Tóm lại, đọc hiểu VB là một trong những NL cần có của một người công dân,
có vai trò to lớn trong sự phát triển của mỗi cá nhân con người và giao tiếp xã hội. Ban
đầu là học để đọc và sau đó là đọc để học. Không có NL đọc hiểu, chúng ta sẽ khó có
thể học suốt đời, thậm chí khó có thể tồn tại trong một xã hội phát triển. Để làm
được điều đó, cần đổi mới toàn diện các yếu tố để DH đọc hiểu VB ở nhà trường
phổ thông của nước ta trong thời gian tới đáp ứng được yêu cầu của thực tiễn và bắt
kịp với xu thế quốc tế.
Bạn đang xem nội dung tài liệu Một số đề xuất để đổi mới dạy học đọc hiểu văn bản trong nhà trường phổ thông, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tạp chí KHOA HỌC ĐHSP TPHCM Số 56 năm 2014
_____________________________________________________________________________________________________________
166
MỘT SỐ ĐỀ XUẤT ĐỂ ĐỔI MỚI DẠY HỌC
ĐỌC HIỂU VĂN BẢN TRONG NHÀ TRƯỜNG PHỔ THÔNG
PHẠM THỊ THU HIỀN*
TÓM TẮT
Để dạy học đọc hiểu văn bản ở trường phổ thông Việt Nam trong thời gian tới đáp ứng
được yêu cầu của thực tiễn và bắt kịp với xu thế quốc tế, cần đổi mới đồng bộ các yếu tố: mục
tiêu của dạy học đọc hiểu, chuẩn đọc hiểu, văn bản đọc hiểu, phương pháp dạy học đọc hiểu
và cách đánh giá kết quả đọc hiểu. Cần tham khảo cách làm của một số quốc gia có nền GD
tiên tiến trên thế giới để đổi mới dạy học đọc hiểu trong nhà trường phổ thông một cách có
hiệu quả.
Từ khóa: đổi mới, đọc hiểu, văn bản, mục tiêu, chuẩn, phương pháp dạy học, đánh giá
kết quả.
ABSTRACT
Some Suggestions to the Innovation of Reading-Comprehension Teaching
in Elementary and Secondary Schools
In order for activities of reading-comprehension teaching in Vietnam to meet the
requirements of reality and to catch up with international trends, the following elements must
be synchronously innovated: the teaching goals, the standards and reading texts, and the
methods of teaching and assessment. It is necessary to consult to the way the countries with
advanced education systems have effectively innovated the methods of teaching reading
comprehension.
Keywords: innovation, reading, text, goals, standards, teaching methods, assessment.
Đọc hiểu văn bản (VB) là nội dung
chính, trọng tâm của Chương trình giáo
dục phổ thông môn Ngữ văn1 hiện hành ở
Việt Nam. Tuy nhiên, những tài liệu mang
tính chất lí thuyết về dạy học (DH) đọc
hiểu VB mới chỉ dừng lại ở những định
hướng chung, chưa toàn diện, chưa nêu
được những phương pháp (PP) cụ thể.
Nhiều giáo viên (GV) đứng lớp chưa hiểu
được bản chất của DH đọc hiểu khiến cho
phương pháp dạy học (PPDH) của họ còn
nhiều lúng túng. Hơn nữa, VB đọc hiểu
trong nhà trường hiện nay chủ yếu vẫn là
những văn bản văn học (VBVH), nên
nhiều giờ dạy của GV vẫn thiên về “giảng
văn” – một cách làm hiện nay không còn
phù hợp nữa. Vì vậy, cần phải đổi mới DH
đọc hiểu VB trong nhà trường phổ thông
của nước ta để đáp ứng được yêu cầu của
thực tiễn và bắt kịp với xu thế quốc tế.
1. Đổi mới mục tiêu dạy học đọc hiểu
văn bản
CT Ngữ văn hiện hành của Việt Nam
hướng đến mục tiêu “cung cấp cho học
sinh những kiến thức phổ thông, cơ bản,
hiện đại, có tính hệ thống về ngôn ngữ
(trọng tâm là tiếng Việt) và văn học (trọng
tâm là văn học Việt Nam)”, “hình thành và
phát triển ở học sinh các năng lực sử dụng
tiếng Việt, tiếp nhận văn học, cảm thụ
thẩm mĩ”. Đó là mục tiêu của CT được xây
dựng theo định hướng nội dung, chú trọng
* ThS, Vụ Giáo dục Trung học,
Bộ Giáo dục & Đào tạo
Tạp chí KHOA HỌC ĐHSP TPHCM Phạm Thị Thu Hiền
_____________________________________________________________________________________________________________
167
việc cung cấp kiến thức cho HS.
Trong thời gian tới, mục tiêu này cần
điều chỉnh cho phù hợp với thực tiễn GD
của đất nước và xu thế quốc tế. Song, mục
tiêu phải phù hợp với cách tiếp cận CT. Vì
thế, CT môn Ngữ văn mới cần được xây
dựng “theo định hướng hướng phát triển
năng lực học sinh” như “Chiến lược phát
triển giáo dục 2011-2020” đã xác định.
Theo đó, CT sẽ tập trung vào xác định các
lĩnh vực kĩ năng ngôn ngữ cần hình thành
và bồi dưỡng cho HS phổ thông (như nghe,
nói, đọc, viết, quan sát, trình bày) để
phát triển năng lực (NL) giao tiếp bằng
ngôn ngữ cho các em. Với mỗi lĩnh vực,
CT cần đề ra mục tiêu cụ thể để từ đó cụ
thể hóa thành những chuẩn kiến thức và kĩ
năng mà HS cần đạt được ở mỗi cấp/lớp cụ
thể.
Riêng về lĩnh vực kĩ năng đọc, CT
Ngữ văn mới cần đặc biệt coi trọng đọc
hiểu VB. Theo chúng tôi, mục tiêu của đọc
hiểu VB trong thời gian tới sẽ là hình thành
và bồi dưỡng những kĩ năng đọc cả hai loại
VBVH và văn bản thông tin (VBTT) lấy từ
nhiều nguồn khác nhau (in hoặc không in)
để giúp HS trở thành người có NL đọc,
đồng thời biết ứng dụng NL đó vào thực
tiễn học tập và sinh hoạt của bản thân.
Từ mục tiêu khái quát trên, cần cụ thể
hóa mục tiêu đọc hiểu từng loại VB.
Với VBTT, mục tiêu của đọc hiểu sẽ
là hình thành ở HS khả năng đọc đúng và
có phê phán với các VB được viết và trình
bày theo những hình thức và phương thức
khác nhau để tiếp nhận và xử lí thông tin
phục vụ cho giao tiếp hàng ngày, cho học
tập và lao động sản xuất, góp phần nâng
cao tri thức và kĩ năng sống của người học.
