Recession of the world created negative impacts on export, capital and service
ativitiies in our country. Within the country, high inflation and deflation of industry
and construction in the end of 2008 until the beginning of 2009 made our
economy have to face more troubles and challenges. Hence, the burning issue is
to find some urgent solutions in order to prevent economic deflation, keep
economic growth, ensure social sercurity for every local in particular and for the
whole economy in general. The writter propose some solutions to increase
investment and consumption for the whole country generally and for Thai Nguyen
province particularly so as to achieve the aim of economic growth.
9 trang |
Chia sẻ: linhmy2pp | Ngày: 12/03/2022 | Lượt xem: 323 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Một số giải pháp kích cầu ở nước ta hiện nay liên hệ với thực tiễn ở tỉnh Thái Nguyên, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Trần Đình Tuấn Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 58(10): 14 - 20
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
MỘT SỐ GIẢI PHÁP KÍCH CẦU Ở NƯỚC TA HIỆN NAY
LIÊN HỆ VỚI THỰC TIỄN Ở TỈNH THÁI NGUYÊN
Trần Đình Tuấn*
Trường Đại học Kinh tế và Quản trị kinh doanh - Đại học Thái Nguyên
TÓM TẮT
Sự suy thoái ngày càng sâu rộng của kinh tế thế giới đã tác động tiêu cực
đến thị trường hàng hóa xuất khẩu, thị trường vốn và hoạt động dịch vụ
nước ta. Ở trong nước, lạm phát cao cùng với suy giảm sản xuất công
nghiệp và xây dựng cuối năm 2008 kéo dài sang những tháng đầu năm 2009
đã làm trầm trọng thêm những khó khăn, yếu kém vốn có của nền kinh tế. Vì
vậy việc tìm ra những giải pháp cấp bách nhằm ngăn chặn suy giảm kinh tế,
duy trì tăng trưởng kinh tế, đảm bảo an sinh xã hội cho nền kinh tế nói chung
và cho từng địa phương nói riêng là vấn đề hết sức cần thiết. Qua bài viết tác
giả đề xuất một số giải pháp kích cầu đầu tư và tiêu dùng ở nước ta và cho
tỉnh Thái Nguyên nhằm thực hiện mục tiêu tăng trưởng kinh tế.
Từ khóa: Một số giải pháp kích cầu ở việt nam trong giai đoạn khủng khoảng
kinh tế toàn cầu.
* Khủng hoảng cho vay thế chấp dưới
chuẩn lan rộng ở Mỹ kể từ giữa năm
2007 đã dẫn tới tình trạng suy thoái
kinh tế toàn cầu hiện nay. Năm 2008,
nền kinh tế thế giới và trong nước có
nhiều biến động vô cùng phức tạp.
Giá dầu thô, nhiều loại nguyên liệu,
lương thực, thực phẩm và nhiều loại
hàng hóa khác trên thị trường thế giới
tăng mạnh trong những tháng đầu
năm khiến cho lạm phát xảy ra tại hầu
hết các nước trên thế giới. Đến cuối
năm, giá cả các loại hàng hóa và
nhiên liệu lại sụt giảm mạnh do tác
động của suy thoái kinh tế toàn cầu.
Đứng trước tình hình đó, Chính phủ
và các cấp, các ngành từ Trung ương
đến địa phương, các tổ chức kinh tế
và toàn xã hội đều phải xác định thực
* Trần Đình Tuấn, Tel: 0912039920 ,
Email:
hiện nhiệm vụ trọng tâm, cấp bách là
phải tập trung mọi nỗ lực để tìm mọi
giải pháp chủ động ngăn chặn suy
giảm kinh tế, thúc đẩy sản xuất, kinh
doanh, đẩy mạnh xuất khẩu, kích cầu
đầu tư và tiêu dùng, bảo đảm an sinh
xã hội, phấn đấu thực hiện mục tiêu
tăng trưởng kinh tế năm 2009 và các
năm tiếp theo.
