Một số dạng tình huống có vấn đề trong dạy học Những nguyên lí của Chủ nghĩa Mác-Lênin về chủ nghĩa xã hội - Vũ Đình Bảy

2.4. Tình huống lí giải – giải thích Đây là tình huống phổ biến, xuất hiện nhiều trong học tập và nghiên cứu khoa học. Tình huống này xuất hiện khi người học gặp phải những hiện tượng, sự kiện cần phải lí giải nó một cách khoa học để có nhận thức và hành động đúng. Tình huống lí giải – giải thích có thể tồn tại dưới nhiều hình thức khác nhau. Có khi nó gắn liền với yêu cầu giải thích một câu trích kinh điển; có khi yêu cầu đưa ra các luận cứ để chứng minh cho một ý kiến hay một lập luận có tính chất quy luật. Ví dụ, khi giảng dạy nội dung về thuộc tính cơ bản của giai cấp công nhân trong nền sản xuất công nghiệp hiện đại, giảng viên có thể nêu tình huống lí giải – giải thích với yêu cầu giải thích câu nói kinh điển của C. Mác khi bàn về sự biến động của các giai cấp dưới sự tác động của nền đại công nghiệp: “Tất cả các giai cấp khác đều suy tàn và tiêu vong cùng với sự phát triển của đại công nghiệp, còn giai cấp vô sản lại là sản phẩm của bản thân nền đại công nghiệp” [4, tr. 56] hoặc “Trong tất cả các giai cấp hiện đang đối lập với giai cấp tư sản thì chỉ có giai cấp vô sản là giai cấp thật sự cách mạng” [5, tr. 91]. Hoặc khi giảng dạy về những căn cứ để các nhà kinh điển đưa ra khái niệm giai cấp công nhân, giảng viên có thể yêu cầu sinh viên lý giải sự giống nhau và khác nhau giữa hai khái niệm “giai cấp công nhân” và “giai cấp vô sản” và chỉ ra ý nghĩa của sự phân biệt đó. Trên đây là những dạng THCVĐ cơ bản, có thể được kiến tạo trong dạy học môn CNXHKH theo kiểu nêu vấn đề. Việc phân chia các loại tình huống có vấn đề nêu trên chỉ có tính chất tương đối. Trong quá trình xây dựng tình huống, nhiều khi cùng một nội dung và cách thức giải quyết vấn đề như nhau nhưng có thể làm biến đổi tình huống ở dạng này hoặc dạng khác. Việc chuyển đổi dạng tình huống có tác dụng làm đa dạng hóa các yêu cầu học tập đối với sinh viên, từ đó góp phần làm tăng hứng thú trong quá tình giải quyết tình huống trên lớp. 3. Trong xu thế đổi mới PPDH theo hướng “lấy người học làm trung tâm”, phương pháp DHNVĐ đóng vai trò rất quan trọng và có nhiều ưu thế. Khả năng tích cực hóa mạnh mẽ các hoạt động nhận thức của người học và tính chất dung nạp với hầu hết các PPDH khác đã khiến cho PPDH này có vị trí đặc biệt quan trọng trong hệ thống các PPDH tích cực hiện nay. Chính vì thế, việc nghiên cứu một cách có hệ thống và vận dụng thường xuyên phương pháp nêu vấn đề trong dạy học các môn khoa học Mác - Lênin, tư tưởng Hồ chí Minh nói chung, những nguyên lí của chủ nghĩa Mác - Lênin về chủ nghĩa xã hội nói riêng là một trong những giải pháp góp phần nâng cao chất lượng dạy và học các môn khoa học này trong các trường đại học hiện nay. Với tính cách là một PPDH tích cực, việc vận dụng phương pháp nêu vấn đề trong dạy học những nguyên lí của chủ nghĩa Mác - Lênin về chủ nghĩa xã hội thực sự không phải dễ dàng. Nó gắn liền với những yêu cầu rất cao về trình độ chuyên môn, kỹ năng thực hành phương pháp của người giảng viên cũng như năng lực học tập của sinh viên, trong đó kiến tạo THCVĐ là kỹ năng chiếm vị trí hàng đầu. Chính vì thế, nắm vững các dạng THCVĐ trong dạy học các nội dung này là một trong những yêu cầu hàng đầu nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng phương pháp nêu vấn đề trong giai đoạn hiện nay.

