Kinh tế Nhật Bản một năm sau thảm họa kép: thành tựu, thách thức và triển vọng

Thứ nhất, xu hướng gia tăng của hàng xuất khẩu Việt Nam vào thị trường Nhật Bản sẽ tiếp tục được khẳng định do (1) tiềm năng thị trường vẫn còn rất lớn (Hàng xuất khẩu của Viêṭ Nam mới chiếm khoảng 1% tổng kim ngạch nhập khẩu của Nhật Bản, thấp xa so với một số nước ASEAN khác); (2) nhu cầu tái thiết vùng Đông Bắc của Nhật Bản về các mặt hàng thiết yếu và xây dựng như dệt may, thủy hải sản, đồ gỗ, cao su vẫn rất cao. Đây chính là những mặt hàng mà Việt Nam có thế mạnh; (3) đồng yên mạnh cũng góp phần làm tăng thêm khả năng cạnh tranh cho hàng xuất khẩu của Việt Nam vào thị trường Nhật Bản. Thứ hai, sau chuyến thăm của Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đến Nhật Bản, hai bên đã chính thức khởi động giai đoạn IV Sáng kiến chung Việt Nam - Nhật Bản về cải thiện môi trường đầu tư của Việt Nam với 70 hạng mục, hứa hẹn đưa mối quan hệ hợp tác kinh tế, thương mại song phương giữa hai nước lên tầm cao mới. Không chỉ xuất khẩu của Việt Nam sang Nhật Bản gia tăng mà hàng nhập khẩu máy móc, thiết bị, vật tư từ Nhật Bản vào Việt Nam theo các hợp đồng đầu tư xây dựng cũng sẽ gia tăng mạnh.

pdf8 trang | Chia sẻ: yendt2356 | Lượt xem: 436 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Kinh tế Nhật Bản một năm sau thảm họa kép: thành tựu, thách thức và triển vọng, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
KINH TẾ NHÂṬ BẢN MÔṬ NĂM SAU THẢM HOA ̣KÉP: THÀNH TƯỤ, THÁCH THỨC VÀ TRIỂN VOṆG TRẦN QUANG MINH* Năm 2011 là một năm đầy khó khăn của kinh tế Nhật Bản khi quốc gia này phải vật lộn với hậu quả nặng nề của cuộc khủng hoảng 3 trong một: động đất, sóng thần và sự cố nhà máy điện hạt nhân Fukushima I. Thêm vào đó là những diễn biến phức tạp của kinh tế thế giới, trong đó hai mối họa lớn nhất là nợ công châu Âu và khủng hoảng kinh tế Mỹ. Mặc dù phải đối mặt với rất nhiều khó khăn như vậy song kinh tế Nhật Bản năm 2011 đã đạt được những thành tựu rất đáng khâm phục. Bài viết này tập trung phân tích những thành tựu nổi bật của kinh tế Nhật Bản một năm sau thảm họa ngày 11/3/2011; rút ra một số bài học kinh nghiệm từ Nhật Bản sau thảm họa này; đánh giá những khó khách thách thức hiện tại và triển vọng của kinh tế Nhật Bản và quan hệ kinh tế Việt Nam – Nhật Bản năm 2012.* 1. Thành tựu nổi bật của kinh tế Nhật Bản năm 2011 Thành tựu của kinh tế Nhật Bản được thể hiện rõ nét trên 3 lĩnh vực chủ yếu là: (1) Tái thiết khu vực Đông Bắc; (2) Xử lý sự cố nhà máy điện hạt nhân Fukushima I; và (khôi phục mạnh mẽ hoạt động sản xuất và xuất khẩu của các ngành công nghiệp. Thứ nhất, về tái thiết khu vực Đông Bắc: như chúng ta đã biết sau thảm họa kép ngày * TS. Viêṇ nghiên cứu Đông Bắc Á 11/3/2011, khu vực Đông Bắc Nhật Bản gần như bị phá hủy hoàn toàn bởi động đất và sóng thần để lại cho chính quyền và nhân dân Nhật Bản những khó khăn chồng chất tưởng như khó có thể