Tình hình triển khai thực hiện các
giải pháp chống suy giảm và ổn
định vĩ mô nền kinh tế nước ta
trong thời gian qua
Trong năm 2008, dưới sự lãnh đạo
của Đảng, sự điều hành quyết liệt của
Chính phủ, sự giám sát có hiệu quả
của Quốc hội với việc thực hiện có kết
quả 8 nhóm giải pháp của Chính phủ,
lạm phát đã được kiềm chế, kinh tế vĩ
mô cơ bản giữ được ổn định, an ninh
xã hội được bảo đảm, tốc độ tăng
Trần Đình Tuấn Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 58(10): 14 - 20
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
trưởng kinh tế đạt 6,23%. Tuy vậy,
khủng hoảng tài chính và suy thoái
kinh tế toàn cầu đã tác động trực tiếp
đến kinh tế nước ta, làm cho sản
xuất, kinh doanh và xuất khẩu giảm
sút, ảnh hưởng trực tiếp đến việc làm
và đời sống nhân dân. Trước tình
hình đó, Chính phủ đã ban hành Nghị
quyết số 30/2008/NQ-CP ngày 11-12-
2008 về những giải pháp cấp bách
nhằm ngăn chặn suy giảm kinh tế,
duy trì tăng trưởng kinh tế, bảo đảm
an sinh xã hội với 5 nhóm giải pháp
chủ yếu: (1) Thúc đẩy sản xuất kinh
doanh và xuất khẩu; (2) Thực hiện
các biện pháp kích cầu đầu tư và tiêu
dùng; (3) Chính sách tài chính và tiền
tệ; (4) Bảo đảm an sinh xã hội; (5)
Tăng cường công tác điều hành, tổ
chức thực hiện chính sách. Nhờ việc
triển khai kịp thời, quyết liệt, có những
chính sách cụ thể trong việc thực hiện
các giải pháp cơ bản trên, tình hình
kinh tế - xã hội hai quý đầu năm 2009
đã có những dấu hiệu tích cực: Kinh
tế vĩ mô cơ bản ổn định, tăng trưởng
kinh tế được duy trì; việc điều hành lãi
suất, tỷ giá linh hoạt, phù hợp, giữ
được an toàn hệ thống ngân hàng;
lạm phát được kiềm chế; sản xuất
nông nghiệp phát triển; an sinh xã hội
được tăng cường... Nhưng nhìn
chung nền kinh tế nước ta vẫn đang
đứng trước nhiều khó khăn thách
thức trong việc thực hiện chính sách
tài chính và tiền tệ, sản xuất và tiêu
thụ sản phẩm, thu hút và giải ngân
nước ngoài tăng chậm; giải quyết việc
làm đang là vấn đề nhức nhối... Vì vậy
vẫn phải tiếp tục thực hiện đồng bộ
các giải pháp tháo gỡ khó khăn cho
sản xuất, kinh doanh, huy động tối đa
các nguồn lực cho phát triển nhằm
ngăn chặn suy giảm kinh tế và duy trì
tăng trưởng trong bối cảnh nền kinh tế
- xã hội đang gặp khó khăn... Dưới
góc độ bài viết này, tác giả xin trao đổi
một số nội dung liên quan đến vấn đề
thực hiện một số giải pháp kích cầu
hiện nay ở nước ta và liên hệ với tỉnh
Thái Nguyên.
Một số giải pháp nhằm thực hiện
kích cầu hiện nay ở nước ta
1. Những quan điểm để thực hiện
giải pháp kích cầu
- Kích cầu phải lấy hiệu quả kinh tế -
xã hội làm thước đo: Thực hiện kích
cầu phải làm tăng thêm của cải vật
chất cho xã hội, tăng trưởng GDP cho
nền kinh tế, tăng thu nhập cho doanh
nghiệp, tạo thêm việc làm cho người
lao động nhằm tăng thu nhập cho
người lao động nói riêng và nhân dân
nói chung. Đồng thời thúc đẩy các
cân đối vĩ mô, giảm bội chi ngân
sách, cải cách thể chế, thực hiện
công bằng xã hội... Cơ chế hỗ trợ lãi
suất của Chính phủ là giải pháp kích
cầu phù hợp với yêu cầu của nền kinh
tế, có tác dụng thúc đẩy sản xuất kinh
doanh, tạo việc làm cho người lao
động và hiện đang được các doanh
nghiệp và toàn xã hội hưởng ứng,
đồng tình.
- Kích cầu phải có trọng tâm, trọng
điểm, không rải mành mành, phân tán
manh mún..., nhưng phải đặc biệt
quan tâm giám sát vì rất dễ tạo ra cơ
chế “xin – cho”, tình trạng “chạy dự
án”, “nước chảy chỗ trũng” để được
ưu tiên vốn hoặc lãi suất kích cầu... Vì
vậy cần tăng cường giám sát để tránh
việc chi sai mục tiêu, đối tượng sử
dụng, gây lãng phí nguồn lực. Đối với
nước ta là một nước nông nghiệp vì
vậy cần ưu tiên các nguồn lực cho
khu vực nông, lâm nghiệp và thủy
sản. Khu vực kinh tế tư nhân, các
doanh nghiệp vừa và nhỏ cũng cần
phải được quan tâm phát triển do đặc
điểm kinh tế của nước ta còn sản xuất
nhỏ, đồng thời góp phần giải quyết
vấn đề lao động dư thừa ở nông thôn.
