh ngày càng
thay đổi theo hướng tích cực.
Từ khoá: Công nghiệp hoá, hiện đại hoá, đào tạo nghề, giải quyết việc làm, lao động, nông thôn.
THÁI NGUYÊN - NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT
RA TRONG QUÁ TRÌNH PHÁT TRIỂN
CÁC KHU CÔNG NGHIỆP*
Với diện tích tự nhiên 3.531,02 km2 (bằng
1,07% diện tích của cả nước) và dân số năm
2010 là 1.131.278 người (bằng 1,31% dân số
của cả nước). Thái Nguyên là một tỉnh trung
du miền núi nhưng địa hình lại không phức
tạp so với các tỉnh trung du, miền núi khác.
Với 353.101,67 ha diện tích tự nhiên [2],
trong đó đất núi chiếm 48,4%, đất đồi chiếm
31,4% và đất ruộng chiếm 12,4%. Trong tổng
quỹ đất 353.101,67 ha, đất đã sử dụng là
246.513 ha (chiếm 69,81% diện tích đất tự
nhiên) và đất chưa sử dụng là 106.588,67 ha
(chiếm 30,19% diện tích tự nhiên). Trong đó
đất chưa sử dụng có 1.714 ha có khả năng sản
xuất nông nghiệp và 41.250 ha có khả năng
sản xuất lâm nghiệp.
Biểu 1. Tổng diện tích đất đai tự nhiên phân theo
mục đích sử dụng
Mục đích sử dụng
Diện tích
(ha)
Tổng diện tích đất tự nhiên 353.101,67
Trong đó: - Đất nông nghiệp 113.994,47
- Đất lâm nghiệp 180.639,32
- Đất chuyên dùng 19.186,07
- Đất ở 12.819,79
- Đất chưa sử dụng 26.462,02
* Tel: 0989.129.909; Email: nguyenthilinh2008@gmail.com
Như vậy, đất đai nông nghiệp của tỉnh Thái
Nguyên 113.944,47 ha bằng 32,28% tổng
diện tích tự nhiên của toàn tỉnh, đất nông
nghiệp bình quân đầu người chỉ có 0,1 ha.
Từ sau khi tái lập tỉnh (1997), nền kinh tế của
Thái Nguyên phát triển với mức tăng trưởng
khá. Nếu như giai đoạn 1997 - 2000 nhịp độ
tăng trưởng bình quân mới đạt 4,38%, cơ cấu
kinh tế của tỉnh là nông nghiệp chiếm
33,68%; công nghiệp và xây dựng 30,37%,
dịch vụ 35,95%, đến giai đoạn 2001 - 2005
nhịp độ tăng trưởng GDP bình quân hàng
năm của tỉnh đã đạt 9,14% [1]. Trước thực tế
đó, Thái Nguyên đã chủ trương ưu tiên đầu tư
cho phát triển công nghiệp bằng cách thu hút
nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài và
nguồn vốn đầu tư từ các thành phần kinh tế
trong cả nước. Để thực hiện chủ trương đó,
Thái Nguyên đã tạo mọi điều kiện để các khu
công nghiệp, cụm công nghiệp phát triển.
Hiện nay trên địa bàn tỉnh đã quy hoạch 7 khu
công nghiệp với tổng diện tích 3.770 ha.
Nhằm thu hút đầu tư, đẩy mạnh phát triển
công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, UBND
tỉnh đã phê duyệt quy hoạch 29 cụm công
nghiệp, tổng diện tích 1.167,8 ha, trong đó có
17 CCN được UBND tỉnh phê duyệt qui
hoạch chi tiết với tổng diện tích 620 ha [5].