pdf8 trang | Chia sẻ: thucuc2301 | Lượt xem: 722 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Một số dạng tình huống có vấn đề trong dạy học Những nguyên lí của Chủ nghĩa Mác-Lênin về chủ nghĩa xã hội - Vũ Đình Bảy, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tạp chí Khoa học và Giáo dục, Trường Đại học Sư phạm Huế ISSN 1859-1612, Số 01(21)/2012, tr. 129-135 MỘT SỐ DẠNG TÌNH HUỐNG CÓ VẤN ĐỀ TRONG DẠY HỌC NHỮNG NGUYÊN LÍ CỦA CHỦ NGHĨA MÁC-LÊNIN VỀ CHỦ NGHĨA XÃ HỘI VŨ ĐÌNH BẢY - ĐẶNG XUÂN ĐIỀU Trường Đại học Sư phạm - Đại học Huế Tóm tắt: Trong quá trình dạy học những nguyên lí cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin về chủ nghĩa xã hội, việc vận dụng phương pháp dạy học nêu vấn đề (PPDHNVĐ) tỏ ra rất phù hợp với những đòi hỏi bức thiết từ mục tiêu và đặc thù tri thức của nội dung bài dạy. Tình huống có vấn đề (THCVĐ) là một trong những đặc trưng cơ bản, hạt nhân và trọng tâm nhất của phương pháp dạy học này. Vì thế, việc nắm vững các dạng THCVĐ trong dạy học các nội dung này là yêu cầu hàng đầu nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng phương pháp nêu vấn đề trong dạy học hiện nay. 1. Khi bàn về PPDHNVĐ, trước hết cần khẳng định việc vận dụng phương pháp này trong dạy học không phải là hiện tượng mới mẻ trên thế giới. Trước đây, từ những năm 70 của thế ký XIX, nhiều nhà giáo dục học đã nghiên cứu về vấn đề này và nêu lên phương pháp tìm tòi, phát kiến trong dạy học nhằm động viên và hình thành năng lực nhận thức cho người học bằng cách lôi cuốn họ tự lực tham gia phân tích các sự vật, hiện tượng chứa đựng những mâu thuẫn khách quan nhằm khơi dậy và phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của người học. Riêng đối với nước ta, việc nghiên cứu và vận dụng phương pháp dạy học (PPDH) này là một bước tiến của khoa học sư phạm trong việc tìm kiếm các phương pháp mang lại hiệu quả cao trong dạy học. Nếu các PPDH truyền thống trước kia hướng người học chủ yếu tiếp thu kiến thức một cách thụ động, thì PPDHNVĐ cố gắng tạo ra môi trường để kích thích sự chủ động trong việc tìm tòi, khám phá tri thức của người học, giúp họ không chỉ nắm vững những kiến thức cơ bản mà còn biết vận dụng những tri thức đó vào thực tiễn một cách linh hoạt. Khi bàn về đặc trưng cơ bản của PPDHNVĐ, các nhà khoa học giáo dục trong và ngoài nước đã đưa ra nhiều quan điểm khác nhau. Chẳng hạn như: nhà nghiên cứu giáo dục người Ba Lan V. O. Kon cho rằng, đặc trưng quan trọng nhất của PPDH này là “người học được giúp đỡ những điều cần thiết để giải quyết vấn đề, kiểm tra cách giải quyết đó và cuối cùng là quá trình hệ thống hóa, củng cố các kiến thức tiếp thu được”. [2, tr. 103]; nhà giáo dục I. Ia. Lecne thì cho rằng: “Dạy học nêu vấn đề là phương pháp dạy học trong đó sinh viên tham gia một cách có hệ thống vào quá trình giải quyết các vấn đề và các bài toán có vấn đề được xây dựng theo nội dung tài liệu trong chương trình” [3, tr. 6]. Về vấn đề này, Nguyễn Ngọc Bảo trong cuốn “Phát huy tính tích cực, tính tự lực của học sinh trong quá trình dạy học”, lại cho rằng “Dạy học nêu vấn đề là hình thức dạy học dựa trên những quy luật của sự lĩnh hội tri thức và cách thức hoạt động một cách sáng tạo bao gồm sự kết hợp các phương pháp dạy và học có những nét cơ bản của sự tìm tòi khoa học phát triển tính tích cực, tính tự lực và năng lực sáng tạo” [1, tr . 