khắc phục ngay được. Đó là vấn đề cứu hộ, cứu nạn tìm kiếm hàng ngàn người vẫn còn bị chôn vùi trong các đống đổ nát; thu xếp nơi ăn chỗ ở cho hàng trăm ngàn người nhà cửa, ruộng vườn bị sóng thần tàn phá; đó là vấn đề dọn dẹp các đống đổ nát và xây dựng lại cơ sở hạ tầng và các nhà máy xí nghiệp, thu xếp việc làm và ổn định đời sống nhân dân ở các vùng bị thiên tai. Nhiều người cho rằng Nhật Bản sẽ phải mất vài năm, thậm chí lâu hơn nữa để dọn dẹp các đống đổ nát và xây dựng lại từ đầu. Vậy mà chỉ sau một năm Nhật Bản đã về cơ bản giải quyết được những khó khăn này. Diện mạo của khu vực Đông Bắc Nhật Bản sau một năm đã hoàn toàn thay đổi đến mức người ta không thể hình dung nổi cảnh tượng kinh hoàng đã xẩy ra một năm trước đây. Có thể nói đó là một sự hồi sinh rất đáng khâm phục. Thứ hai, về việc xử lý sự cố nhà máy điện hạt nhân: có thể nói sau sự cố nổ các lò phản ứng ở nhà máy điện hạt nhân Fukushima I, Nhật Bản đứng trước một cuộc khủng hoảng nghiêm trọng không chỉ về hạt nhân mà còn về lòng tin của người dân, của cộng đồng quốc tế đối với chính quyền trong việc quản lý và điều hành các nhà máy điện hạt nhân. Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam - 4/2012 10 Nhiều người cho rằng Fukushima I còn tệ hại hơn cả Cherknobyl (Nga). Sau sự cố này, hàng loạt nhà máy điện hạt nhân của Nhật Bản đã phải đóng cửa để kiểm tra mức độ an toàn1. Và tưởng như Nhật Bản sẽ phải đoạn tuyệt với năng lượng điện hạt nhân trong khi nguồn năng lượng này cung cấp tới 30% tổng điện năng của cả nước. Tuy nhiên, sau một năm nhìn lại, chúng ta thấy điều đó đã không xẩy ra. Các lò phản ứng hạt nhân bị nổ đã dần dần được làm nguội; mức độ rò rỉ phóng xạ đã được kiểm soát; các phóng viên đã được phép vào khu vực nhà máy để tác nghiệp Niềm tin đối với năng lượng hạt nhân dần dần được lấy lại, nhiều nhà máy điện hạt nhân đang được xem xét hoạt động trở lại2; các hợp đồng xây dựng nhà máy điện hạt nhân với nước ngoài tiếp tục được xúc tiến3 Là một quốc gia nghèo về tài nguyên thiên nhiên, năng lượng điện hạt nhân là một trong những nguồn năng lượng quan trọng đối với nước Nhật. Việc tiếp tục duy trì và lấy lại được niềm tin đối với nguồn năng lượng này là hết sức thiết yếu. Có thể nói đây cũng là một thành công rất đáng kể đối với kinh tế Nhật Bản trong năm qua. Thứ ba, về việc khôi phục hoạt động sản xuất và xuất khẩu của các ngành công nghiệp: Sau thảm họa kép ngày 11/3/2011, nhiều nhà máy thuộc các ngành công nghiệp quan trọng như ô tô, hóa dầu, và chất bán dẫn tại khu vực Đông Bắc Nhật Bản đã phải đóng cửa đặt các ngành công nghiệp trong nước và xuất khẩu trước tình trạng thiếu nghiêm trọng về phụ tùng và thiết bị. Theo ước tính thiệt hại kinh tế lên đến gần 300 tỉ đô la Mỹ, tương đương 2% tổng sản phẩm quốc nội (GDP) của Nhật Bản, cao hơn so với thiệt hại của trận động đất Kobe năm 1995. Tốc độ tăng GDP quý I năm 2011 là - 1,8%, quý II là -0,3%. Tuy