Nguyễn Thị Linh Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 88(12): 41 - 46
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 42
Biểu 2. Các khu công nghiệp tỉnh Thái Nguyên
STT Khu công nghiệp Vị trí Khu công nghiệp Diện tích (ha)
1 KCN Sông Công I TX. Sông Công 220
2 KCN Sông Công II TX. Sông Công 250
3 KCN Nam Phổ Yên Huyện Phổ Yên 200
4 KCN Tây Phổ Yên Huyện Phổ Yên 200
5 KCN Quyết Thắng TP. Thái Nguyên 200
6 KCN Điềm Thuỵ Huyện Phú Bình 350
7 KCN - Đô thị Yên Bình Huyện Phú Bình - Huyện Phổ Yên 2.350
Cùng với sự hình thành các khu công nghiệp, cụm
công nghiệp, Thái Nguyên đã có nhiều chính sách
cởi mở, cùng chịu trách nhiệm với các nhà đầu
tư, cùng các nhà đầu tư tháo gỡ những vướng
mắc trong thủ tục hành chính, giải phóng mặt
bằng,... Chính điều này đã làm cho Thái Nguyên
có những bước phát triển nhanh và vững chắc
trong thời gian qua, cụ thể:
Giai đoạn 2006-2010, tỉnh Thái Nguyên đã đạt
được những thành tựu đáng khích lệ: kinh tế đạt
tốc độ tăng trưởng khá 11,11% (cao hơn mức bình
quân chung của cả nước), trong đó: công nghiệp -
xây dựng tăng 14,91%, dịch vụ thương mại tăng
11,86%, nông lâm nghiệp tăng 4,14%, cơ cấu kinh
tế chuyển dịch theo hướng công nghiệp hoá, hiện
đại hoá đó là tăng dần tỉ trọng công nghiệp (năm
2006 đạt 38,71%, năm 2010 đạt 41,6%). GDP bình
quân đầu người theo giá thực tế năm 2010 dự kiến
đạt khoảng 17,5 triệu đồng/người [5] . Về chuyển
dịch cơ cấu lao động trong các ngành kinh tế, tốc
chuyển dịch cơ cấu lao động trong ngành công
nghiệp- xây dựng có mức tăng chậm từ 11,63%
năm 2005 lên 14,53% năm 2009; lao động trong
ngành dịch vụ có mức chuyển dịch chậm, tăng từ
16,9% năm 2005 lên 17,15% năm 2009, chủ yếu
thuộc lĩnh vực thương mại, lưu trú, ăn uống đã tạo
điều kiện thu hút và chuyển dịch lao động từ lĩnh
vực nông lâm nghiệp. Ngành nông lâm nghiệp mặc
dù mức đóng góp trong GDP không lớn, khoảng
trên 1/5 GDP toàn tỉnh, song chiếm tỷ trọng lao
động lớn (năm 2009 là 68,32%). Trong các năm
qua, mặc dù đã có mức giảm về cơ cấu lao động,
song mức giảm còn thấp, khoảng xấp xỉ 1%/năm,
đây cũng là áp lực đối với tỉnh về vấn đề giải quyết
việc làm cho người lao động, đặc biệt là đối với
các vùng bị thu hồi đất sản xuất để đầu tư các công
trình hạ tầng công cộng, khu đô thị, khu cụm công
nghiệp. Tổng thu ngân sách nhà nước năm 2006
đạt 845,3 tỷ đồng, chiếm 10,42% GDP và tăng
17% so với năm 2005, đến năm 2009 đạt 1.730.7
tỷ đồng, tăng 23,1% so với thực hiện năm 2008, tỷ
lệ huy động vào ngân sách chiếm 10,48% GDP;
năm 2010 ước đạt 2.200,8 tỷ đồng. Như vậy tổng
thu ngân sách 4 năm từ 2006-2010 (năm 2010 dự
ước) đạt trên 8.000 tỷ đồng, vượt mục tiêu đề ra.
Tỷ lệ huy động GDP vào ngân sách không tăng do
việc thực hiện các chính sách miễn giảm thuế và
không đưa vào tổng thu ngân sách một số khoản
thu, do vậy ảnh hưởng đến tỷ lệ huy động GDP
vào ngân sách nhà nước. Việc thu hút đầu tư, đặc
biệt là khu vực kinh tế ngoài quốc doanh đã bước
đầu phát huy hiệu quả, tăng nguồn thu cho ngân
sách. Nhờ có tăng trưởng kinh tế cao vào ổn định,
thu ngân sách ngày một cao nên tỉnh có điều kiện
giải quyết các vấn đề văn hoá, xã hội. Từ năm
2006 đến năm 2009 và ước đến hết năm 2010 toàn
tỉnh tạo việc làm mới cho 78.500 lao động, bình
quân mỗi năm giải quyết được 15.660 việc làm
mới, vượt mục tiêu đề ra; Công tác quản lý nhà
nước về pháp luật lao động được chú trọng: thành
lập Hội đồng trọng tài lao động của tỉnh, hội đồng
hoà giải lao động cơ sở theo quy định của pháp
luật, thường xuyên tập huấn, phổ biến Luật lao
động, Luật Bảo hiểm xã hội cho các doanh nghiệp
đóng trên địa bàn tỉnh. Đời sống vật chất và tinh
thần của người dân được nâng lên đáng kể, đến hết
năm 2009 tỷ lệ hộ nghèo đã giảm xuống còn
13,99%, năm 2010 ước còn 10,8%. [4]. Giá trị sản
xuất công nghiệp năm sau thường cao hơn năm
trước (theo giá thực tế), năm 2006 đạt 9.676 tỉ
đồng, năm 2010 đạt 30.651 tỉ đồng, tăng trưởng
bình quân 29,25%. Trong đó: công nghiệp Trung
ương 17.701 tỉ đồng, chiếm tỉ trọng 55,79%, công
Nguyễn Thị Linh Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 88(12): 41 - 46
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 43
nghiệp địa phương 10.979 tỉ đồng, chiếm 35,82%,
công nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài 2.570 tỉ
đồng, chiếm 8,39% [5].