41]. Nhìn chung các quan điểm trên đây đã nêu lên được những đặc trưng cơ bản nhất của PPDHNVĐ, mục đích và ý nghĩa của phương pháp này trong việc phát huy tính tích VŨ ĐÌNH BẢY – ĐẶNG XUÂN ĐIỀU 130 cực, chủ động, tự giác, sáng tạo của người học. Khái quát từ những quan điểm kể trên, có thể hiểu: PPDHNVĐ là một phương pháp dạy học mà ở đó quá trình dạy và học được tổ chức bằng cách tạo ra THCVĐ và triển khai quá trình giải quyết tình huống đó nhằm để tạo ra ở người học nhu cầu tự phát hiện và giải quyết các nhiệm vụ học tập để tiếp thu tri thức, rèn luyện kỹ năng và hình thành tư tưởng, thái độ. Trong quá trình dạy học những nguyên lí cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin về chủ nghĩa xã hội, việc vận dụng PPDHNVĐ tỏ ra rất phù hợp với đặc thù tri thức của bộ môn, đáp ứng tốt cho những đòi hỏi bức thiết từ mục tiêu của nội dung chủ nghĩa xã hội khoa học (CNXHKH) trong việc trang bị cho sinh viên hệ thống tri thức về chủ nghĩa xã hội, góp phần trực tiếp hinh thành và bồi dưỡng lòng yêu nước, yêu chủ nghĩa xã hội, có niềm tin tất thắng vào chủ nghĩa xã hội và công cuộc đổi mới của đất nước ta; nâng cao tính tích cực chính trị - xã hội của công dân trong sự nghiệp đổi mới đất nước. Đồng thời, môn học còn giúp sinh viên củng cố phương pháp tư duy biện chứng trong nhận thức và hành động, biết vận dụng những nguyên lý cơ bản của CNXHKH để phân tích và lý giải các vấn đề thực tiễn trên lập trường giai cấp công nhân. Ngoài ra, dạy học nêu vấn đề với tư cách là một PPDH tích cực, đáp ứng tốt với những định hướng đổi mới PPDH trong giai đoạn hiện nay. 2. Quan niệm về PPDHNVĐ cho thấy, THCVĐ là một trong những đặc trưng cơ bản, hạt nhân và trọng tâm nhất của dạy học nêu vấn đề. Các nhà giáo dục học cho rằng, tạo ra một chuỗi THCVĐ và điều khiển các hoạt động nhận thức của sinh viên nhằm giải quyết các tình huống đó một cách độc lập, đó là thực chất của dạy học nêu vấn đề. Điều đó có nghĩa là nếu không kiến tạo được tình huống thì không thể có PPDH này. Vấn đề có thể là một sự kiện, một tình huống trong bài học hay một hiện tượng đã và đang diễn ra trong thực tế cuộc sống chứa đựng những yêu cầu cần lý giải. THCVĐ theo A. M. Machiuskin, nó phải “xuất hiện sự không tương ứng, sự xung khắc giữa cái đã biết và cái đòi hỏi” [6, tr. 288], còn theo M. I. Makhơnutốp, nó phải “là trạng thái tâm lý của sự khó khăn về mặt trí tuệ nảy sinh ở con người trong những tình huống khách quan” [7; tr 218]. Từ đây, có thể thấy THCVĐ là loại tình huống chứa đựng mâu thuẫn bên trong của sự vật, hiện tượng, đó có thể là mâu thuẫn giữa lý thuyết cũ và lý thuyết mới, giữa lý thuyết với thực tiễn, giữa cái đã biết với cái chưa biết cần giải đáp. Mẫu thuẫn đó làm nên hạt nhân của các bài toán nhận thức mà thông qua quá trình giải quyết nó, người học lĩnh hội được nội dung tri thức một cách tự giác, tích cực và tạo được hứng thú của sự nhận thức sáng tạo. Cũng giống như các bộ phận khác, bản thân những nguyên lí của chủ nghĩa Mác-Lênin về chủ nghĩa xã hội cũng chứa đựng các tình huống có vấn đề. Trên cơ sở nội dung, đặc điểm tri thức và đối tượng nghiên cứu, giảng viên tiến hành thiết kế các bài tập nhận thức có chứa đựng mâu thuẫn giữa cái đã biết và cái sẽ tìm. Kết quả của quá trình thiết kế các đơn vị kiến thức của bộ môn thành các tình huống có vấn đề sẽ tạo ra những bài tập nhận thức. Đó là quá trình cấu trúc lại một cách