nhiên, chỉ sau hơn 3 tháng kể từ ngày 11/3/2011, sản xuất của các ngành công nghiệp trong nước về cơ bản đã được phục hồi, xuất khẩu tăng, đặc biệt là ngành sản xuất xe hơi. Tốc đô ̣ tăng GDP quý III đạt 1,7%. Đây là một con số rất ấn tượng đối với một nền kinh tế đã trải qua hai thập kỷ trì trệ và những thiệt hại nặng nề sau thảm họa kép cách đây một năm. Hiǹh 1. Tốc độ tăng trưởng GDP Nhật Bản theo Quý Nguồn: growth 2. Một số bài học kinh nghiệm từ việc khắc phục thảm họa ngày 11/3/2011 của Nhật Bản Những thành quả mà người dân Nhật Bản kiên cường vượt qua nỗi đau, khẩn trương tái thiết đất nước một lần nữa khiến chúng ta phải ngưỡng mộ. Từ những thành tựu mà Nhật Bản đã đạt được qua việc khắc phục thảm họa thiên nhiên và tái thiết đất nước, chúng ta có thể rút ra một số bài học kinh nghiệm để tham khảo. Thứ nhất, vấn đề giáo dục ý thức của người dân. Báo chí đã nói nhiều đến sự bình tĩnh, tinh thần tương thân tương ái, đến trật tự xã hội ở những khu vực bị thiên tai tàn Kinh tế Nhâṭ Bản... 11 phá của Nhật Bản. Tại sao trước tình cảnh đổ nát, hoang tàn của cả một vùng đất đai, thành thị, làng mạc rộng lớn như vậy mà người Nhật Bản, cho dù rất đau buồn, vẫn rất bình tĩnh giúp đỡ lẫn nhau vượt khó; Không có tình trạng hôi của, cướp bóc, trấn lột; không có bất cứ một sự lộn xộn nào về mặt xã hội. Mọi người bình tĩnh xếp hàng để mua từng mặt hàng nhu yếu phẩm, hoặc bình tĩnh tuân theo sự sắp xếp của các đội công tác cứu hộ Không phải ngay lập tức hoặc tự nhiên mà người Nhật Bản có được phẩm chất như vậy. Phẩm chất đó đã được hình thành từ rất sớm trong quá trình giáo dục và đào tạo không chỉ ở nhà trường mà ngay trong từng gia đình và cộng đồng xã hội. Thứ hai, công tác chuẩn bị để sẵn sàng ứng phó với những hậu quả của thiên tai. Nhật Bản là quốc gia nằm trong khu vực hoạt động thường xuyên của động đất, sóng thần nên công tác chuẩn bị để sẵn sàng ứng phó với hậu quả của những thảm họa này đã được chuẩn bị khá chu đáo. Sự chuẩn bị ở đây không chỉ về tài chính, phương tiện, và máy móc thiết bị mà còn là về con người. Nhật Bản đã thành lập từ rất sớm các cơ quan quản lý và điều hành công tác cứu hộ, cứu nạn. Các đội cứu hộ cứu nạn được huấn luyện và tập dượt các kỹ năng và rất có kinh nghiệm nghề nghiệp. Nhờ đó, Nhật Bản đã khắc phục khá nhanh chóng những hậu quả của trận động đất và sóng thần và sớm bắt tay vào tái thiết khu vực này. Thứ ba, quan hệ hợp tác quốc tế. Phải khẳng định rằng, trong việc khắc phục các sự cố của nhà máy điện hạt nhân Fukushima I và việc giải quyết những khó khăn sau thảm họa động đất, sóng thần ở khu vực Đông Bắc Nhật Bản, cộng đồng quốc tế đã có những hỗ trợ hết sức kịp thời và hiệu quả. Không phải ngẫu nhiên mà các nước đã cảm thông, chia sẻ những khó khăn và chung sức cùng với Nhật Bản trong việc khắc phục những hậu quả của thiên tai và tái thiết đất nước như vậy. Đó chính là nhờ những thành công trong việc xây dựng và