Kinh nghiệm quốc tế cho thấy rằng,
sản lượng nông nghiệp chỉ tăng
nhanh khi lao động nông nghiệp được
chuyển từ khu vực nông nghiệp ra
các khu vực khác. Rất cần có một môi
trường hỗ trợ cho sự phát triển doanh
nghiệp để khuyến khích sự tăng
trưởng của các ngành công nghiệp sử
Trần Đình Tuấn Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 58(10): 14 - 20
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
dụng nhiều lao động ở nông thôn [4].
Thực hiện kích cầu cũng cần đặc biệt
quan tâm đến các đối tượng bị ảnh
hưởng nhiều trong cuộc khủng hoảng
kinh tế là tầng lớp dân nghèo, yếu thế
ở khu vực nông thôn, lao động thất
nghiệp... Nói chung, hiệu quả của gói
kích cầu của Chính phủ phải đến
được tới từng người dân, không phân
biệt giàu nghèo, đối tượng.
- Kích cầu cần được triển khai đồng
bộ trên cả 2 giác độ sản xuất và tiêu
dùng. Sản xuất và dịch vụ làm tăng
cung sản phẩm, còn tiêu dùng lại làm
tăng cầu hàng hóa và dịch vụ. Ở Việt
Nam, vai trò của sản xuất và tiêu
dùng trong GDP rất quan trọng, nên
muốn tăng trưởng kinh tế bền vững
nhất thiết phải quan tâm đến cả 2 mặt
sản xuất và tiêu dùng.
- Kích cầu mang tính ngắn hạn nên
cần phải phát huy tác dụng nhanh, do
đó cần quan tâm đến tiêu chí thời
gian dự án. Những dự án kích cầu
cần thời gian triển khai càng dài thì ý
nghĩa, tác dụng của kích cầu càng
giảm.
2. Một số giải pháp đối với kích cầu
đầu tư và kích cầu tiêu dùng ở Việt
Nam hiện nay
a) Về kích cầu đầu tư
Giải quyết bài toán nâng cao hiệu quả
sử dụng vốn đầu tư cần được coi là
nhiệm vụ vừa cấp bách vừa là chiến
lược đối với nền kinh tế Việt Nam
trong thời gian tới. Cần phải tập trung
mọi nguồn lực tài chính của Chính
phủ để thúc đẩy sản xuất, kinh doanh,
duy trì nền kinh tế phát triển ổn định.
Đồng thời, phải tăng cường kiểm tra,
giám sát chặt chẽ để tránh tình trạng
chi sai mục tiêu, đối tượng sử dụng,
gây lãng phí các nguồn lực. Trong
kích cầu đầu tư, nguồn tiền sẽ được
trích từ ngân sách nhà nước về xây
dựng cơ bản hàng năm, trái phiếu
Chính phủ và vốn ODA. Chính phủ đã
cho phép hoãn thu hồi 3.383,7 tỉ đồng
vốn ngân sách đã ứng những năm
trước và cho phép thực hiện 7.700 tỉ
đồng trái phiếu chính phủ chưa thực
hiện năm 2008. Số vốn trái phiếu đã
thông báo sẽ phát hành năm 2009 là
36.000 tỉ đồng, đồng thời tiếp tục trình
Quốc hội xin phát hành thêm khoảng
15.000 – 20.000 tỉ đồng trong năm
2009. Số trái phiếu Chính phủ bằng
ngoại tệ đợt 1 đã phát hành là 300
triệu USD trên thị trường vốn trong
nước. Ngoài nguồn vốn của các
doanh nghiệp trong nước, cần tăng
cường thu hút các nguồn vốn đầu tư
nước ngoài để thực hiện giải pháp
kích cầu. Các nguồn tài chính dành
cho kích cầu đầu tư cần được sử
dụng hỗ trợ các doanh nghiệp thuộc
các thành phần kinh tế phát triển sản
xuất và mở rộng dịch vụ. Tập trung
nguồn lực quan trọng nhất để đầu tư
cho các ngành kinh tế, các doanh
nghiệp, các hộ sản xuất, kinh doanh
dịch vụ chất lượng cao. Đặc biệt là
phải ưu tiên nguồn lực cho xuất
khẩu, nhất là khi nước ta đang ở
trong giai đoạn nhập siêu.
+ Cần phải có một chính sách điều
hành tỷ giá linh hoạt. Trong cơ chế thị
trường mở, điều tiết nền kinh tế có 3
yếu tố quan trọng: giá cả hàng hóa,
dịch vụ, tỷ giá và lãi suất, không thể
xem nhẹ yếu tố nào. Nhưng một nền
kinh tế mở cửa càng gắn bó với thị
trường thế giới thì tỷ giá càng quan
trọng. Nếu cố định tỷ giá, làm tê liệt
công cụ điều tiết thị trường, thì tác hại
của nó là khôn lường. Một chính sách
điều hành tỷ giá linh hoạt thực chất là
một chính sách để cho các yếu tố của
cơ chế thị trường tự động điều tiết
nền kinh tế, chính phủ chỉ can thiệp
để giảm bớt mực độ thái quá của
chúng [3].