sư phạm mâu thuẫn khách quan tồn tại vốn có trong chính bản thân của môn học thành mâu thuẫn chủ quan của sinh viên. Ở đây cần chú ý một điều là muốn THCVĐ hoàn thành được chức năng quan trọng của nó là kích MỘT SỐ DẠNG TÌNH HUỐNG CÓ VẤN ĐỀ TRONG DẠY HỌC 131 thích tư duy và năng lực nhận thức của sinh viên thì nó phải được chủ thể tiếp nhận và giải quyết. Do đó chủ thể cần phải xác định được cái đã cho (dự kiến) làm điểm xuất phát của quá trình tư duy; cái đã biết dùng để phục vụ cho quá trình giải đáp các vấn đề đặt ra (đó có thể là những tri thức cũ đã được trang bị, kiến thức xã hội tích lũy và kinh nghiệm thực tiễn cuộc sống). Khi hội đủ những điều kiện đó, các dấu hiệu của THCVĐ bắt đầu xuất hiện và chủ thể (người học) đã có được sự chuẩn bị ở chừng mực nào đó trên con đường tìm kiếm cách thức giải quyết vấn đề (có thể với nhiều đáp án khác nhau). Ví dụ như với nội dung “Cách mạng xã hội chủ nghĩa”, khi bàn về xu hướng phát triển tất yếu các dân tộc trên phạm vi toàn thế giới, giảng viên đưa ra THCVĐ với yêu cầu như sau: Có ý kiến cho rằng, trong thời đại ngày nay, với những gì đã diễn ra của chủ nghĩa xã hội hiện thực, việc Việt Nam kiên trì con đường đi lên chủ nghĩa xã hội chỉ là mong muốn chủ quan của những người cộng sản chứ không phải là một tất yếu lịch sử. Anh (chị) hãy cho biết ý kiến của mình về luận điểm trên. Ở tình huống này, khi bắt đầu tiếp cận, sinh viên có thể nhận thức được rằng đây là một biểu hiện trong hệ thống các quan điểm sai trái của các thế lực thù địch nhằm tạo ra xu hướng xét lại về con đường tiến lên của dân tộc Việt Nam. Cái mà sinh viên đã biết là những nhận thức về nguyên nhân và bản chất của sự tan rã và sụp đổ của hệ thống xã hội chủ nghĩa ở Liên xô và Đông Âu. Đó là sự thất bại của một cách làm không khoa học, mắc nhiều sai lầm và phản bội Chủ nghĩa Mác chứ hoàn toàn không phải là sự lỗi thời của chủ nghĩa xã hội với tư cách là một học thuyết khoa học và cách mạng, và càng không phải với tư cách là một phong trào hiện thực khi xem xét nó trong bối cảnh hiện nay. (Những hiểu biết này người học đã được trang bị qua các bài học trước đó và những kiến thức trong chương trình giáo dục phổ thông). Cái mà sinh viên chưa biết và cần phải tìm lời giải đáp là việc Việt Nam tiếp tục kiên định con đường đi lên chủ nghĩa xã hội có phải “chỉ là mong muốn chủ quan của những người cộng sản chứ không phải là một tất yếu khách quan?”. Đâu là cơ sở lý luận và thực tiễn của sự kiên định đó? Ở đây, với tình huống này, mâu thuẫn giữa cái đã biết (khách quan, tất yếu) và cái chưa biết (chủ quan, áp đặt) đã được hình thành, vấn đề đã xuất hiện và người học đã hội đủ điều kiện để thực hiện công việc tiếp nhận và giải quyết tình huống trên. Một trong những công việc quan trọng của người giảng viên khi sử dụng PPDH này trong giảng dạy môn CNXHKH là cần phải nắm vững các dạng tình huống để có thể phân loại được chúng. Đó là cơ sở để rèn luyện những kỹ năng kiến tạo tình huống phù hợp cho từng loại. Dựa vào các kiểu mâu thuẫn và đặc thù tri thức của bộ môn, có thể chia tình huống có vấn đề trong quá trình giảng dạy môn CNXHKH thành một số dạng như sau. 2.1. Tình huống nghịch lý Đây là tình huống ẩn chứa mâu thuẫn và “sự nổi loạn” bởi cái bản chất bị che đậy bằng sự lập luận bên ngoài. Vấn đề được đưa ra mới thoạt nhìn dường như là vô lý, không phù hợp với quy luật, lý thuyết hoặc thực