phát triển các quan hệ quốc tế của Nhật Bản. 3. Một số khó khăn, thách thức đối với kinh tế Nhật Bản hiện nay Kinh tế Nhật Bản sau một năm kể từ thảm họa kép mặc dù đang trên đà phục hồi với những tín hiệu rất khả quan, song vẫn đang phải đối mặt với khá nhiều khó khăn, thách thức kể cả trong nước và nước ngoài như đồng yên tăng giá, nợ công cao, tác động của khủng hoảng nợ công châu Âu và những bất ổn chính trị ở Trung Đông. - Thứ nhất, đồng tiền Yên tăng giá: Diễn biến tỷ giá Yen/USD trong năm 2011 khá phức tạp. Sau thảm họa kép động đất, sóng thần đồng yên tăng giá mạnh so với đồng đô la Mỹ. Tỷ giá yên/đô la có lúc xuống đến 76,3 yên đổi một đô la, mức kỷ lục từ sau Chiến tranh thế chiến thứ 2. Kể từ tháng 9/2010, Nhật Bản đã 3 lần đơn phương can thiệp vào thị trường tiền tệ và một lần hành động cùng với nhóm các nước G7 để giảm giá trị đồng yên. Lần đầu tiên vào tháng 3/2011, Ngân hàng trung ương Nhật Bản (BOJ) đã chi 692,5 tỷ yên để mua đô la; lần thứ hai vào tháng 8/2011: 4.000 tỷ yên (khoảng 51 tỷ USD); và lần gần đây Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam - 4/2012 12 nhất vào tháng 10/2011: 8.000 tỷ yên (khoảng 102 tỷ USD). Hiǹh 2. Tỷ giá Yen/USD Nguồn: Đồng yên tăng giá tác động tiêu cực lên các mặt hàng xuất khẩu của Nhật Bản, làm cho sức cạnh tranh của hàng xuất khẩu Nhật Bản trên thị trường thế giới giảm đi; đồng thời lại làm gia tăng lượng hàng nhập khẩu vào thị trường Nhật Bản. Xuất khẩu của Nhật Bản trong tháng 10/2011 đã giảm 3,7%. Trong đó, xuất khẩu sang Trung Quốc, đối tác thương mại lớn nhất của Nhật Bản, giảm 7,7%; sang Hoa Kỳ giảm 2,3%, sang châu Âu giảm 2,9%. Hiǹh 3. Kim ngạch xuất khẩu của Nhật Bản (tỷ Yên) Nguồn: Sức cạnh tranh giảm sút cũng đồng nghĩa với việc làm suy giảm sản xuất trong nước và cán cân thương mại chuyển dịch theo hướng thâm hụt (nhập nhiều hơn xuất). Sau một nửa thế kỷ thặng dư thương mại, Nhật Bản giờ đây đang phải đối mặt với tình trạng thâm hụt thương mại. Nếu như trong những năm 1980 và những năm 1990, thặng dư thương mại khổng lồ của Nhật Bản là mục tiêu theo đuổi của nhiều nước trong đó có cả Mỹ và châu Âu thì trong tháng 1 năm 2012, thâm hụt thương mại của Nhật Bản đã vượt quá con số 1.400 tỷ yên (tương đương 19 tỷ USD). Hiǹh 4. Thâm hụt thương mại của Nhật Bản (tỷ Yên) Nguồn: trade Thâm hụt thương mại đến lượt nó lại làm giảm dự trữ ngoại tệ và làm cho cán cân thanh toán quốc tế chuyển dịch theo chiều hướng xấu. Tính đến hết tháng 12 năm 2011, mức thặng dư cán cân thanh toán quốc tế của Nhật Bản chỉ đạt 562,4 tỷ yên, giảm mạnh từ mức 2.017 tỷ yên cùng kỳ năm trước. Hiǹh 5. Thặng dư tài khoản vãng lai Nhật Bản (tỷ Yên) Nguồn: account Kinh tế Nhâṭ Bản... 13 Mặc dù hiện tại, cán cân thanh toán quốc tế của Nhật Bản vẫn giữ thặng dư. Tuy nhiên, mức thặng dư này cũng có thể biến mất trong một vài năm tới nếu tình trạng thâm hụt thương mại vẫn tiếp tục tiếp diễn. Theo dự báo của một