+ Đẩy mạnh việc thực hiện lãi suất
4% đối với các doanh nghiệp thông
qua Ngân hàng Thương mại. Bản
chất của việc bù lãi suất là sử dụng
công cụ tài khóa để thực hiện chính
sách tiền tệ. Số tiền bù chênh lệch
được lấy từ ngân sách, được Ngân
hàng Nhà nước triển khai qua hệ
Trần Đình Tuấn Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 58(10): 14 - 20
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
thống Ngân hàng Thương mại. Theo
số liệu đăng ký kế hoạch giải ngân
vốn vay được hỗ trợ lãi suất trong
tháng 2 và 3/2009 của các Ngân hàng
Thương mại khoảng 400.000 tỉ đồng,
số vốn này sẽ ngày càng tăng thêm.
Hỗ trợ vốn vay trong chương trình
kích cầu cần ưu tiên cho các doanh
nghiệp vừa và nhỏ, doanh nghiệp tư
nhân để tạo thêm nhiều việc làm cho
nhiều lao động đang thất nghiệp do
khủng hoảng kinh tế gây ra (khoảng
600 nghìn người) và lao động dư
thừa ở nông thôn. Việc thực hiện kích
cầu lãi suất thông qua hệ thống Ngân
hàng Thương mại cần phải có một
thiết chế ngân hàng và tài chính lành
mạnh, thông thoáng, đủ rõ ràng. Thực
tế cho thấy rằng, thiết chế ngân hàng,
tài chính của các nước đang lâm vào
khủng hoảng nếu thiếu những yếu tố
trên sẽ không có khả năng kiểm soát
và bị bộ máy chính trị can thiệp quá
mức vào hoạt động ngân hàng với
những quan hệ mờ ám. Tam giác lợi
ích: Các quan chức lãnh đạo - Các
ngân hàng - Các công ty “liên kết” lợi
ích với nhau làm cho thiết chế ngân
hàng tài chính của các nước này trở
nên hư hỏng. Những quan hệ móc
ngoặc, hối lộ, những chỉ thị ngầm để
được vay vốn và đầu tư ưu đãi là
những ung nhọt trong hệ thống ngân
hàng và tài chính Châu Á. Đây cũng
là một trong những nguyên nhân làm
cho hệ thống ngân hàng và tài chính
của các nước Châu Á khó điều chỉnh
linh hoạt theo những thay đổi mới của
thị trường [2].
+ Tăng cường và ưu tiên kích cầu cho
khu vực nông nghiệp, nông thôn bao
gồm cả đầu tư trực tiếp và đầu tư
gián tiếp thông qua hỗ trợ lãi suất tín
dụng. Đây là một khu vực rộng lớn cả
về sản xuất, dân cư và thị trường.
Thực tế cho thấy, vừa qua khu vực
này chịu ảnh hưởng ít nhất của khủng
hoảng kinh tế và vẫn đang có sự tăng
trưởng. Nông nghiệp cung cấp các
nhu yếu phẩm hàng ngày cho con
người, vì vậy đầu tư vào khu vực này
có hiệu quả sẽ có ảnh hưởng rộng
đến các ngành kinh tế khác và cả xã
hội. Ưu tiên phát triển nông nghiệp và
nông thôn có ý nghĩa vô cùng quan
trọng trong việc giảm nghèo, đầu tư
vào khu vực này vừa nhằm thực hiện
tinh thần Nghị quyết Trung ương 7
khóa X về nông nghiệp, nông dân và
nông thôn; thực hiện Chương trình
giảm nghèo nhanh và bền vững tại 61
huyện nghèo đang được triển khai
tích cực; vừa nhằm mục tiêu tăng
nhanh nông sản hàng hóa phục vụ
cho tiêu dùng trong nước và cho xuất
khẩu. Trong 6 tháng đầu năm 2009,
Việt Nam đã xuất khẩu được gần 3,5
triệu tấn gạo đem lại nguồn thu hơn
1,5 tỷ USD. Với xu hướng này, Việt
Nam có thể xuất khẩu 5 triệu tấn gạo
trong năm 2009. Nhưng cũng cần có
chính sách quản lý xuất khẩu gạo để
chống phá giá gạo xuất khẩu. Ngoài
gạo, các mặt hàng nông sản có thế
mạnh của nước ta cũng cần phải
được đầu tư để mở rộng thêm thị
trường xuất khẩu. Đồng thời, phải
khẩn trương ban hành chính sách hỗ
trợ xúc tiến thương mại, hỗ trợ xuất
khẩu, kiểm tra chặt chẽ nhập siêu, có
chính sách phù hợp để khuyến khích
sản xuất và tiêu dùng trong nước.