Với VBVH, mục tiêu của đọc hiểu sẽ
là hình thành ở HS năng lực cảm thụ,
thưởng thức văn học (gọi chung là NL tiếp
nhận văn học). Các NL này sẽ bồi dưỡng
và nâng cao vốn văn hóa cho người học
thông qua những hiểu biết về ngôn ngữ và
văn học. Từ đó mà giáo dục, hình thành và
phát triển cho HS những tư tưởng, tình cảm
nhân văn trong sáng, cao đẹp. Bởi văn học
là một di sản văn hóa vô cùng quý báu của
dân tộc ta, dạy học Văn trong nhà trường
phải góp phần giữ gìn và phát huy những
giá trị của di sản ấy.
Nhận thức về mục tiêu đọc hiểu VB
như trên sẽ tác động đến nhiều bình diện
khác của vấn đề đọc hiểu, trong đó, quan
trọng nhất là đối tượng đọc hiểu, chuẩn đọc
hiểu và PPDH đọc hiểu VB.
2. Đổi mới văn bản đọc hiểu
CT Ngữ văn hiện hành đã có đổi mới
về VB đọc hiểu so với những CT trước đây
bằng việc đưa vào các văn bản nhật dụng
(VBND). Các VB này xuất hiện nhiều
trong CT và sách giáo khoa (SGK) của bậc
tiểu học, lên bậc trung học cơ sở (THCS)
và trung học phổ thông (THPT), số lượng
các VB này ngày càng giảm. Vì thế, trong
quan niệm chung, học Ngữ văn vẫn là học
các tác phẩm văn học; đọc hiểu VB, chủ
yếu vẫn là đọc VBVH theo các thể loại
khác nhau.
Để đổi mới CT Ngữ văn theo hướng
phát triển NL học sinh và đáp ứng được
mục tiêu đọc hiểu như trên, cần thay đổi
quan niệm về VB đọc hiểu. Cụ thể là:
CT mới cần xác định VB đọc hiểu là
VBVH và VBTT. Rất cần thiết phải gia
tăng số lượng các VBTT để rèn luyện kĩ
năng đọc và tăng cường tính thiết thực, khả
năng ứng dụng kiến thức, kĩ năng đọc vào
đời sống; tạo hứng thú cho HS và phù hợp
với trình độ, khuynh hướng của các em.
CT mới không chỉ sử dụng các VB
Tạp chí KHOA HỌC ĐHSP TPHCM Số 56 năm 2014
_____________________________________________________________________________________________________________
168
thuần túy được viết bằng ngôn từ như hiện
nay mà cần đưa thêm các VB được trình
bày dưới dạng đồ họa, hình vẽ, biểu tượng,
kí hiệu, hình ảnh ở cả hai hình thức in và
kĩ thuật số.
CT không nên quy định nghiêm ngặt
các VB được đọc hiểu mà chỉ quy định các
thể loại của VB cũng như sự phân bố các
thể loại được đọc ở từng khối lớp cụ thể.
Đồng thời, cần xây dựng một danh sách
các VB được gợi ý lựa chọn làm đối tượng
đọc hiểu trong nhà trường, rồi đưa tài liệu
đó vào phụ lục. Nên xây dựng phụ lục VB
đọc hiểu cho từng cấp. Ở mỗi cấp sẽ có các
VB được gợi ý để các nhà viết SGK, các
GV và HS chọn lựa, phục vụ cho việc DH
đọc hiểu, phù hợp với đặc điểm của từng
đối tượng HS hoặc từng địa phương. Trong
các phụ lục về VB đọc hiểu, cần chú ý tính
đa dạng của các kiểu VB và các chủ đề nội
dung khác nhau thuộc nhiều lĩnh vực, tiến
tới biên soạn các tuyển tập VB đọc hiểu
theo các lĩnh vực/môn học như nhiều nước
trên thế giới đã làm, nhất là Hoa Kì.
Phương hướng tổ chức tài liệu phục vụ DH
đọc hiểu có thể là :
VB đọc hiểu cho kĩ năng đọc: tuyển
lựa theo thể loại văn học và kiểu VB, số
lượng không cần nhiều, ưu tiên chất
lượng VB. Các VB này chỉ là ngữ liệu
để dạy và học trên lớp nhằm hình thành
các kĩ năng giao tiếp và PP đọc hiểu, NL
tiếp nhận VB; không ra đề kiểm tra, đề
thi vào các VB này.
Bên cạnh sách học trên lớp, cần có
bộ sách văn tuyển cung cấp một số lượng
lớn các VB hoặc tác phẩm tương ứng với
mỗi thể loại đã học để HS luyện đọc ở nhà.
Có thể tham khảo thêm cách làm của
Hoa Kỳ như sau về việc lựa chọn VBVH.
Theo đó, “hệ thống chuẩn môn Ngữ văn
yêu cầu tất cả học sinh học những nội dung
quan trọng như: các truyền thuyết và
truyện cổ điển trên thế giới, các văn bản
giai đoạn lập quốc của Mỹ, những tác
phẩm quan trọng của văn học Mỹ và
Shakespeare. Các nội dung còn lại do các
bang và địa phương quyết định”2. Ở bang
California (Hoa Kì), đi kèm với SGK văn
học, là bộ tuyển tập “Văn học dành cho lứa
tuổi từ mẫu giáo lớn đến lớp 12”, theo đó HS
lớp 8 phải đọc 1 triệu từ/ năm, HS lớp
11&12 phải đọc 2 triệu từ/năm bao gồm một
số lượng lớn tác phẩm cổ điển và hiện đại3.
Đối với VBTT, cần tham khảo việc
lựa chọn các VB thuộc loại này trong CT
của Singapore, Hàn Quốc, Hoa Kì... Điểm
chung của các quốc gia này là đều đưa vào
CT các bài viết hay bài phát biểu, nói
chuyện, bản tiểu sử, bài báo, văn bản lịch
sử, khoa học Đặc biệt, do tính chất thời
sự của các VB này, CT nên có độ “mở”
cho việc cập nhật các VB mới về chủ đề,
đề tài.
Ngoài ra, nên quy định các đối tượng
đọc hiểu, nhất là các VB trong CT môn
Ngữ văn, phải là những VB hoàn chỉnh, là
một chỉnh thể độc lập. Đối với HS nhỏ
tuổi, nên chọn các VB ngắn; với HS lớn,
nên đưa vào CT các VB dài hơn để HS có
cái nhìn hoàn chỉnh về VB. Không nên đưa
vào quá nhiều VB, chạy theo số lượng mà
chỉ nên chọn những VB tiêu biểu, điển
hình cho từng cụm thể loại. Tùy vào mục
đích của bài đọc mà GV chọn lựa, hướng
dẫn HS đọc hiểu cả VB hay đi sâu vào
những đoạn tiêu biểu, song dứt khoát phải
cho HS tiếp cận với toàn bộ VB. Tất cả các
VB được chọn, bên cạnh những VB có từ
lâu đời, tiêu biểu cho đặc trưng thể loại (là
những tác phẩm kinh điển), cần đưa vào
những VB phù hợp với tâm sinh lí lứa tuổi
Tạp chí KHOA HỌC ĐHSP TPHCM Phạm Thị Thu Hiền
_____________________________________________________________________________________________________________
169
và chuẩn kiến thức, kĩ năng đặt ra đối với
HS.