số nhà kinh tế cán cân thanh toán quốc tế của Nhật Bản sẽ thâm hụt vào năm 2015. - Thứ hai, vấn đề nợ công: Nợ công của Nhật Bản trong những năm gần đây đã tăng đến mức kỷ lục xấp xỉ 200% GDP và vẫn tiếp tục tăng lên qua từng năm. Hiện nay đã đạt con số hơn 13.800 tỷ USD so với tổng sản phẩm quốc nội khoảng 6.000 tỷ USD và được dự báo vẫn tiếp tục tăng do Chính phủ vẫn phải tiếp tục phát hành trái phiếu nhằm đáp ứng nhu cầu chi tiêu công. Theo IMF, nếu nợ công của Nhật Bản tăng lên 1% thì lãi suất phải thanh toán lên tới 2% GDP và càng làm cho nợ thêm chồng chất. Nợ công tăng cũng làm cho thị trường chứng khoán Nhật Bản mất điểm mạnh. Chỉ số Nikkei-225 hiện đã tụt xuống mức hơn 8.000 điểm, là mức thấp nhất kể từ tháng 3/2009 tới nay. Mặc dù nguy cơ vỡ nợ của Nhật Bản thấp hơn nhiều so với các nước khu vực đồng Euro do 95% trái phiếu chính phủ nằm trong tay các nhà đầu tư trong nước. Nhưng trước áp lực của cộng đồng quốc tế, Chính phủ Nhật Bản buộc phải tìm những giải pháp hiệu quả để giảm nợ công. Tuy nhiên, hiện nay việc giải quyết vấn đề nợ công của Nhật Bản đang phải đối mặt với hai thách thức. Một là, tỉ lệ tiết kiệm giảm sút do tình trạng lão hóa dân số. Số người ở độ tuổi về hưu đang tăng. Họ phải rút tiền tiết kiệm để chi tiêu vào lúc tuổi già. So với thời kỳ hoàng kim những năm 1980, khi mà tỷ lệ tiết kiệm ở Nhật Bản lên tới mức 20% thì hiện nay con số này đã tụt xuống còn 5%. Theo dự báo của một số nhà kinh tế, tỷ lệ tiết kiệm của Nhật Bản sẽ tụt xuống mức dưới 0% trong những năm tới. Tiết kiệm trong nước giảm, việc giải quyết vấn đề nợ công chủ yếu dựa vào nguồn thu thuế và vay mượn nước ngoài. Dự kiến năm 2013, mỗi người dân Nhật Bản phải đóng thêm 2,1% tiền thuế và đến năm 2015, thuế tiêu thụ tăng lên hai lần mức 5% hiện nay. Hai là, lãi suất công trái dài hạn thấp. Hiện lãi suất công trái dài hạn của Nhật Bản chỉ ở mức 1,3%. Đây là mức lãi suất thấp nhất trong số các quốc gia công nghiệp phát triển. Với mức lãi suất thấp như vậy, các nhà đầu tư nước ngoài không muốn đầu tư vào trái phiếu Nhật Bản. Vì thế, việc vay tiền nước ngoài bằng cách phát hành công trái quốc tế cũng không mấy khả quan. Với những khó khăn trên, theo quan điểm của một số nhà phân tích tài chính, Nhật Bản rất có thể sẽ là một “bản sao” của Hy Lạp, nhưng với hậu quả tiêu cực gấp bội. Có người còn ví von rằng khủng hoảng nợ công châu Âu chỉ là “khúc dạo đầu” còn nếu khủng hoảng nợ công Nhật Bản nổ ra thì đó mới thực sự là một “bản đại giao hưởng”. Mặc dù Chính phủ Nhật Bản vẫn trấn an dư luận rằng nợ công của Nhật Bản phần lớn là khoản nợ từ dân chúng trong nước, nên vẫn có thể đứng vững so với các nước khác. Tuy nhiên, sự tương tác lẫn nhau giữa châu Âu và Nhật Bản đang làm cho dư luận các nước lo ngại rằng nếu như “sương mù nợ công” Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam - 4/2012 14 tiếp tục tăng lên dày đặc và kéo dài sẽ làm cho tín nhiệm tài