Các khu công nghiệp, cụm công nghiệp đã có đóng
góp tích cực trong phát triển kinh tế xã hội, cải
thiện đời sống nhân dân, song bên cạnh đó cũng
còn không ít vấn đề đang đặt ra, cần phải giải
quyết như:
- Các dự án phần lớn được đầu tư ở các khu công
nghiệp, cụm công nghiệp ở vùng đồng bằng: 7/7
khu công nghiệp đều ở các địa bàn thuộc thành
phố và các huyện phía Nam của tỉnh, trong tổng số
29 cụm công nghiệp thì chỉ có 8 cụm công nghiệp
vùng miền núi nhưng 8 cụm công nghiệp này cũng
ở vị trí thuộc đồng bằng của miền núi.
- Diện tích đất nông nghiệp bị thu hồi để phát triển
các khu công nghiệp, cụm công nghiệp và phát
triển các khu đô thị ở Thái Nguyên là tương đối
lớn, khoảng trên 2.500 ha, đã ảnh hưởng trực tiếp
đến đời sống của 228.380 hộ nông thôn và 574.434
người trong độ tuổi lao động. Trong đó, có 71.483
người trong độ tuổi từ đủ 15 đến 18, chiếm
12,45%,; 121.045 người từ 19 đến 25 tuổi, chiếm
21,07%; 142.231 người từ 26 đến 35 tuổi, chiếm
24,76%; 120.517 người từ 36 đến 45 tuổi chiếm
20,98% và 119.158 người trên 45 tuổi , chiếm
20,74%. Số người có độ tuổi từ 35 tuổi trở lên,
chiếm 68,70%, đây là đối tượng khó đào tạo để
chuyển đổi nghề nghiệp, do họ có trình độ văn hoá
thấp. Chính vì vậy, giải quyết việc làm và ổn định
đời sống cho đối tượng này là vấn đề nan giải đòi
hỏi phải có nhiều biện pháp tổng hợp. [3]
- Đời sống của nông dân bị thu hồi đất nông
nghiệp phục vụ phát triển các khu công nghiêp,
cụm công nghiệp, phát triển các khu đô thị có được
nâng lên do tiền đền bù, cơ sở hạ tầng kỹ thuật, hạ
tầng xã hội nông dân được cải thiện nhưng không
có việc làm ổn định, không có thu nhập thường
xuyên nên nhiều gia đình có đầy đủ tiện nghi sinh
hoạt song lại rất nghèo khó, cuộc sống không ổn
định.
- Một bộ phận thanh niên không được tuyển dụng
vào làm việc tại các khu công nghiệp, các cụm
công nghiệp và cũng không có điều kiện học tập
phải rời bỏ quê đi tìm việc làm ở các vùng đô thị
khác nên đã phần nào ảnh hưởng tới công tác Đoàn
và phong trào thanh thiếu nhi của địa phương, nhất
là trong dịp hè các hoạt động của thiếu nhi phần
lớn đều do chi hội phụ nữ hoặc chi hội cựu chiến
binh đảm nhận và phụ trách [7].
- Các tệ nạn xã hội dễ thâm nhập, làm cho lối sống
thuần tuý của người nông dân không còn nữa, mà
thay vào đó là những mặt trái của xã hội thời kinh
tế thị trường.