Đặc biệt, để xác định một chiến lược
đúng đắn nhằm cải thiện chất lượng dạy
học Ngữ văn trong nhà trường phổ thông,
cần chuẩn bị và tiến hành đồng bộ ở tất cả
các yếu tố của quá trình DH; không những
thế còn phải chú ý đến mối quan hệ của
môn Ngữ văn với toàn bộ các môn học và
các hoạt động GD khác trong nhà trường
cũng như gia đình và ngoài xã hội.
Trong nhà trường phổ thông của Việt
Nam, tiếng Việt là công cụ giao tiếp nói
chung và là phương tiện học tập ở tất cả
các môn học. Môn học nào cũng cần phải
sử dụng tiếng Việt theo quy tắc chung và
yêu cầu đặc thù của mỗi môn học (hệ thống
thuật ngữ, khái niệm, cách diễn đạt, mô
tả). Nhưng việc rèn luyện kĩ năng đọc,
viết, nghe, nói của HS ở Việt Nam lâu
nay chỉ được coi là trách nhiệm của các
giáo viên Ngữ văn. Theo tác giả Bùi Mạnh
Hùng, “Chương trình của Việt Nam sắp
đến cần trao thêm trách nhiệm này cho
giáo viên các bộ môn khác như Lịch sử,
Địa lí, Giáo dục công dân, Khoa học.
Chính qua việc rèn luyện đọc, viết, nghe,
nói, giáo viên những bộ môn nói trên sẽ
giúp học sinh nắm tốt hơn những kiến thức
khoa học hữu quan. Và kéo theo đó là yêu
cầu trong chương trình đào tạo giáo viên
các bộ môn đều phải có môn dạy tiếng mẹ
đẻ trong học thuật và môn đào tạo giáo
viên dạy đọc, viết, nghe, nói trong lĩnh vực
bộ môn của mình, điều mà chương trình
đào tạo giáo viên của Mỹ đã làm từ lâu”
(Tlđd). Cụ thể hơn, khi làm lại chương
trình giáo dục phổ thông (CTGDPT), cần
đưa vào CT tổng quát cũng như CT các
môn học yêu cầu về sử dụng tiếng Việt và
việc kiểm tra, đánh giá khả năng sử dụng
tiếng Việt trong những môn học này.
Trong tất cả các môn học/hoạt động
GD, HS đều phải sử dụng các kĩ năng
nghe, nói, đọc, viết, quan sát, trình bày,
để học tập. Trong đó, kĩ năng đọc (đọc
SGK, đọc tài liệu tham khảo) được coi là
kĩ năng quan trọng bậc nhất. Để giúp cho
HS tiến bộ trong học tập, giáo viên ở các
môn học khác không nên chỉ dạy kiến thức
mà còn phải có trách nhiệm rèn luyện cho
HS kĩ năng đọc để lĩnh hội tri thức trong
những lĩnh vực mà môn học đó đề cập đến.
Vì vậy, VB đọc hiểu ở nhà trường
phổ thông trong thời gian tới sẽ không chỉ
là những VB trong CT và SGK môn Ngữ
văn mà còn là những VB trong CT và SGK
của các môn học khác. Như thế, đọc hiểu
sẽ là một hoạt động được thực hiện ở hầu
hết các môn học, nhưng ở mỗi môn, yêu
cầu đọc hiểu VB có những đặc điểm riêng.
Về vấn đề này, nên tham khảo cách làm
của Hoa Kì4. Tuy nhiên, cần lưu ý rằng
Hoa Kì là quốc gia đi đầu trong việc đưa ra
những yêu cầu của việc đọc hiểu VB ở các
môn học khác, song không phải HS ở tất cả
các cấp từ Tiểu học đến THPT đều phải
đáp ứng yêu cầu này mà chỉ áp dụng cho
đối tượng HS từ THCS trở lên. Bởi vì, ở
tiểu học, “hàm lượng học thuật” của VB
chưa cao, nên chưa thật sự cần có kĩ năng
đọc những văn bản khoa học đặc thù. Sau
khi kết thúc giai đoạn Tiểu học, HS đã có
sự phát triển nhất định về NL đọc, hơn nữa,
môi trường học tập mới đòi hỏi phải vận
dụng NL đó vào thực tiễn học tập của các
em. Vì vậy, khi đổi mới CTGDPT của
nước ta trong thời gian tới, nếu có đưa
thêm yêu cầu về dạy đọc hiểu VB trong các
môn học khác ngoài Ngữ văn, cần phải lưu
ý điều này. Từ đó, có những công trình
nghiên cứu có chất lượng để hướng dẫn
Tạp chí KHOA HỌC ĐHSP TPHCM Số 56 năm 2014
_____________________________________________________________________________________________________________
170
việc triển khai công việc này có hiệu quả.
3. Đổi mới chuẩn đọc hiểu
Do khuôn khổ có hạn, bài viết này
chỉ đề xuất cách xác định và trình bày
chuẩn đọc hiểu VB chứ không đi vào xây
dựng hệ thống chuẩn đọc hiểu cho từng
cấp/lớp với từng loại VB khác nhau.
Như đã nói ở trên, nếu đổi mới CT
môn Ngữ văn mới theo định hướng NL,
VB đọc hiểu trong nhà trường phổ thông sẽ
không chỉ là VBVH mà còn là các loại
VBTT khác nhau. Vì thế, chuẩn đọc hiểu
VB sẽ không đi theo hướng chỉ xác định
những nội dung kiến thức mà người học
cần lĩnh hội mà còn phải xác định những kĩ
năng đọc cụ thể, tương ứng với từng loại
VB.
Xu hướng của nhiều nước trên thế
giới hiện nay là xác định và trình bày
chuẩn học tập nói chung, chuẩn đọc hiểu
nói riêng theo hình thức của “chuẩn thực
hiện”. Nghĩa là, việc trình bày các chuẩn
phải làm sao “động từ hóa” những thao tác
mà người đọc có thể tiến hành để đọc hiểu
VB. Tránh lối diễn đạt chung chung, quá
khái quát. Đặc biệt là việc sắp xếp các
chuẩn phải giúp cho người đọc hình dung
ra quá trình đọc hiểu. Vì thế, không nên
trình bày những chuẩn liên quan đến nội
dung và ý nghĩa của VB trước mà nên trình
bày các chuẩn liên quan đến hình thức,
ngôn ngữ của VB trước. Bởi quá trình đọc
bao giờ cũng xuất phát từ việc tìm hiểu
ngôn ngữ, cấu trúc của VB, từ đó mới
khám phá, nhận xét về nội dung của đối
tượng đọc hiểu. Nên tham khảo cách làm
của một số nước, chẳng hạn Singapore5 để
xác định và trình bày chuẩn đọc hiểu nói
riêng, chuẩn chương trình nói chung. Tuy
nhiên, cần tiếp thu có chọn lọc những nội
dung phù hợp với mục tiêu, đối tượng đọc
hiểu và đặc điểm của HS phổ thông Việt
Nam.