chính của Nhật Bản bị hạ thấp hơn nữa, hậu quả tất sẽ gây ra chấn động chẳng kém gì trận động đất và sóng thần ngày 11/3/2011. - Thứ ba, tác động của cuộc khủng hoảng nợ công tại châu Âu: Có thể có rất nhiều tác động xung quanh cuộc khủng hoảng này, song, ở đây chúng tôi chỉ xin đề cập đến 2 tác động liên quan trực tiếp đến Nhật Bản về thương mại và tài chính. Về mặt thương mại, châu Âu là một trong những thị trường xuất khẩu lớn của Nhật Bản. Kinh tế các nước châu Âu lâm vào khủng hoảng, nhu cầu nhập khẩu giảm sút làm cho lượng hàng xuất khẩu từ Nhật sang khu vực này giảm mạnh. Chỉ tính riêng tháng 1/2012, thặng dư thương mại của Nhật Bản với Liên minh châu Âu (EU) đã giảm tới 98,9% xuống còn 700 triệu yên do nhu cầu nhập khẩu ô tô và thiết bị điện tử vào thị trường này giảm mạnh. Về mặt tài chính, Nhật Bản là nước nắm giữ một lượng trái phiếu khá lớn của các quốc gia khu vực đồng Euro. Theo Quy ̃tiền tê ̣Quốc tế (IMF) hiện nay lượng trái phiếu châu Âu mà Nhật Bản nắm giữ lên tới 30,8 tỉ USD, chỉ đứng sau hai nước lớn của EU là Pháp và Đức. Do khủng hoảng nợ công, các nước EU không có khả năng thanh toán khoản trái phiếu này làm cho tình hình nợ công của Nhật Bản càng trở nên nghiêm trọng. - Thứ tư, những bất ổn xẩy ra ở Trung Đông: Những bất ổn xẩy ra ở Trung Đông, đặc biệt là Iran hiện nay, có tác động đáng kể đối với nguồn dầu nhập khẩu của Nhật Bản bởi vì phần lớn lượng dầu nhập khẩu của Nhật Bản là từ khu vực này. Hơn nữa, đối với Nhật Bản hiện nay, nhu cầu dầu thô là vô cùng cấp bách để chạy nhiệt điện trong bối cảnh hậu khủng hoảng nhà máy điện hạt nhân Fukushima I. Hiện nay, vấn đề trừng phạt kinh tế đối với Iran đang được Mỹ phát động. Nhật Bản là khách hàng nhập dầu thô lớn thứ nhì của Iran và Iran cũng là nước cung cấp dầu lớn thứ tư cho Nhật Bản (sau Ả Rập Xê Út; Các Tiểu Vương quốc Ả Rập thống nhất; và Qatar). Lượng dầu thô nhập khẩu từ Iran chiếm khoảng 10% tổng lượng nhập khẩu dầu thô của Nhật Bản. Hiện nay, mặc dù những bất ổn chưa thực sự xẩy ra ở Iran, song trước yêu cầu của Mỹ, Nhật Bản đã tuyên bố giảm lượng dầu nhập khẩu từ Iran xuống mức 8,6% nhằm góp phần trừng phạt kinh tế Tehran do chương trình hạt nhân của quốc gia Hồi giáo này. Nhật Bản đã phải yêu cầu các nước Ả Rập tăng xuất khẩu cho Nhật để bù lại lượng dầu thiếu hụt. 4. Triển vọng kinh tế Nhật Bản năm 2012 và quan hệ thương mại Việt Nam – Nhật Bản Mặc dù còn phải đối mặt với khá nhiều khó khăn, song theo một số dự báo, kinh tế Nhâṭ Bản năm 2012 se ̃ tăng trưởng dương do sản xuất công nghiêp̣ tăng trở laị nhờ gói kích thích tài chính phát huy tác duṇg trong khi quá trình tái thiết sau thảm hoạ tăng tốc. Những tín hiệu tích cực trong những tháng đầu năm 2012 đã cho thấy triển vọng kinh tế của Nhật Bản năm nay khá khả quan. Kinh tế Nhâṭ Bản... 15 Đơn đặt hàng tăng lên; Sản lượng công nghiệp tháng 12/2011 tăng 3,8%, tháng 1/2012 tăng 2%; dự tính tháng 2 và tháng 3 tăng