- Ở các khu công nghiệp, cụm công nghiệp mặc dù
có nhiều có gắng trong việc giải quyết và khắc
phục ô nhiễm môi trường, song trên thực tế vẫn
ảnh hưởng không nhỏ đến đời sống và sức khoẻ
người dân do khí thải, nước thải, rác thải công
nghiệp. Theo thống kê của Sở Tài nguyên-Môi
trường tỉnh Thái Nguyên, hiện nay trên địa bàn
vẫn còn 43 cơ sở sản xuất kinh doanh nằm trong
diện gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng, chưa
có hoặc chậm hoàn thành kế hoạch xử lý ô nhiễm
theo tiến độ yêu cầu. Các cơ quan chức năng đã có
văn bản kiến nghị yêu cầu xử lý, thậm chí xử phạt
hành chính nhưng nhiều cơ sở, doanh nghiệp vẫn
chưa thực hiện nghiêm túc các kết luận thanh,
kiểm tra về môi trường [8]
Với những vấn đề hết sức cơ bản đặt ra trong quá
trình phát triển khu công nghiệp, cụm công nghiệp
cũng như phát triển các khu đô thị, tỉnh Thái
Nguyên cần có các giải pháp hỗ trợ cần thiết giúp
người nông dân có việc làm sau khi bị thu hồi đất.
Bài viết này xin được trao đổi một số giải pháp
sau:
CÁC GIẢI PHÁP CHỦ YẾU GIẢI QUYẾT VIỆC
LÀM CHO LAO ĐỘNG NÔNG THÔN BỊ THU
HỒI ĐẤT
Một là, xây dựng quy hoạch không gian phát triển
kinh tế - xã hội cần phải cụ thể, chi tiết.
Quy hoạch không gian sẽ xác định được các vùng
kinh tế, làm căn cứ để xác lập các dự án đầu tư.
Thái Nguyên có 3 vùng: miền núi, trung du và
đồng bằng thì nên có các dự án phát triển công
nghiệp tập trung ở vùng trung du và miền núi, vì
đây là nơi đất đai ít màu mỡ, mật độ dân cư thưa
Nguyễn Thị Linh Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 88(12): 41 - 46
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 44
thớt. Như vậy, số lượng lao động nông nghiệp bị
mất việc làm do bị thu hồi đất canh tác cũng ít đi,
mặt khác duy trì được diện tích trồng cây lương
thực. Đây là giải pháp vừa mang tính cơ bản vừa
bảo đảm phát triển công nghiệp, vừa bảo vệ
được diện tích trồng lúa và số lượng lao động dư
thừa do bị thu hồi đất nông nghiệp cũng ít hơn.
Hai là, hoàn thiện hệ thống pháp luật, chính sách,
gắn trách nhiệm của doanh nghiệp trong các khu
công nghiệp, cụm công nghiệp với việc giải quyết
việc làm cho lao động nông thôn bị thu hồi đất
canh tác.
Mỗi doanh nghiệp đều có những vị trí, những công
việc mà không đòi hỏi cần phải có chuyên môn kỹ
thuật. Do vậy những vị trí lao động này nên dành
để tuyển những lao động đã nhường đất để xây
dựng nhà máy, xí nghiệp. Mặt khác, doanh nghiệp
phải ưu tiên việc nhận con em nông dân còn trẻ, có
văn hoá, có chuyên môn vào làm việc và đào tạo
họ thành lực lượng lâu dài của doanh nghiệp. Điều
này không chỉ giải quyết việc làm cho lao động mà
còn tăng thêm sự gắn bó lâu dài giữa doanh nghiệp
với địa phương.
Ba là, tích cực đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện
đại hoá nông nghiệp, nông thôn.
Nếu có quy hoạch hợp lý và có các biện pháp sử
dụng đất có hiệu quả thì diện tích đất nông nghiệp
cũng vẫn bị thu hẹp, bình quân đầu người sẽ thấp.
Xu hướng di chuyển dân cư từ nông thôn ra thành
thị sẽ tăng lên. Do đó, việc đẩy mạnh đầu tư phát
triển công nghiệp vừa và nhỏ, tiểu thủ công nghiệp
là giải pháp tích cực để thu hút nhiều lao động, tạo
điều kiện cho người lao động có việc làm và có thu
nhập ổn định ngày tại nơi mình sinh sống nhằm
thực hiện phương châm “ly nông không ly hương”.
Thực hiện tốt giải pháp này sẽ giải quyết được việc
làm tại chỗ cho lao động nông nghiệp dư thừa do
bị thu hồi đất canh tác và sẽ làm giảm áp lực lao
động tự do tràn vào các đô thị tìm kiếm việc làm.