Hiện nay, lúa là cây lương thực chiếm
tới 60% diện tích đất nông nghiệp,
cần phải có chiến lược cho nông dân
thực hiện đa dạng hóa sản xuất để
tăng thu nhập và giảm bớt khả năng
dễ bị tổn thương do biến động của thị
trường.
Sản xuất nông nghiệp hiện nay, khi tư
liệu sản xuất quan trọng là đất đai
đang bị thu hẹp, nhường chỗ cho các
dự án công nghiệp, dịch vụ thì việc
phát triển du lịch nông thôn tại những
địa phương có nhiều tiềm năng du
lịch cần được quan tâm hơn để góp
phần giải quyết việc làm, tạo nguồn
thu nhập từ dịch vụ cho nông dân.
Trần Đình Tuấn Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 58(10): 14 - 20
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
Phát triển dịch vụ nói chung và du lịch
nông thôn nói riêng ở nước ta có vai
trò quan trọng để tăng trưởng kinh tế,
tạo nhiều việc làm mới ở nông thôn.
Dự kiến những ngành này sẽ tăng
trưởng GDP 14% mỗi năm vào năm
2010 (so với 4% của nông nghiệp); tỷ
lệ của những ngành này trong tổng
việc làm ở nông thôn sẽ tăng từ 14%
năm 2000 lên đến 28% năm 2010, tạo
ra khoảng 400.000 việc làm trực tiếp
mỗi năm và hàng trăm ngàn việc làm
gián tiếp do hiệu ứng của du lịch nông
thôn [6]. Thực hiện được mục tiêu
trên sẽ góp phần xóa đói, giảm nghèo
và chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo
hướng sản xuất hàng hóa và phát
triển nông thôn mới.
b) Về kích cầu tiêu dùng
Cùng với kích cầu đầu tư, kích cầu
tiêu dùng cũng là nhóm giải pháp rất
quan trọng để hạn chế ảnh hưởng
của suy thoái kinh tế. Ở các nước
khác nhau, kích cầu tiêu dùng được
thực hiện bằng các giải pháp khác
nhau rất đa dạng. Thường được thực
hiện bằng việc miễn giảm thuế cho
người nghèo, bồi hoàn thuế thu nhập
cá nhân; giảm giá hàng tiêu dùng
hoặc trợ giá hàng hóa, dịch vụ, du
lịch, vui chơi giải trí...; cho người
nghèo vay mua nhà trả góp với lãi
suất ưu đãi... Ở Việt Nam, Chính phủ
đã sử dụng cả chính sách tài khóa và
chính sách tiền tệ để kích thích tăng
trưởng, phòng ngừa sụt giảm kinh tế.
Trong phạm vi của chính sách tài
khóa, kích cầu tiêu dùng nội địa là
biện pháp quan trọng hàng đầu. Tăng
cường thị trường nội địa vừa đáp ứng
nhu cầu tiêu dùng của người dân
trong nước, vừa góp phần làm giảm
áp lực nhập khẩu hàng tiêu dùng, góp
phần cân bằng cán cân thương mại.
Để tăng sức mua trong nước, Chính
phủ đã quyết định giảm 50% thuế
VAT cho 19 nhóm mặt hàng và hoãn
thuế thu nhập cá nhân trong 5 tháng
đầu năm 2009, tăng mức lương tối
thiểu... [6]. Tuy nhiên sức cầu tiêu
dùng của dân cư đang ở mức thấp vì
tâm lý lo ngại về suy thoái kinh tế dẫn
đến việc người dân lưu giữ các tài
sản có giá, tiết kiệm chi tiêu làm cho
sức mua trên thị trường dù có tăng
nhưng mức tăng rất thấp. Vì vậy, kích
cầu tiêu dùng ở nước ta hiện nay vẫn
cần phải tìm ra các giải pháp thích
hợp.
+ Kích thích tiêu dùng nội địa: Trong
khi thị trường xuất khẩu giảm sút, cần
tiếp tục đẩy mạnh sức mua trên thị
trường nội địa bằng các biện pháp
như phát triển mạng lưới phân phối,
mở rộng hệ thống bán lẻ hàng hóa
dịch vụ. Tăng cường các biện pháp
quản lý thị trường, giá cả, chất lượng
hàng hóa, chống đầu cơ, độc quyền.
Tiếp tục cơ chế điều hành giá với một
số mặt hàng thiết yếu như điện, than,
xăng dầu, nước sạch, phân bón, sắt
thép, xi măng, thuốc chữa bệnh...
Ngăn chặn tình trạng tăng giá dây
chuyền ảnh hưởng tới sản xuất, kinh
doanh và đời sống của nhân dân.