tiễn đã được thừa nhận ở người học trước đó. Tình huống cơ bản theo kiểu này được tạo ra bằng cách giới thiệu những sự kiện, hiện tượng trái với quan điểm thông thường và quan điểm của cá nhân người học. Cách thức VŨ ĐÌNH BẢY – ĐẶNG XUÂN ĐIỀU 132 giải quyết ở đây là tìm và phân tích chỗ “nghịch lý” trong cách hiểu vấn đề để từ đó tìm tới cách hiểu mới đã được bổ sung bởi điều kiện mới. Chẳng hạn, khi dạy nội dung “xã hội xã hội chủ nghĩa”, sau khi đã phân tích cho sinh viên thấy được những đặc trưng cơ bản của xã hội xã hội chủ nghĩa và cộng sản chủ nghĩa, giảng viên có thể đặt ra một tình huống theo dạng nghịch lý, như: Với những đặc trưng mà những nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lênin nêu ra, xã hội chủ nghĩa đã thể hiện là một chế độ xã hôi ưu việt nhất từ trước đến nay, nhưng tại sao trong thực tiễn, nó đã bị sụp đổ ngay chính trên quê hương của Cách mạng tháng Mười ? Việc xây dựng tình huống theo dạng này không chỉ phù hợp với đặc thù tri thức của bộ môn mà còn có tác dụng rất lớn trong việc đáp ứng nguyên tắc quán triệt tính thực tiễn trong dạy học. Thông qua việc thường xuyên giải quyết tình huống dạng này, sinh viên sẽ khắc sâu tri thức bài giảng nhờ có những luận chứng từ thực tiễn, củng cố niềm tin vào tính khoa học và cách mạng của những nguyên lý, quy luật. Đồng thời sinh viên sẽ có cơ hội được rèn luyện kỹ năng vận dụng các nguyên lý vào giải thích các sự kiện của hiện thực, từ đó luôn tỉnh táo và biết cách làm thất bại âm mưu muốn lấy những mảng tối của thực tiễn để bác bỏ tính khoa học và cách mạng của các nguyên lý của CNXHKH. 2.2. Tình huống lựa chọn Đây là tình huống có vấn đề xuất hiện khi chủ thể nhận thức đứng trước hai hay nhiều phương án giải quyết, phương án nào cũng vừa chứa đựng lý lẽ phù hợp nhưng đồng thời cũng vừa chứa đựng những nhược điểm cơ bản, song chỉ có một lựa chọn là duy nhất đúng bằng những cơ sở logíc và thực tiễn. Ví dụ, như khi giảng dạy lí luận về cách mạng không ngừng và sự vận dụng nguyên lí này của Đảng ta trong việc xác định con đường phát triển của cách mạng Việt Nam, giáo viên có thể đưa ra THCVĐ theo kiểu lựa chọn như sau: Sau khi hoàn thành cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, thực tiễn đặt Việt Nam đứng trước “ngã ba đường”: Một là: Dừng lại ở cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân để củng cố những thành quả của cuộc cách mạng này. Hai là: Đưa đất nước tiến lên chủ nghĩa tư bản để thực hiện sự chuyển biến một cách tuần tự. Ba là: Đưa đất nước quá độ lên chủ nghĩa xã hội, bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa . Đảng và nhân dân ta đã chọn con đường bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa, quá độ lên chủ nghĩa xã hội để đi. Theo anh (chị), đâu là cơ sở lí luận và thực tiễn của sự lựa chọn đúng đắn đó ? Dưới sự hướng dẫn của giảng viên, mỗi sinh viên sẽ tự lựa chọn phương án giải quyết và trao đổi, tranh luận với bạn bè để bảo vệ hoặc phản đối. Quá trình tranh luận của sinh viên và hệ thống hóa tri thức của giảng viên sẽ đem đến kết quả là: sinh viên nắm vững MỘT SỐ DẠNG TÌNH HUỐNG CÓ VẤN ĐỀ TRONG DẠY HỌC 133 lí luận về cách mạng không ngừng của chủ nghĩa Mác - Lênin; hiểu rõ sự vận dụng sáng tạo lí luận đó của Đảng ta đối với cách mạng Việt Nam; vững tin vào con đường xã hội chủ nghĩa mà Đảng và nhân dân ta đã lựa chọn. Bởi vì nguyên lí nguyên lí về cách