Mặt khác, như đã đề xuất ở mục 2,
đối tượng đọc hiểu trong CT môn Ngữ văn
của Việt Nam trong thời gian tới không chỉ
là các VB trong môn Ngữ văn mà còn là
các VB trong các môn học khác. Tuy
nhiên, đây là một quan niệm khá mới mẻ,
không phải quốc gia nào trên thế giới cũng
tiếp cận và thực hiện được trong thời gian
ngắn. Song, nếu CT của Việt Nam trong
thời gian tới mở rộng quan niệm về VB
đọc hiểu như các nhà GD của Hoa Kì thì
cần tham khảo cách xác định và trình bày
chuẩn đọc hiểu VB trong các môn học này.
Cũng cần lưu ý rằng các chuẩn đọc hiểu
VB trong các môn học khác không thay thế
được chuẩn học tập của các môn học ấy.
Theo đó, việc xác định chuẩn đọc
hiểu sẽ gồm các bước sau: trước hết, xác
định chuẩn đọc hiểu VB nói chung (bất cứ
một VB nào cũng phải đạt được những yêu
cầu tối thiểu về kiến thức và kĩ năng ấy);
sau đó xác định chuẩn đọc hiểu VBVH và
chuẩn đọc hiểu VBTT trong môn Ngữ văn
(không nhắc lại những chuẩn chung mà chỉ
nêu những yêu cầu cần đạt mang đặc trưng
của loại VB đọc hiểu); cuối cùng, xác định
chuẩn đọc hiểu VB trong các môn
KHTN&XH khác. Riêng với chuẩn đọc
hiểu VB trong môn Ngữ văn, cần đầu tư
xác định các chuẩn cho phù hợp. Dù thế
nào đi nữa thì nhất thiết phải có các chuẩn
về đọc đúng/chính xác, đọc phê bình/đánh
giá và ứng dụng kĩ năng đọc.
Khi đề xuất các chuẩn cụ thể, nên
tham khảo cách làm của PISA trong việc
nêu lên 5 mức độ đọc hiểu6.
4. Đổi mới phương pháp dạy đọc hiểu
Tương ứng với mỗi loại VB đọc hiểu
(VBVH và VBTT) sẽ có những PPDH đọc
Tạp chí KHOA HỌC ĐHSP TPHCM Phạm Thị Thu Hiền
_____________________________________________________________________________________________________________
171
hiểu phù hợp với đặc trưng của nó. DH đọc
hiểu VB trong môn Ngữ văn cũng sẽ
không giống với DH đọc hiểu VB trong
các môn học khác.
4.1. Phương pháp dạy đọc hiểu văn bản
trong môn Ngữ văn
Dạy đọc hiểu VB khác với “giảng
văn”, nhất là khi đối tượng của “giảng văn”
lại chỉ là các VBVH. Dạy đọc hiểu là việc
GV hướng dẫn HS sử dụng những kĩ năng
để đọc hiểu VB thông qua các hoạt động,
thao tác... và theo một quy trình nhất định
nào đó. Đọc hiểu VB đề cao vai trò chủ thể
tích cực, sáng tạo của HS trong hoạt động
đọc. Song, điều quan trọng là cần thay đổi
quan điểm về việc sử dụng PPDH Ngữ văn
nói chung và PPDH đọc hiểu nói riêng,
nghĩa là không có một PPDH đọc hiểu duy
nhất nào cả. Tùy thuộc vào loại VB, mục
đích đọc, đối tượng HS..., GV được tự do
lựa chọn bất kì phương tiện giảng dạy và
cách hướng dẫn nào mà họ muốn. Theo các
nhà GD Hoa Kì, trình độ chuyên môn, sự
hiểu biết và kinh nghiệm của các GV sẽ
quyết định đâu là cách hữu hiệu nhất để
đáp ứng được các mục tiêu DH đọc hiểu.
Trong dạy đọc hiểu, GV chỉ là người
hướng dẫn, dẫn dắt, nêu vấn đề để trao đổi,
thảo luận; GV không đọc thay HS. “Vai trò
của thầy là hướng dẫn, gợi mở, tránh nhầm
lẫn cho HS, chủ yếu là dạy về phương pháp
đọc chứ không phải đọc hộ, biến HS thành
thính giả thụ động của mình Giáo án của
thầy chủ yếu phải là giáo án về phương
pháp đọc cho học sinh. Cái nhầm lớn nhất
của giáo án hiện nay chủ yếu là giáo án nội
dung dùng cho thầy, chứ không phải là
giáo án để dạy phương pháp đọc cho HS”7.
Tuy nhiên, dù sử dụng PP và phương
tiện nào, GV cũng cần thiết kế các hoạt
động sao cho có thể giúp HS tự đọc VB,
vận dụng nhiều các kĩ năng phân tích, suy
luận, đưa được các dẫn chứng trong VB
làm cơ sở cho các nhận định, phân tích của
mình. Đồng thời, có lúc phải để cho mỗi
HS có quyền đọc hiểu theo kinh nghiệm,
cảm xúc của mình (nhưng vẫn phải dựa
trên các chi tiết, dẫn chứng từ VB). Từ đó,
hình thành cho HS khả năng phân tích và
tổng hợp VB. GV cũng nên tạo cơ hội cho
HS nghiên cứu, làm các bài tập lớn về VB
được đọc. Tuy nhiên, không phải HS nào
cũng có khả năng làm được như vậy. Với
những HS yếu hơn, GV có thể gợi ý hoặc
đưa ra các yêu cầu đơn giản hơn. Và dù sử
dụng PP gì, dạy đọc hiểu VB nào trong
môn Ngữ văn, cũng cần tổ chức các hoạt
động, hướng dẫn HS sử dụng các kĩ năng,
thao tác để đọc đúng/chính xác và đọc có
tính phê bình/đánh giá về các yếu tố hình
thức, nội dung và ý nghĩa của VB, từ đó
ứng dụng kiến thức và kĩ năng đã đọc vào
thực tiễn đời sống.