Muốn vậy, trên cơ sở chính sách, quy định của
Nhà nước, bên cạnh việc giao cho các địa phương
chủ động xây dựng các chương trình kế hoạch và
đề ra các phương án sát với thực tế, tỉnh cũng cần
thường xuyên kiểm tra giám sát và tạo điều kiện
đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng kỹ thuật, hạ tầng
xã hội nhất là ở các làng, xã vùng cao, nếu làm tốt
được việc này thì sẽ thu hút được nhiều doanh
nghiệp đầu tư vào các vùng miền núi và trung du;
có chính sách ưu đãi, hỗ trợ các cơ sở sản xuất về
vốn, kỹ thuật, đào tạo công nhân lành nghề cũng
như kinh nghiệm tổ chức quản lý và thị trường tiêu
thụ sản phẩm.
Bốn là, đẩy mạnh đào tạo nghề cho người lao động
nông thôn
Thái Nguyên là tỉnh đứng thứ 3 của cả nước về
giáo dục đào tạo với 19 trường Đại học và Cao
đẳng, 52 cơ sở dạy nghề, do vậy Thái Nguyên
cũng đã có nhiều chính sách đào tạo nghề cùng với
các dự án cụ thể cho các vùng nông thôn, trong đó
có những vùng bị thu hồi đất canh tác để phát
triển các khu công nghiệp, cụm công nghiệp. Tuy
nhiên, vẫn còn có một bộ phận người lao động
nông thôn chưa được tiếp cận với chính sách đào
tạo nghề nên đã gặp nhiều khó khăn trong quá
trình tìm kiếm việc làm. Bởi vì, những lao động
này đều ở độ tuổi trên 35, trình độ văn hoá thấp, về
phía cá nhân - họ không muốn học và cũng không
có khả năng học. Đối tượng được đào tạo nghề
hiện nay chủ yếu là lao động trong độ tuổi từ đủ 15
đến 35, chiếm 58,28% tổng số lao động nông thôn
trong độ tuổi trên địa bàn tỉnh. Các điều kiện đảm
bảo chất lượng dạy nghề (cơ sở vật chất, trang thiết
bị dạy nghề, đội ngũ giáo viên) tuy đã được tăng
cường nhưng vẫn còn hạn chế so với yêu cầu thực
tế của công tác dạy nghề trong thời kỳ mới. Đội
ngũ cán bộ quản lý và giáo viên dạy nghề tuy đã
được đào tạo, bồi dưỡng nhưng so với yêu cầu
thực tế còn thiếu và một số chưa đạt chuẩn theo
quy định. Công tác quản lý nhà nước về dạy nghề
mới chủ yếu là quản lý đầu vào, quản lý quá trình
đào tạo, chưa quản lý và kiểm soát được đầu ra
cho quá trình đào tạo nghề. Công tác quản lý nội
dung chương trình đào tạo của một số cơ sở dạy
nghề còn yếu. Công tác dạy nghề thời gian qua chủ
yếu là dựa trên khả năng đào tạo hiện có của cơ sở
dạy nghề, việc đáp ứng nhu cầu của doanh nghiệp
còn hạn chế, chưa phù hợp nhu cầu thị trường lao
động dẫn đến tình trạng lao động qua đào tạo vừa
thừa lại vừa thiếu. Mạng lưới cơ sở dạy nghề phát
triển chưa hợp lý, quy mô đào tạo còn nhỏ, trình
độ đào tạo thấp (chủ yếu là sơ cấp nghề và dạy
nghề thường xuyên); lĩnh vực ngành nghề đào tạo
Nguyễn Thị Linh Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 88(12): 41 - 46
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 45
còn ít. Quy mô tuyển sinh dạy nghề trình độ cao
đẳng và trung cấp vẫn còn thấp so với tổng số lao
động được đào tạo nghề, giai đoạn 2006 - 2010 chỉ
chiếm 18,55% [6], thiếu lao động trình độ cao cho
các khu, cụm công nghiệp, xuất khẩu lao động và
chuyên gia.