khoảng 1,7%. Văn phòng Nội các Nhật Bản mới đây đã cho biết chỉ số tiêu dùng vốn tương lai đã tăng 3,4%, cao hơn mức dự đoán trước đó (vào tháng 12/2011, chỉ số này giảm 7,1%). Chỉ số Nikkei 225 đã vượt 10.000 điểm lần đầu tiến trong vòng 7 tháng qua trong bối cảnh gói cứu trợ Hi Lạp được đảm bảo và triển vọng gia tăng xuất khẩu của Nhật Bản tới thị trường châu Âu. Các nhà sản xuất thiết bị trong đó có Fanuc, Tokyo Election cho biết họ đã đạt mức tăng trưởng cao trong thời gian vừa qua. Doanh số bán lẻ và sản xuất công nghiệp tháng 1/2012 cũng tăng 2%, vượt mức dự đoán của các nhà kinh tế. Theo dự báo của Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF), GDP của Nhật Bản năm 2012 sẽ tăng trưởng 1,7%; sản xuất công nghiêp̣ se ̃tăng trung bình 9,5%. Kinh tế Nhật Bản phục hồi cũng báo hiệu một triển vọng tốt đẹp của quan hệ kinh tế giữa Việt Nam và Nhật Bản; đặc biệt là trong lĩnh vực thương mại. Trong nhiều năm qua, Nhật Bản luôn là một trong 3 đối tác kinh tế hàng đầu của Việt Nam. Tổng kim ngạch thương mại hai chiều giữa Việt Nam và Nhật Bản luôn vận động theo xu hướng đi lên với tốc độ tăng trưởng trung bình hàng năm khoảng 20%, dường như không có năm nào đi xuống trừ năm 2009 do khủng hoảng tài chính toàn cầu. Năm 2011 tổng kim ngạch buôn bán giữa hai nước đã đạt trên 21 tỷ USD vượt xa so với dự kiến đặt ra. Hiện nay hai nước đang đặt mục tiêu nâng tổng kim ngạch lên gấp 1,5 lần đạt 30 tỷ USD vào năm 2015. Chỉ qua những con số này cũng có thể dự đoán được chiều hướng vận động tích cực của hoạt động đầu tư và thương mại Việt – Nhật trong năm nay. Ngoài ra có thể kể thêm một số lý do để khẳng định xu hướng này: Thứ nhất, xu hướng gia tăng của hàng xuất khẩu Việt Nam vào thị trường Nhật Bản sẽ tiếp tục được khẳng định do (1) tiềm năng thị trường vẫn còn rất lớn (Hàng xuất khẩu của Viêṭ Nam mới chiếm khoảng 1% tổng kim ngạch nhập khẩu của Nhật Bản, thấp xa so với một số nước ASEAN khác); (2) nhu cầu tái thiết vùng Đông Bắc của Nhật Bản về các mặt hàng thiết yếu và xây dựng như dệt may, thủy hải sản, đồ gỗ, cao su vẫn rất cao. Đây chính là những mặt hàng mà Việt Nam có thế mạnh; (3) đồng yên mạnh cũng góp phần làm tăng thêm khả năng cạnh tranh cho hàng xuất khẩu của Việt Nam vào thị trường Nhật Bản. Thứ hai, sau chuyến thăm của Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đến Nhật Bản, hai bên đã chính thức khởi động giai đoạn IV Sáng kiến chung Việt Nam - Nhật Bản về cải thiện môi trường đầu tư của Việt Nam với 70 hạng mục, hứa hẹn đưa mối quan hệ hợp tác kinh tế, thương mại song phương giữa hai nước lên tầm cao mới. Không chỉ xuất khẩu của Việt Nam sang Nhật Bản gia tăng mà hàng nhập khẩu máy móc, thiết bị, vật tư từ Nhật Bản vào Việt Nam theo các hợp đồng đầu tư xây dựng cũng sẽ gia tăng mạnh. Thứ ba, những động thái của hàng loạt các cuộc tiếp xúc và khảo sát thị trường của các doanh nghiệp hai nước trong thời gian gần đây cũng