Từ quan niệm trên, có thể sẽ có rất
nhiều cách hướng dẫn HS đọc hiểu những
VB khác nhau. Ở đây, chúng tôi chỉ nêu
một quy trình hướng dẫn HS đọc hiểu được
cho là có thể phát huy được tính chủ động,
sáng tạo của HS: đầu tiên, GV lựa chọn
VB thích hợp (từ một tuyển tập hoặc SGK)
để hướng dẫn HS đọc. VB đó phải đáp ứng
được yêu cầu về đề tài, chủ đề, dung
lượng và phù hợp với đối tượng HS (về
tâm sinh lí lứa tuổi, trình độ). Sau đó,
GV sẽ giới thiệu qua về VB (xuất xứ, tác
giả), làm rõ các khái niệm hoặc các từ
mới có thể khó đối với HS, gợi ý HS đọc
theo một chiến lược nhất định hoặc theo
một mục đích (yêu cầu cần đạt) khái quát,
chuẩn bị cho HS tự đọc VB. Tiếp theo, HS
sẽ đọc thầm hoặc đọc thành tiếng VB.
Trong khi HS đọc, GV sẽ quan sát và hỗ
Tạp chí KHOA HỌC ĐHSP TPHCM Số 56 năm 2014
_____________________________________________________________________________________________________________
172
trợ các em khi cần thiết. Sau khi HS kết
thúc việc đọc, GV sẽ yêu cầu các em
nói/thảo luận về những điều đã đọc bằng
cách nhắc lại/ kể lại/ gợi lại những chi tiết
trong VB hoặc đưa ra những suy nghĩ của
cá nhân về những điều đã đọc. Đây cũng là
lúc để thảo luận bất kì một câu hỏi/vấn
đề/bài tập nào mà HS gặp hoặc phải làm
trong quá trình đọc, nhất là những câu
hỏi/vấn đề/bài tập liên quan đến đặc trưng
của thể loại, đề tài, chủ đề, nội dung tư
tưởng của VB. Trao đổi xong, GV cũng
có thể gợi ý HS xem lại VB để khẳng định
lại những điều đã phân tích và tổng hợp về
VB hoặc có thể sử dụng VB để dạy một kĩ
năng hoặc một khái niệm mới nào đó. Các
hoạt động tìm hiểu mở rộng ra ngoài VB,
từ nội dung VB hoặc ứng dụng những điều
đã đọc vào thực tiễn cũng có thể được thực
hiện trong thời điểm này. Một điều đáng
chú ý là trong và sau khi HS đọc VB, GV
quan sát và ghi chép lại những kết quả liên
quan đến thái độ và sự tiến bộ của HS ở
các khía cạnh như sử dụng chiến lược đọc,
sự chủ động trong các hoạt động, sự chính
xác trong các câu trả lời/bài tập để làm
tư liệu đánh giá HS sau này. Đây chính là
phương pháp dạy đọc hiểu theo tinh
thần đọc có hướng dẫn, được phát triển
lần đầu tiên bởi Irene Fountas và Gay
Su Pinnell (1996)8.
Ngoài ra, nên vận dụng quy trình K-
W-L trong dạy đọc hiểu để phát huy được
vai trò chủ thể tích cực, chủ động của HS
trong quá trình đọc hiểu VB. Qua khảo sát
về PPDH trong CT Tiếng Anh năm 2010
của Singapore (Tlđd) và một số tài liệu về
đọc hiểu bằng tiếng Anh, có thể thấy việc
hướng dẫn HS đọc theo quy trình K-W-L
chính là một biểu hiện của việc vận dụng lí
thuyết kiến tạo. K-W-L là một quy trình ba
bước được Donna Ogle thiết kế (1986). Ở
đây, xin giới thiệu quy trình dạy VB “Động
đất” – một VBTT ở lớp 4 (tại Hoa Kì) theo
quy trình K-W-L để tham khảo:
GV lớp 4 – David Scott dạy bài
“Động đất”. Sau khi giúp HS khởi động
bằng cách liên hệ về các vấn đề trong cuộc
sống của họ, GV viết tiêu đề “Động đất”
lên bảng. Phía dưới bên trái tiêu đề, GV
viết câu hỏi: Em muốn biết điều gì? Sau đó
ông đề nghị các HS nói về những gì họ biết
về động đất và ghi lại những phản hồi
chính của họ như sau: có thể gây ra nguy
hiểm, không thể đoán trước, rất đáng sợ,
xảy ra ở California, các trận động đất đều
không giống nhau, làm rung chuyển trái
đất, không xảy ra vào ban đêm, làm cho
mọi thứ trở nên tồi tệ Không phải tất cả
những phát biểu của HS đều đúng, mặc dù
Scott đã đặt câu hỏi để giúp HS xem xét
tính đúng đắn của những phát biểu, chẳng
hạn như “Làm thế nào mà em biết điều
đó?” hoặc “Bằng cách nào có thể chứng
minh điều đó?”. Sau đó, trong phần thảo
luận sau khi đọc, Scott và HS sẽ làm sáng
tỏ những quan niệm không đúng đắn còn
tồn tại. Sau khi các HS đưa ra một số phản
ứng/câu trả lời, ông cho chúng xem những
minh họa/tư liệu về động đất và đề nghị HS
suy nghĩ về những thông tin (lấy từ những
tư liệu đó) và xem xem thông tin nào có thể
được đưa vào sách/bài học. Sau đó ông
viết những ý tưởng của HS ở phía dưới
những phải hồi ban đầu của họ ở trên bảng
(phía dưới bên trái tên bài học).
Tiếp theo, Scott gợi ý HS rằng những
VB/cuốn sách thông tin như là “Động đất”
được viết để cung cấp kiến thức mà chúng
ta muốn biết hoặc cần phải biết. Sau đó,
ông yêu cầu HS nghĩ về những điều mà họ
muốn biết về động đất – tức là những điều
Tạp chí KHOA HỌC ĐHSP TPHCM Phạm Thị Thu Hiền
_____________________________________________________________________________________________________________
173
mà họ chưa biết hoặc là biết nhưng không
chắc chắn. Ông ghi lại những phản hồi của
HS ở giữa phía dưới tiêu đề và câu hỏi
“Em muốn biết điều gì?”. Scott có những
câu hỏi riêng trong trường hợp HS không
nắm được tầm quan trọng của việc đọc
VB/cuốn sách. Ông cũng sẽ đưa thêm
những câu hỏi của mình vào phần câu hỏi
của HS.
Trên bảng, phía dưới bên phải, Scott
viết câu hỏi “Em đã học được gì?”. Rồi
ông giải thích cho HS rằng đây là phần
cuối cùng của quy trình K-W-L. Ông nói:
“Các em đã hoàn thành hai bước đầu tiên
– tức là nghĩ và viết ra những điều các em
đã biết về động đất và những điều các em
muốn biết về động đất. Bước cuối cùng là
ghi nhớ những thông tin đã thu được qua
việc đọc”.