Do vậy, trong thời gian tới, tỉnh cần đẩy mạnh đào
tạo nghề cho lao động nông thôn, cụ thể: Xây dựng
và phát triển hệ thống mạng lưới trường dạy nghề,
khuyến khích mọi thành phần kinh tế tham gia đào
tạo nghề nhằm tăng nhanh tỷ lệ lao động qua đào
tạo ở nhiều nghề, nhiều lĩnh vực sản xuất và dịch
vụ; chú trọng đầu tư đào tạo một số nghề chất
lượng cao, đáp ứng nhu cầu lao động kỹ thuật
trong quá trình phát triển kinh kế xã hội của tỉnh.
Gắn công tác dạy nghề đáp ứng nhu cầu của doanh
nghiệp và thị trường lao động, dạy nghề theo đơn
đặt hàng,Làm tốt công tác hướng nghiệp, phân
luồng, định hướng cho người lao động, nhất là lao
động trẻ sớm học nghề và thành thạo ở nghề đã
học nhằm tăng cơ hội tìm được việc làm. Thực
hiện có hiệu quả đề án đào tạo nghề cho lao động
nông thôn theo quyết định 1956/QĐ-TTg của Thủ
tướng Chính phủ. Tập trung vào các hoạt động chủ
yếu sau:
- Tăng cường cơ sở vật chất, trang thiết bị dạy
nghề đối với các cơ sở dạy nghề công lập.
- Xây dựng đội ngũ giáo viên và cán bộ quản lý
dạy nghề.
- Xây dựng chương trình, giáo trình, học liệu của
các cơ sở dạy nghề.
- Hỗ trợ lao động nông thôn học nghề: chi phí dạy
nghề, tiền ăn, chi phí đi lại.
- Tổ chức đào tạo nghề theo nhu cầu thị trường
lao động, đào tạo nghề theo đơn đặt hàng, gắn
đào tạo nghề với giải quyết việc làm.
- Khuyến khích các tổ chức, cá nhân tham gia vào
công tác đào tạo nghề theo phương thức xã hội hóa
về công tác đào tạo nghề.
- Xây dựng các chương trình, nội dung đào tạo, bồi
dưỡng cán bộ, công chức cấp xã.
- Xây dựng và phát triển hệ thống thông tin thị
trường lao động nhằm tăng cường thực hiện tốt
chức năng quản lý nhà nước về lao động - việc
làm. Đồng thời là cầu nối giữa cơ quan quản lý
Nhà nước, người lao động, người sử dụng lao
động, các tổ chức giới thiệu việc làm, các
trường và cơ sở đào tạo nghề.
Để thực hiện hiệu quả đào tạo nghề cho lao động
nông thôn, các địa phương và cơ sở đào tạo nghề
phải phối hợp chặt chẽ, xây dựng kế hoạch cụ thể,
tranh thủ các nguồn kinh phí được phân bổ để hỗ
trợ cho quá trình đào tạo nghề cũng như giải quyết
việc làm cho người lao động nông thôn, như:
nguồn kinh phí Trung ương hỗ trợ hàng năm,
nguồn kinh phí huy động từ ngân sách địa phương
và huy động từ các nguồn khác.
Năm là, đẩy mạnh xuất khẩu lao động
Trong 5 năm (từ 2006 - 2010), tỉnh Thái Nguyên
đã tạo điều kiện, hỗ trợ kinh phí cho xuất khẩu lao
động làm việc có thời hạn ở nước ngoài, toàn tỉnh
đã đưa được 10.438 lao động đi làm việc có thời
hạn ở nước ngoài theo hợp đồng ở các thị trường
như UAE, Đài Loan, Hàn Quốc, Malaysia, Nhật
Bản Số tiền gửi về gia đình qua 03 ngân hàng
trong 5 năm qua (Ngân hàng Nông nghiệp &
PTNT, Ngân hàng Đầu tư và Phát triển, Ngân hàng
Công thương) là 80 triệu USD (tương đương
khoảng 1.600 tỷ VNĐ). Ngoài ra, người lao động
còn gửi tiền về qua gửi trao tay hoặc dịch vụ
chuyển tiển khác [6]
Mặc dù hoạt động xuất khẩu lao động là một giải
pháp quan trọng nhằm tạo việc làm, tăng thu nhập
và giảm nghèo cho người lao động. Tuy nhiên,
chất lượng nguồn lao động xuất khẩu chưa đáp
ứng yêu cầu cả về ngoại ngữ, tay nghề, ý thức chấp
hành pháp luật, tuân thủ các điều khoản đã cam kết
trong hợp đồng. Có một số cá nhân, tổ chức đã lợi
dụng lòng tin của bà con nông dân lừa đảo thu tiền
bất chính, gây ảnh hưởng xấu trong dư luận. Việc
vay vốn cho người đi xuất khẩu lao động tại nhiều
địa phương vẫn còn khó khăn, đối tượng được vay
vốn của Ngân hàng Chính sách xã hội không
nhiều, những hạn chế này đã phần nào ảnh hưởng
tới hoạt động xuất khẩu lao động trên địa bàn tỉnh
Thái Nguyên trong thời gian qua.