Khuyến khích các doanh nghiệp giảm
giá hàng hóa và dịch vụ... để kích cầu
tiêu dùng.
+ Cần nghiên cứu miễn hoặc lùi thời
gian nộp thuế thu nhập cho các
doanh nghiệp; lùi thêm thời hạn thực
hiện thuế thu nhập cá nhân; tiếp tục
thực hiện việc miễn giảm thuế VAT
đối với một số hàng hóa, dịch vụ sản
xuất trong nước. Biện pháp này có
thể làm giảm nguồn thu của ngân
sách, nhưng lại có tác dụng kích thích
sản xuất và tăng sức mua, vì sức
mua của người dân phụ thuộc vào thu
nhập của họ. Giảm thuế có tác dụng
tương tự như việc tăng một phần thu
nhập cho người lao động.
+ Cần tiếp tục phát triển thêm thị
trường xuất khẩu cho những mặt
hàng có thế mạnh của Việt Nam như
hàng nông sản, hàng dệt may, giày
dép, thiết bị điện tử... Để đạt được
mục tiêu trên có thể thực hiện các
vấn đề như: chính sách điều hành tỷ
giá linh hoạt, có lợi cho hoạt động
Trần Đình Tuấn Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 58(10): 14 - 20
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
xuất khẩu; chính sách hỗ trợ tín dụng
cho xuất khẩu, hỗ trợ chi phí xuất
khẩu, đa dạng hóa cơ cấu thị trường
xuất - nhập khẩu và cải thiện cơ cấu
mặt hàng xuất - nhập khẩu...
+ Thường xuyên cập nhật thông tin,
tình hình trong và ngoài nước, kịp thời
có những đánh giá và dự báo chính
xác tình hình trong và ngoài nước để
điều chỉnh hệ thống chính sách phù
hợp với tình hình cụ thể và có những
bước đi thích hợp.
Một số giải pháp kích cầu sản xuất
và tiêu dùng ở tỉnh Thái Nguyên
Thái Nguyên là một tỉnh thuộc trung
du miền núi phía Bắc, trung tâm của
tỉnh là thành phố Thái Nguyên nằm
cách Thủ đô Hà Nội 80km về phía
Bắc. Diện tích tự nhiên của tỉnh là
353.435,2 ha, trong đó đất nông
nghiệp là 276.197,07 ha chiếm
78,15%. Dân số năm 2008 là
1.150.000 người [1]. Với điều kiện về
địa lý và tài nguyên của tỉnh Thái
Nguyên cần tăng cường đẩy mạnh
chuyển dịch cơ cấu kinh theo hướng
công nghiệp, xây dựng cơ bản -
thương mại, dịch vụ - nông lâm
nghiệp. Để thực hiện kích cầu đầu tư
và tiêu dùng, ổn định và phát triển
kinh tế - xã hội cho tỉnh Thái Nguyên
trong thời gian tới, chúng tôi xin đề
xuất một số giải pháp sau:
(1) Về công nghiệp và đầu tư xây
dựng cơ bản: Cần tiếp tục đẩy mạnh
việc xúc tiến đầu tư để thu hút các
doanh nghiệp, doanh nhân ở trong và
ngoài nước đầu tư vào sản xuất công
nghiệp, xây dựng và thương mại. Tập
trung đẩy mạnh việc triển khai lập và
thực hiện quy hoạch các khu cụm
công nghiệp của tỉnh, đặc biệt là các
khu công nghiệp Nam Phổ Yên, Tây
Phổ Yên – Điềm Thụy (Phú Bình) và
khu công nghiệp Yên Bình; lập quy
hoạch để xây dựng một số khu đô thị
mới vừa để thực hiện việc tái định cư
khi giải phóng mặt bằng thực hiện quy
hoạch mới, vừa thực hiện mục tiêu
xây dựng các khu trung tâm kinh tế -
xã hội cho địa phương. Phát triển các
làng nghề truyền thống để giải quyết
vấn đề lao động dư thừa ở nông thôn.
Duy trì tốc độ tăng trưởng cao, nâng
cao hàm lượng khoa học công nghệ
trong sản phẩm, giảm chi phí trung
gian để tăng khả năng cạnh tranh của
các sản phẩm hàng hóa sản xuất trên
địa bàn tỉnh, đồng thời giữ vững và
mở rộng thị trường tiêu thụ. Phấn đấu
để mức tăng trưởng ngành công
nghiệp, xây dựng hàng năm đạt được
trên 15% như kế hoạch đã đặt ra [5].