Đến đây, GV đưa cho HS biểu đồ về
quy trình K-W-L và yêu cầu HS “hãy ghi
những điều mà các em biết trong cột đầu
tiên; trong cột thứ hai, ghi lại những điều
các em muốn biết. Sau đó, khi các em đọc,
hãy viết những điều các em học được vào
cột thứ ba”. Scott cũng nhắc HS rằng
“không phải tất cả các câu hỏi sẽ có câu
trả lời từ VB; sau này, chúng ta sẽ nói về
việc tìm những câu trả lời cho các câu hỏi
đó ở đâu”9. Theo các nhà GD Hoa Kì, quy
trình K-W-L có lẽ là quy trình nổi tiếng
nhất và thường được sử dụng nhất để tìm
tòi thông tin trong các VB có tính chất
trình bày, mô tả, giải thích (tức VBTT) ở
cả dạng in và kĩ thuật số. Bởi ba bước
trong quy trình trên bao gồm khởi động/trải
nghiệm, nêu mục đích qua các câu hỏi và
tìm câu trả lời cho các câu hỏi hầu như
đảm bảo cho HS được chủ động trong học
tập. Bản thân quy trình này cũng tạo được
hứng thú và đáp ứng được nhu cầu của các
em. Tuy nhiên, có thể gọi đây là một hình
thức dạy học, phù hợp với việc dạy đọc
hiểu VB theo thể loại (bao gồm cả VBVH
chứ không phải chỉ với VBTT). Lấy lí
thuyết kiến tạo làm nền tảng, ở mỗi loại VB
(văn học và thông tin) cần bổ sung thêm
những hướng dẫn đọc hiểu VB theo đặc
trưng thể loại của nó.
4.2. Phương pháp dạy đọc hiểu văn bản
trong các môn học khác
Ở đây, bài viết chỉ đề xuất định
hướng về PPDH đọc hiểu VB trong các
môn học khác ở nhà trường phổ thông. Cụ
thể là:
Người tiến hành dạy đọc hiểu VB
trong các môn học khác chính là GV của
các môn học này. Nhưng, cần lưu ý rằng
nhiệm vụ chính của GV là hướng dẫn HS
lĩnh hội tri thức, kĩ năng, kĩ xảo trong lĩnh
vực môn học mà họ phụ trách chứ không
phải hướng dẫn HS đọc hiểu như trong
môn Ngữ văn. Tuy nhiên, họ sẽ là người có
vai trò quan trọng trong sự phát triển NL
đọc của HS, giúp HS vận dụng những kĩ
năng đã học vào thực tiễn.
Để hướng dẫn HS đọc hiểu VB trong
các môn học khác, trước hết GV ở các bộ
môn này cần nắm vững PPDH bộ môn mà
mình đảm nhiệm, nắm vững đặc điểm của
các loại VB thường dùng trong CT, SGK
và các nguồn tài liệu khác có liên quan đến
môn học; đồng thời cũng phải nắm vững kĩ
năng đọc hiểu VBTT (bởi các VB có trong
SGK và tài liệu các môn học khác là các
VBTT). Kĩ năng đọc hiểu VBTT của GV ở
các bộ môn này một mặt đã được hình
thành từ khi còn là HS phổ thông, mặt khác
được hình thành trong quá trình tự học
hoặc được bồi dưỡng ở trường Đại học10.
Việc hướng dẫn HS đọc hiểu VB
trong các môn học khác sẽ không diễn ra
Tạp chí KHOA HỌC ĐHSP TPHCM Số 56 năm 2014
_____________________________________________________________________________________________________________
174
theo trình tự của giờ dạy học đọc hiểu
trong môn Ngữ văn mà tùy thuộc vào mục
đích của VB/bài học, kết hợp với PPDH bộ
môn, GV sẽ hướng dẫn HS tìm kiếm, lựa
chọn, giải thích và đánh giá thông tin từ
VB.
5. Đổi mới đánh giá kết quả đọc hiểu
văn bản
Hiện nay việc đánh giá kết quả
(ĐGKQ) đọc hiểu VB của HS Việt Nam,
nhất là ở cấp THPT còn nhiều bất cập. Đề
thi được ra dưới dạng tự luận, chỉ kiểm tra
các nội dung chính được học về các VB cụ
thể trong SGK. Để làm bài, HS chủ yếu
chỉ cần nhớ nội dung bài giảng của GV.
Trình độ đọc hiểu VB của HS được đánh
giá bằng điểm số của các bài kiểm tra
thường xuyên. Ngoài ra, không có hình
thức đánh giá nào khác. Điểm số của bài
thi, nhất là ở giai đoạn cuối của cấp
THPT được coi là căn cứ quan trọng
nhất để xét tốt nghiệp và vào các trường
đại học, cao đẳng
Có thể nói, ĐGKQ đọc hiểu là khâu
quan trọng trong quá trình dạy học Ngữ văn
nói chung, dạy đọc hiểu nói riêng. “Kết quả
đọc hiểu” là mức độ đạt được của HS về kiến
thức, kỹ năng đọc hiểu VB được quy định
trong chuẩn kiến thức, kĩ năng của
CTGDPT. Tuy nhiên, ở đây không đề cập
đến chuẩn kiến thức, kĩ năng trong CT môn
Ngữ văn hiện hành vì các chuẩn này, như đã
nói, cần đổi mới theo hướng đã đề xuất ở
trên.
Trong phần này, bài viết sẽ nêu ra
một số đề xuất liên quan đến ĐGKQ đọc
hiểu VB trong môn Ngữ văn của HS ở các
bình diện cơ bản như mục đích đánh giá,
nội dung đánh giá và cách thức đánh giá.
Riêng với các môn học khác, trước mắt
chưa ĐGKQ đọc hiểu một cách độc lập
với việc ĐGKQ học tập trong các môn
học đó mà nên có sự kết hợp với nhau.
Bởi trong thời gian tới, khi đổi mới
CTGDPT (trong đó có đổi mới về PPDH
và đánh giá), chúng ta sẽ sử dụng nhiều
hình thức đánh giá ở mỗi môn học thay
vì chỉ kiểm tra bằng đề thi và đánh giá
bằng điểm số như hiện nay. Hơn nữa,
đây là vấn đề có tính chất liên môn, cần
có những nghiên cứu cụ thể rồi mới có
thể vận dụng vào thực tiễn.
a. Mục đích đánh giá
ĐGKQ học tập Ngữ văn nói chung,
ĐGKQ đọc hiểu VB được hiểu chung là sự
đối chiếu kết quả đạt được của người học
với mục tiêu của DH đọc hiểu VB đã đề ra.