Để tiếp tục đẩy mạnh xuất khẩu lao động, chính
quyền cần tăng cường công tác quản lý các trung
tâm, các cơ sở, tổ chức đưa người đi xuất khẩu lao
động thực hiện đúng cam kết với người lao động.
Thực hiện nghiêm các quy định, luật pháp của Nhà
nước, cần có sự kết hợp có hiệu quả giữa chính
Nguyễn Thị Linh Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 88(12): 41 - 46
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 46
quyền các cấp với các cơ sở tổ chức xuất khẩu lao
động, cơ sở đào tạo nghề và các cơ quan ban,
ngành có liên quan để tạo điều kiện thuận lợi cho
người lao động có thời hạn ở nước ngoài.
Nhìn chung, giải quyết việc làm cho người lao
động nông thôn bị thu hồi đất canh tác là vấn đề đã
được đề cập rất nhiều trong thời gian qua. Vì đây
là vấn đề nan giải, phức tạp nên cần có sự quan
tâm của Nhà nước và chính quyền địa phương, có
các chính sách phù hợp và có các giải pháp đồng
bộ thời mới có thể đạt được mục tiêu đề ra.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1]. Cục thống kê tỉnh Thái Nguyên: Niên giám thống kê tỉnh
Thái Nguyên năm 2007.
[2]. Cục thống kê tỉnh Thái Nguyên: Niên giám thống kê tỉnh
Thái Nguyên năm 2010.
[3]. Tổng hợp: “Những kết quả chủ yếu tổng hợp từ điều tra
dân số và nhà ở 01/4/2009 của tỉnh Thái Nguyên”, Cục thống
kê tỉnh Thái Nguyên, xb 9/2010..
[4]. Uỷ ban nhân dân tỉnh Thái Nguyên: Báo cáo số 116/BC-
UBND ngày 23/11/2010 Thống kê kinh tế xã hội của tỉnh Thái
Nguyên giai đoạn 2006 - 2010.
[5]. Uỷ ban nhân dân tỉnh Thái Nguyên: Kết quả thực hiện
chương trình phát triển công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp và
làng nghề tỉnh Thái Nguyên giai đoạn 2006 - 2010.
[6]. Uỷ ban nhân dân tỉnh Thái Nguyên: Quyết định số
3291/QĐ-UBND ngày 30/12/2010 Phê duyệt Đề án phát triển
cụm công nghiệp trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên giai đoạn
2011 - 2015.
[7]. Thành đoàn Thái Nguyên: Báo cáo tổng kết hoạt hoạt
động hè năm 2011.
[8]. Một số trang Web:
- w.w.w.baothainguyen.org.vn
w.w.w.bqlcnthainguyen.gov.vn
SUMMARY
EMPLOYMENT SOLUTIONS FOR THE FARMERS WHOSE AGRICULTURAL LAND WAS
RECOVERED IN THAI NGUYEN
Nguyen Thi Linh
*
Deputy Secretary of Ho Chi Minh
Communist Youth Union of Thai Nguyen city
Thai Nguyen province was re-established on 01-01-1997. Thai Nguyen is currently trying to become a major economic
center in the north of Hanoi. So far, Thai Nguyen has been a typical unit of economic development toward industrialization
and modernization. Thai Nguyen province has seven industrial zones and 29 industrial clusters; the province's economic
structure has evxperienced a shift towards increasing the proportion of industry, services and gradually reducing the
agricultural share. Besides, Thai Nguyen province also often concern about the employment problem for rural workers.
Therefore, people’s lives are more and more stable and increasingly the appearance of the province is changing positively.
Keywords: Industrialization,modernization, vocational traning, employment solutions, labours, rural area.
* Tel: 0989.129.909; Email: nguyenthilinh2008@gmail.com
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- mot_so_giai_phap_nham_giai_quyet_viec_lam_cho_nguoi_nong_dan.pdf