cho thấy triển vọng của một sự Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam - 4/2012 16 bùng nổ về trao đổi thương mại giữa hai nước trong thời gian tới. _________________________ Chú thích 1. Sau khủng hoảng hạt nhân Fukushima, chỉ còn hai trong số 54 lò phản ứng thương mại của Nhật Bản còn hoạt động, trong khi cuộc cân nhắc giữa nguy cơ và lợi ích mà điện hạt nhân mang lại đang khiến chính phủ cũng như người dân đau đầu. 2. “Chính phủ Nhật Bản ngày 17/8/2011 đã thông qua quyết định cho phép tái khởi động lò phản ứng số 3 của nhà máy điện hạt nhân Tomari trên đảo Hokkaido. Đây là lò phản ứng hạt nhân đầu tiên ở Nhật Bản được khởi động lại kể từ khi xảy ra sự cố hạt nhân do ảnh hưởng của thảm họa kép ngày 11/3”. ngày 18/8/2011. “Thủ tướng Yoshihiko Noda kêu gọi khởi động lại các nhà máy càng sớm càng tốt. Ông ủng hộ việc dần thoát khỏi sự lệ thuộc vào điện hạt nhân trong vài thập kỷ tới. Tuy nhiên, lo ngại về phản ứng của dư luận, Noda cho biết sẽ không cho khởi động lại các lò phản ứng nếu như không được sự chấp thuận của các nhà lãnh đạo cộng đồng địa phương.” “Với hy vọng xoa dịu nỗi lo lắng về an toàn của dân cư địa phương, chính phủ đã yêu cầu các đơn vị vận hành các nhà máy kiểm tra thử việc vận hành trong những điều kiện xấu nhất. Những mô phỏng trên máy tính được tạo ra để cho thấy các lò phản ứng có thể chống đỡ như thế nào với một thảm họa thiên nhiên khủng khiếp như trận động đất 9 độ Richter, cũng như trận sóng thần đã làm tê liệt nhà máy điện hạt nhân Fukushima I, dẫn đến hiện tượng tan chảy lõi ở ba lò phản ứng sau khi hệ thống làm mát ở những lò này bị hỏng”. gioi/phan-tich/2012/03/tranh-cai-ve-dien-hat-nhan- o-nhat-sau-song-than/ 3. Sau cuộc hội đàm tại Tokyo chiều 31/10/2011 trong khuôn khổ chuyến thăm chính thức Nhật Bản từ ngày 30/10 đến ngày 02/11, Thủ tướng Việt Nam và Nhật Bản đã ký thỏa thuận hợp tác xây dựng nhà máy điện hạt nhân Ninh Thuận 2 và khai thác đất hiếm ở Việt Nam. Tài liệu tham khảo 1. Annual Report on the Japanese Economy and Public Finance 2011: Enhance the Essential Power of the Japanese Economy, Cabinet Office, Government of Japan, July 2011. 2. Bank of Japan, Outlook for Economic Activity and Prices, (October 2011), October 27, 2011. 3. Chris Oliver, Bank of Japan Cuts Economic Outlook, Holds Rates, Market Watch, November 16, 2011. 4. Economic and Fiscal Projections for Medium to Long Term Analysis, Cabinet Office, Government of Japan, August 12, 2011. 5. IMF, World Economic Outlook, monthly (from March 2011 to Febbruary 2012). 6. JETRO: Monthly Japanese Trade and Investment Statistics (from March 2011 to February 2012) 7. Monthly Economic Report Executive Summary (From March 2011 to February 2012); Cabinet Office, Government of Japan 8. Tạp chí Nghiên cứu Đông Bắc Á, số 2 (132) năm 2012.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdf30759_103175_1_pb_5591_2012779.pdf
Tài liệu liên quan