Do đó, ĐGKQ đọc hiểu VB ở môn Ngữ
văn trong thời gian tới nhằm mục đích
kiểm tra NL vận dụng kiến thức, kĩ năng
để giải quyết các vấn đề nảy sinh trong
thực tiễn (ở đây là đọc hiểu các VB trong
những tình huống mới), chứ không chỉ là
kiểm tra trình độ đạt chuẩn kiến thức kĩ
năng của HS đến đâu. Từ kết quả đánh giá,
có thể điều chỉnh việc DH đọc hiểu VB ở
nhà trường phổ thông. Nghĩa là việc
ĐGKQ đọc hiểu không chỉ nhằm mục đích
ĐGKQ quá trình học tập của người học mà
còn là nguồn thông tin phản hồi giúp người
dạy nắm bắt được chất lượng, PPDH để từ
đó có những điều chỉnh thích hợp cho công
tác giảng dạy của mình.
b. Nội dung đánh giá
Để đạt được mục đích ĐGKQ đọc
hiểu VB của HS nêu trên, cần xác định
chính xác những nội dung cần đánh giá. Đó
là những kiến thức, kĩ năng đọc hiểu VB
được quy định trong CTGDPT môn Ngữ văn
đổi mới (đối với phần đọc hiểu).
c. Mức độ đánh giá
ĐGKQ đọc hiểu VB trong môn Ngữ
Tạp chí KHOA HỌC ĐHSP TPHCM Phạm Thị Thu Hiền
_____________________________________________________________________________________________________________
175
văn cần dựa trên các cấp độ nhận thức của
người học. Theo nghiên cứu của
B.S.Bloom, nhận thức của con người nói
chung, của người học nói riêng có sáu cấp
độ được sắp xếp từ thấp đến cao là: nhận
biết, hiểu, vận dụng, phân tích, tổng hợp,
đánh giá. Tuy nhiên, trong GD, mức độ
người học cần đạt ở mỗi nội dung thường
được quy định theo các cấp độ nhận biết,
thông hiểu và vận dụng. Theo chúng tôi,
cần cụ thể hóa các cấp độ nhận thức trên
thành những mức độ trong đánh giá NL
đọc hiểu VB của HS ở từng khối/lớp với
từng loại VB khác nhau. Tuy nhiên, trước
mắt, có thể kế thừa kết quả nghiên cứu của
đề tài cấp Bộ Đánh giá quốc gia kết học
tập của học sinh11 do PGS.TS. Đỗ Ngọc
Thống làm chủ nhiệm đề tài, phần Đánh
giá kết quả đọc hiểu do TS. Nguyễn Thị
Hồng Vân xây dựng ở các nội dung sau:
Tám mức (trình độ-level) đọc hiểu cho các
lớp khác nhau. Ở đây xin nêu một ví dụ về
lớp 7:
Bảng 1
Mức Lớp 7
1
2 Nhận biết ý chính của văn bản và ý chính của từng đoạn trong văn bản bằng cách
liên kết các từ ngữ chỉ những sự vật, hiện tượng cụ thể trong văn bản
3 Hiểu các chi tiết tạo nên văn bản, liên kết được các từ ngữ có ý nghĩa trừu tượng để
hiểu mục đích sử dụng của chúng trong văn bản
4 Có khả năng liên kết các từ ngữ (cụm từ hoặc câu ngắn) từ bối cảnh này đến những
bối cảnh khác với điều kiện có từ ngữ phù hợp giữa hai bối cảnh
5 Có khả năng khái quát được nội dung, ý nghĩa và giá trị của văn bản, chỉ ra được cái
đẹp của văn bản
6 Có khả năng đọc được những văn bản với những ý tưởng và nội dung được khám
phá, tiếp nhận trên cơ sở kết nối các thông tin và các mối quan hệ bên trong văn
bản
7 Có thể đọc tiến hoặc lùi trong một văn bản để kết nối các thông tin mới với đoạn
thông tin đã đọc được trước đó, liên kết các ý tưởng từ những phần khác nhau của
văn bản và thể hiện khả năng nắm bắt được ý tưởng của tác giả
8
Diễn giải NL đọc hiểu của lớp 7:
Bảng 2
Mức Mức năng lực Diễn giải
1
2 Nhận biết ý chính của văn
bản và ý chính của từng
đoạn trong văn bản bằng
cách liên kết các từ ngữ
chỉ những sự vật, hiện
tượng cụ thể trong văn
- Nhận biết phương thức biểu đạt của các văn bản biểu
cảm, nghị luận và hành chính – công vụ
- Nhận ra các từ loại, các kiểu câu trong văn bản
- Nhận biết đại ý và các ý chính của văn bản
Tạp chí KHOA HỌC ĐHSP TPHCM Số 56 năm 2014
_____________________________________________________________________________________________________________
176
bản
3 Hiểu các chi tiết tạo nên
văn bản, liên kết được các
từ ngữ có ý nghĩa trừu
tượng để hiểu mục đích sử
dụng của chúng trong văn
bản
- Phát hiện các từ ngữ, hình ảnh, chi tiết có ý nghĩa
trong bài văn, bài thơ
- Phát hiện luận điểm và luận cứ của văn bản nghị luận
- Nhận ra tác dụng của các phép tu từ trong văn bản
- Nhận ra nghĩa gốc, nghĩa chuyển của từ trong văn
bản, hiểu nghĩa của từ Hán Việt được sử dụng trong
văn bản
4 Có khả năng liên kết các
từ ngữ (cụm từ hoặc câu
ngắn) từ bối cảnh này đến
những bối cảnh khác với
điều kiện có từ ngữ phù
hợp giữa hai bối cảnh
- Nhận ra đề tài, nội dung chính của một văn bản biểu
cảm, nghị luận
- Nhận ra và nêu được ý chính của từng đoạn trong văn
bản
- Nhận ra được sự liên kết, mạch lạc và bố cục trong
văn bản
5 Có khả năng khái quát
được nội dung, ý nghĩa và
giá trị của văn bản, chỉ ra
được cái đẹp của văn bản
- Khái quát được chủ đề của văn bản biểu cảm, nghị
luận
- Khái quát được giá trị nội dung của tác phẩm.
- Khái quát được các biện pháp nghệ thuật của văn bản
- Khái quát được một vài đặc điểm về thể loại của văn
bản
6 Có khả năng đọc được
những văn bản với những
ý tưởng và nội dung được
khám phá, tiếp nhận trên
cơ sở kết nối các thông
tin và các mối quan hệ
bên trong văn bản
- Nắm được cốt truyện, nhân vật, sự kiện, ý nghĩa và
nét đặc sắc của văn bản tự sự
- Nhận biết mối quan hệ giữa tình và cảnh; một vài đặc
điểm thể loại của một bài thơ trữ tình trung đại
- Nhận ra mối quan hệ giữa tình và cảnh, phép đối
trong thơ Đường và một vài đặc điểm của thể thơ tứ
tuyệt
7 Có thể đọc tiến hoặc lùi
trong một văn bản để kết
nối các thông tin mới với
đoạn thông tin đã đọc
được trước đó, liên kết các
ý tưởng từ những phần
khác nhau của văn bản và
thể hiện khả năng nắm bắt
được ý tưởng của tác giả
- Cảm nhận được những đặc sắc về nội dung và nghệ
thuật của một số bài thơ hiện đại Việt Nam
- Nắm được chủ đề, cảm hứng chủ đạo, ý nghĩa và nét
đặc sắc của một số văn bản tùy bút của Việt Nam
- Cảm nhận được nghệ thuật lập luận, cách bố cục chặt
chẽ, ngôn ngữ thuyết phục, giàu cảm xúc, ý nghĩa thực
tiễn và giá trị nội dung của một số tác phẩm hoặc trích
đoạn nghị luận hiện đại Việt Nam
d. Phương pháp đánh giá
Trong ĐGKQ đọc hiểu VB ở môn
Ngữ văn, nên sử dụng hình thức bài kiểm
tra viết (chưa áp dụng hình thức vấn đáp).