(2) Về nông, lâm nghiệp, thủy sản:
Cần thực hiện việc duy trì tốc độ tăng
trưởng ổn định và bền vững ngành
nông, lâm nghiệp, thủy sản. Tiếp tục
phát triển hệ thống hạ tầng hiện đang
rất yếu kém phục vụ sản xuất và đời
sống cho khu vực nông thôn. Đẩy
mạnh việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế
nông nghiệp và tiêu thụ sản phẩm
trong nông nghiệp, trong đó chú trọng
tăng các giống vật nuôi, cây trồng có
giá trị kinh tế cao, ứng dụng khoa học
công nghệ vào sản xuất [5]. Thực
hiện việc hỗ trợ công nghệ bảo quản
chế biến nông sản sau thu hoạch
nhằm nâng cao giá trị nông sản. Xin
đề xuất một số vấn đề sau:
* Tỉnh Thái Nguyên với thế mạnh là
cây chè, đây là loại sản phẩm có
thương hiệu ở thị trường trong nước
và nước ngoài. Theo số liệu thống kê
năm 2008, diện tích cây chè tỉnh Thái
Nguyên có 17.737ha, sản lượng đạt
149.250 tấn. Sản lượng xuất khẩu
hiện nay sang các thị trường Nhật
Bản, Trung Quốc, Hàn Quốc, Nga...
năm 2008 đạt 5,2 nghìn tấn thu gần
10 triệu USD [1]. Tỉnh Thái Nguyên
cần có chính sách để đẩy mạnh đầu
tư phát triển chè sạch; xây dựng các
mô hình đồi chè có thu nhập 80 triệu,
100 triệu đồng/ha. Có thể kết hợp
việc tổ chức sản xuất chè sạch với
du lịch sinh thái nông thôn, mục đích
vừa tạo thêm thu nhập từ việc cung
cấp dịch vụ, vừa là hình thức quảng
cáo rất thiết thực cho việc tiêu thụ
Trần Đình Tuấn Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 58(10): 14 - 20
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
sản phẩm, đặc biệt có hiệu quả về
mặt xã hội.
*Thái Nguyên với số lượng dân số
thường xuyên có trên 1 triệu người
sinh sống, đối tượng là HSSV, lực
lượng vũ trang và lao động ở các khu
công nghiệp, chủ yếu lại sống tập
trung ở khu vực thành phố Thái
Nguyên và các huyện phía Nam của
tỉnh. Dân số tập trung tại một khu vực
như vậy nên nhu cầu về các loại sản
phẩm phục vụ cho cuộc sống hàng
ngày như lương thực và đặc biệt là
thực phẩm hàng ngày đều rất lớn.
Hiện tại Thái Nguyên vẫn đang phải
nhập khẩu một khối lượng thực phẩm
rất lớn từ Trung Quốc và từ các tỉnh
khác đến. Với đặc điểm như trên,
phương hướng sản xuất của tỉnh Thái
Nguyên không phải là tập trung sản
xuất lương thực tập trung sản xuất
các loại cây trồng, vật nuôi nhằm đáp
ứng nhu cầu thực phẩm tại chỗ và
xuất khẩu. Để thực hiện được
phương hướng trên, tỉnh cần có quy
hoạch sử dụng diện tích đất nông
nghiệp như sau: Ở các huyện vùng
cao của tỉnh như Võ Nhai, Định Hóa,
Phú Lương, Đại Từ có thể quy hoạch
sử dụng theo thế mạnh của từng địa
phương. Thành phố Thái Nguyên, thị
xã Sông Công và các huyện Phú
Bình, Phổ Yên, Đồng Hỷ, một số xã
phía Nam huyện Phú Lương, Đại Từ,
ngoài diện tích trồng cây công nghiệp
dài ngày (mà chủ yếu là cây chè và
cây ăn quả), các diện tích ngập nước
có thể trồng lúa để cung cấp lương
thực tại chỗ; còn lại những diện tích
ít ngập nước nên tập trung trồng cây
thực phẩm (các loại rau, củ, quả) an
toàn, các loại cây công nghiệp ngắn
ngày (lạc, đậu các loại) và trồng hoa,
cây cảnh. Các loại sản phẩm này sẽ
đáp ứng được nhu cầu rất lớn cho
khu vực thành phố Thái Nguyên, thị
xã Sông Công, các khu công nghiệp
của tỉnh Thái Nguyên..., giảm được
việc nhập khẩu thực phẩm từ bên
ngoài đồng thời còn có thể cung cấp
cho thành phố Hà Nội và các khu
công nghiệp của tỉnh Vĩnh Phúc...