Các câu hỏi kiểm tra có sự kết hợp giữa
hình thức trắc nghiệm và tự luận. Khuyến
khích đưa vào các dạng bài vận dụng kiến
thức để giải quyết các tình huống thực tiễn.
Tạp chí KHOA HỌC ĐHSP TPHCM Phạm Thị Thu Hiền
_____________________________________________________________________________________________________________
177
Hiện nay, trên thế giới, cách làm của
PISA trong đánh giá NL đọc hiểu VB đang
thu hút được sự quan tâm của nhiều quốc
gia, trong đó có Việt Nam. Mục đích của
PISA là đánh giá NL đọc của HS ở giai
đoạn cuối của GD bắt buộc. Song, nước ta
(và các nước khác trên thế giới) không chỉ
đánh giá NL đọc hiểu của HS ở độ tuổi 15
(lớp 9 và 10) mà đánh giá tất cả HS ở các
khối lớp khác, nhưng mức độ đánh giá sẽ
khác nhau, phụ thuộc vào tính chất và
phạm vi của mỗi lần đánh giá. Tuy nhiên,
rất cần xây dựng các câu hỏi theo hướng
kiểm tra NL như của PISA, bao gồm: câu
hỏi trắc nghiệm khách quan nhiều lựa chọn
dạng đơn giản; câu hỏi khách quan nhiều
lựa chọn dạng phức hợp; câu hỏi đóng trả
lời ngắn; câu hỏi mở trả lời dài.
Tóm lại, đọc hiểu VB là một trong
những NL cần có của một người công dân,
có vai trò to lớn trong sự phát triển của mỗi
cá nhân con người và giao tiếp xã hội. Ban
đầu là học để đọc và sau đó là đọc để học.
Không có NL đọc hiểu, chúng ta sẽ khó có
thể học suốt đời, thậm chí khó có thể tồn
tại trong một xã hội phát triển. Để làm
được điều đó, cần đổi mới toàn diện các
yếu tố để DH đọc hiểu VB ở nhà trường
phổ thông của nước ta trong thời gian tới
đáp ứng được yêu cầu của thực tiễn và bắt
kịp với xu thế quốc tế.
1 Nxb Giáo dục, 2006.
2 Theo Bùi Mạnh Hùng (2013), Chuẩn chương trình cốt lõi của Mĩ và một số liên hệ với việc đổi mới chương trình
Ngữ văn ở Việt Nam, Tạp chí Khoa học (Tạp chí của Trường Đại học Sư phạm TPHCM, số chuyên về Nghiên cứu
Giáo dục học), số 4/2013.
3 California State Board of Education (1997), English-Language Arts Content Standards for California Public
Schools - Kindergarten Through Grade Twelve.
4 Xin xem: California State Board of Education (2013), Common Core State Standards for English Language Arts,
Literacy in History/Social Studies, Science, and Technical Subjects for California Public Schools Kindergarten
Through Grade Twelve.
5 Xin xem: Curriculum Planning and Development Division, Ministry of Education, Singapore (2010), English
language syllabus 2010, Primary & Secondary (Express/ Normal [Academic]).
6 Xin xem: PISA 2012 Assessment and Analytical Framework Mathematics, Reading, Science, Problem Slving and
Financial Lteracy (
7 Trần Đình Sử (2009), Con đường đổi mới cơ bản phương pháp dạy học Văn, Báo Văn nghệ số 10.
8 Xin xem: Michael R. Graves, Teaching Reading in the 21st Century: Motivating All Learners (fifth edition),
Pearson
9 Xin xem: Teaching Reading in the 21st century: Motivating All Learners (Tlđd).
10 Hiện nay ở các trường đại học hay cao đẳng sư phạm chưa có học phần nào liên quan đến việc hướng dẫn sinh
viên đọc hiểu VB trong lĩnh vực khoa học mà họ được đào tạo để dạy học. Vì thế cần có phương án cho vấn đề
này.
11 Đề tài nghiên cứu khoa học cấp Bộ, 2011, Viện Khoa học Giáo dục Việt Nam.
Tạp chí KHOA HỌC ĐHSP TPHCM Số 56 năm 2014
_____________________________________________________________________________________________________________
178
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bộ GD & ĐT (2006), Chương trình GD phổ thông môn Ngữ văn, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
2. Bộ GD & ĐT (2013), Kỉ yếu Hội thảo khoa học quốc gia về dạy học Ngữ văn ở trường
phổ thông Việt Nam, Nxb Đại học Sư phạm, Hà Nội.
3. Bùi Mạnh Hùng (2013), “Chuẩn CT cốt lõi của Mĩ và một số liên hệ với việc đổi mới
CT Ngữ văn ở Việt Nam”, Tạp chí Khoa học Trường Đại học Sư phạm TPHCM, (4).
4. Trần Đình Sử (2009), “Con đường đổi mới cơ bản phương pháp dạy học Văn”, Báo Văn
nghệ.
5. Đỗ Ngọc Thống (2011), Đánh giá quốc gia kết học tập của học sinh, Đề tài nghiên cứu
khoa học cấp Bộ, Viện Khoa học Giáo dục Việt Nam.
6. California State Board of Education (1997), English-Language Arts Content Standards
for California Public Schools - Kindergarten Through Grade Twelve .
7. California State Board of Education (2013), Common Core State Standards for English
Language Arts, Literacy in History/Social Studies, Science, and Technical Subjects for
California Public Schools - Kindergarten Through Grade Twelve.
8. Curriculum Planning and Development Division, Ministry of Education, Singapore
(2010), English language syllabus 2010, Primary & Secondary (Express/ Normal
[Academic]).
9. Ministry of Education and Human Resources Development (2007), Korean Language
Curriculum.
10. Michael R. Graves, Teaching Reading in the 21st century: Motivating All Learners (fifth
edition), Pearson.
(Ngày Tòa soạn nhận được bài: 26-02-2014; ngày phản biện đánh giá: 02-3-2014;
ngày chấp nhận đăng: 09-3-2014)
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 19_9012.pdf