(3) Về thương mại, du lịch và dịch vụ:
Tỉnh Thái Nguyên có vị trí thuận lợi là
gần thủ đô Hà Nội lại là cửa ngõ của
các tỉnh phía Bắc về Hà Nội, Thái
Nguyên lại được mệnh danh là “Thủ
đô kháng chiến của cách mạng Việt
Nam” vì vậy có thể đẩy mạnh phát
triển du lịch, dịch vụ. Hiện nay ở tỉnh
Thái Nguyên có một số địa danh để
phát triển du lịch như: khu “An toàn
khu” (huyện Định Hóa), khu du lịch Hồ
Núi Cốc, khu du lịch hang Phượng
Hoàng, Tràng Xá – nơi thành lập Đội
cứu quốc quân II (huyện Võ Nhai),
khu vực vùng đệm Vườn Quốc gia
Tam Đảo (huyện Đại Từ và Phổ
Yên) Tiềm năng cho vấn đề phát
triển du lịch nông thôn của tỉnh rất
lớn, nhưng các điểm du lịch này hiện
tại rất nghèo nàn, ít chỗ để du khách
thăm quan, vui chơi, giải trí; cơ sở hạ
tầng, dịch vụ phục vụ kém, trang thiết
bị lạc hậu vì vậy không thu hút được
du khách, hoặc khách chỉ đến một lần
là thôi. Tỉnh Thái Nguyên cần tăng
cường đầu tư cho các điểm du lịch
trên tạo thành một quần thể du lịch
gồm “An toàn khu” – “Hồ Núi Cốc” –
“Hang Phượng Hoàng - Tràng Xá” –
Vùng đệm Vườn Quốc gia Tam Đảo
để thu hút du khách trong và ngoài
nước đến thăm quan, nghỉ mát, vui
chơi... Đó cũng là giải pháp đẩy mạnh
phát triển ngành thương mại, du lịch
và dịch vụ của tỉnh Thái Nguyên. Đi
đôi với đầu tư cho du lịch, cũng cần
phải tăng cường đầu tư và có những
chính sách để phát triển mạnh ngành
thương mại, dịch vụ. Cần xác định rõ
nội dung chủ yếu để khai thác tài
nguyên du lịch trên địa bàn nông
thôn là du lịch sinh thái, du lịch văn
hóa với các phương thức đa dạng
hóa chủ thể tham gia. Tài nguyên du
lịch nông thôn sẽ được
khai thác để tổ chức các loại hình du
lịch mới, gắn kết các chương trình du
lịch hiện có với các sản phẩm và dịch
vụ mới. Nâng cao chất lượng các dịch
Trần Đình Tuấn Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 58(10): 14 - 20
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
vụ phục vụ tối đa nhu cầu của của du
khách.
Thực hiện giải pháp đề xuất trên sẽ
góp phần chống suy thoái và phát
triển kinh tế - xã hội cho tỉnh Thái
Nguyên cả trước mắt cũng như lâu
dài.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1].Cục Thống kê tỉnh Thái Nguyên
(2008), Niên giám thống kê năm
2008.
[2].Ngân hàng thế giới (2001), Việt
Nam tiến vào thế kỷ 21 - Các trụ cột
của sự phát triển, Trung tâm Thông
tin Phát triển Việt Nam, Hà Nội.
[3].Trung tâm Khoa học xã hội và
nhân văn quốc gia (1999), Khủng
hoảng tài chính tiền tệ: Đặc trưng và
các chỉ số báo động, Viện thông tin
khoa học xã hội, Hà Nội.
[4].Trần Đình Tuấn (2008), Huy động
và sử dụng các nguồn vốn tín dụng
đầu tư phát triển nông nghiệp, nông
thôn miền núi, Nxb Lao động - Xã hội,
Hà Nội.
[5].UBND tỉnh Thái Nguyên, Báo cáo
kết quả thực hiện nhiệm vụ kinh tế -
xã hội năm 2008 và phương hướng
nhiệm vụ năm 2009.
[6].www.tapchicongsan.org.vn
Trần Đình Tuấn Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 58(10): 14 - 20
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
SUMMARY
SEVERAL SOLUTIONS TO PROMOTE THE DEMANDS OF ECONOMICS IN VIET
NAM AT THE CURRENT TIME AND APPLY IN THE REALITY SITUATION OF THAI
NGUYEN PROVINCE
Tran Dinh Tuan*
Thai Nguyen University of Economics and Business administration
Recession of the world created negative impacts on export, capital and service
ativitiies in our country. Within the country, high inflation and deflation of industry
and construction in the end of 2008 until the beginning of 2009 made our
economy have to face more troubles and challenges. Hence, the burning issue is
to find some urgent solutions in order to prevent economic deflation, keep
economic growth, ensure social sercurity for every local in particular and for the
whole economy in general. The writter propose some solutions to increase
investment and consumption for the whole country generally and for Thai Nguyen
province particularly so as to achieve the aim of economic growth.
Key word: Some solutions develop demands of Vietnam in the period of global
economic crisis
* Tran Dinh Tuan, Tel:0912039920,Email:
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- mot_so_giai_phap_kich_cau_o_nuoc_ta_hien_nay_lien_he_voi_thu.pdf