mạng không ngừng của chủ nghĩa Mác - Lênin đã chỉ ra: cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa được tiến hành một cách vừa tuần tự vừa liên tục. Tuần tự là để giải quyết những nhiệm vụ cụ thể, trước mắt, còn liên tục là nhằm giải quyết nhiệm vụ cơ bản, lâu dài. Sau khi hoàn thành mục tiêu của giai đoạn đầu thì chuyển ngay lên giai đoạn tiếp theo, giữa các giai đoạn này “không có bức tường thành nào ngăn cách”. Đối với thực tiễn nước ta, việc đưa đất nước quá độ lên chủ nghĩa xã hội, bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa là sự lựa chọn chủ quan nhưng nó đúng với quy luật khách quan khi con đường này phù hợp với xu thế phát triển của lịch sử, phù hợp với đặc điểm phát triển cách mạng Việt Nam và phù hợp với khát vọng tha thiết của nhân dân. 2.3. Tình huống bác bỏ Đó là tình huống có vấn đề khi phải bác bỏ một kết luận hay luận đề sai lầm. Trong các nguyên lí của chủ nghĩa Mác-Lênin về chủ nghĩa xã hội, tình huống theo dạng này chủ yếu được kiến tạo bằng cách đưa ra những luận điệu xuyên tạc của các thế lực thù địch trong việc chống phá chủ nghĩa Mác-Lênin và phủ nhận các thành tựu của chủ nghĩa xã hội hiện thực. Các luận điệu này được các thế lực phản động dùng để gieo rắc tâm lý nghi ngờ về tính khoa học và cách mạng của những nguyên lý của chủ nghĩa Mác - Lênin, từ đó đòi xét lại và xóa bỏ chủ nghĩa Mác - Lênin. Để giải quyết được tình huống dạng này, sinh viên phải tìm được những luận cứ thuyết phục để chứng minh tính chất sai lầm của vấn đề được nêu ra. Những luận cứ dùng để bác bỏ ấy được tiến hành theo hai cách: một là chỉ ra sự phi lôgíc khi xét về cơ sở lý luận của luận điểm cần phản bác; hai là chỉ ra sự tự mâu thuẫn và bất hợp lý của luận điểm đó khi đặt nó trong sự vận động của thực tiễn. Và như một lẽ tự nhiên, những luận điểm sai lầm khi được vạch trần bản chất thì người học càng có niềm tin vào tính chân lý của những nguyên lý chính diện. Từ ý nghĩa trên, quá trình dạy học môn CNXHKH cũng rất cần thường xuyên vận dụng THCVĐ theo dạng như trên. Sau đây là một ví dụ điển hình về THCVĐ được kiến tạo theo dạng này: Vận dụng PPNVĐ để giảng dạy những nguyên lý của các nhà kinh điển về lý luận “cách mạng không ngừng” và sự vận dụng của Đảng cộng sản Việt Nam. Sau khi đã phân tích giúp sinh viên nắm được những kiến giải của C. Mác, V. I. Lênin về lý luận cách mạng không ngừng, giảng viên có thể đưa ra tình huống theo dạng phản bác như sau: Căn cứ quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về quy luật vận động và phát triển của lịch sử, có ý kiến cho rằng Việt Nam sau khi hoàn thành cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân thì cần phải đưa đất nước đi theo con đường phát triển tư bản chủ nghĩa để phù hợp với “quy luật phát triển tuần tự của lịch sử”. Việc đưa đất nước tiến lên chủ nghĩa xã hội, bỏ qua giai đoạn phát triển chủ nghĩa tư bản là đi ngược lại những chỉ dẫn của các nhà kinh điển, là sự vi phạm tính chất “lịch sử - tự nhiên” mà C. Mác đã chỉ ra. Ý kiến của anh (chị) về quan điểm trên? VŨ ĐÌNH BẢY – ĐẶNG XUÂN ĐIỀU 134 Khi tiếp cận tình huống trên, sinh viên dễ dàng nhận ra đây là một lập luận sai lầm muốn phủ nhận tính tất yếu của sự định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Việc vạch ra tính chất sai lầm của ý kiến này đòi hỏi sinh viên phải vận dụng những tri thức đã được trang bị về học thuyết hình thái kinh tế - xã hội, những nội dung cơ bản về điều kiện lãnh đạo cách mạng của giai cấp công nhân trong việc thực hiện cuộc cách mạng không ngừng. Ngoài ra, sinh viên cũng cần vận dụng tri thức thực tiễn của quá trình thay thế các hình thái kinh tế - xã hội của các quốc gia theo kiểu “tuần tự” và “nhảy vọt”; thực tiễn vận động của cách mạng Việt Nam theo quy luật độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội qua các chặng đường lịch sử... Kết quả của quá trình tìm ra bản chất của luận điệu sai lầm nói trên càng làm cho sinh viên cảm thấy được thuyết phục về tính tất yếu khách quan của việc bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa, quá độ lên chủ nghĩa xã hội đối với cách mạng nước ta. Đó không phải là sự đi ngược lại với tính chất “lịch sử - tự nhiên” mà là sự vận dụng một cách sáng tạo và là sự bổ sung vào nguyên lý về cách mạng không ngừng của Chủ tịch Hồ Chí Minh và của Đảng ta. 2.4. Tình huống lí giải – giải thích Đây là tình huống phổ biến, xuất hiện nhiều trong học tập và nghiên cứu khoa học. Tình huống này xuất hiện khi người học gặp phải những hiện tượng, sự kiện cần phải lí giải nó một cách khoa học để có nhận thức và hành động đúng. Tình huống lí giải – giải thích có thể tồn tại dưới nhiều hình thức khác nhau. Có khi nó gắn liền với yêu cầu giải thích một câu trích kinh điển; có khi yêu cầu đưa ra các luận cứ để chứng minh cho một ý kiến hay một lập luận có tính chất quy luật. Ví dụ, khi giảng dạy nội dung về thuộc tính cơ bản của giai cấp công nhân trong nền sản xuất công nghiệp hiện đại, giảng viên có thể nêu tình huống lí giải – giải thích với yêu cầu giải thích câu nói kinh điển của C. Mác khi bàn về sự biến động của các giai cấp dưới sự tác động của nền đại công nghiệp: “Tất cả các giai cấp khác đều suy tàn và tiêu vong cùng với sự phát triển của đại công nghiệp, còn giai cấp vô sản lại là sản phẩm của bản thân nền đại công nghiệp” [4, tr. 56] hoặc “Trong tất cả các giai cấp hiện đang đối lập với giai cấp tư sản thì chỉ có giai cấp vô sản là giai cấp thật sự cách mạng” [5, tr. 91]. Hoặc khi giảng dạy về những căn cứ để các nhà kinh điển đưa ra khái niệm giai cấp công nhân, giảng viên có thể yêu cầu sinh viên lý giải sự giống nhau và khác nhau giữa hai khái niệm “giai cấp công nhân” và “giai cấp vô sản” và chỉ ra ý nghĩa của sự phân biệt đó. Trên đây là những dạng THCVĐ cơ bản, có thể được kiến tạo trong dạy học môn CNXHKH theo kiểu nêu vấn đề. Việc phân chia các loại tình huống có vấn đề nêu trên chỉ có tính chất tương đối. Trong quá trình xây dựng tình huống, nhiều khi cùng một nội dung và cách thức giải quyết vấn đề như nhau nhưng có thể làm biến đổi tình huống ở dạng này hoặc dạng khác. Việc chuyển đổi dạng tình huống có tác dụng làm đa dạng hóa các yêu cầu học tập đối với sinh viên, từ đó góp phần làm tăng hứng thú trong quá tình giải quyết tình huống trên lớp. MỘT SỐ DẠNG TÌNH HUỐNG CÓ VẤN ĐỀ TRONG DẠY HỌC 135 3. Trong xu thế đổi mới PPDH theo hướng “lấy người học làm trung tâm”, phương pháp DHNVĐ đóng vai trò rất quan trọng và có nhiều ưu thế. Khả năng tích cực hóa mạnh mẽ các hoạt động nhận thức của người học và tính chất dung nạp với hầu hết các PPDH khác đã khiến cho PPDH này có vị trí đặc biệt quan trọng trong hệ thống các PPDH tích cực hiện nay. Chính vì thế, việc nghiên cứu một cách có hệ thống và vận dụng thường xuyên phương pháp nêu vấn đề trong dạy học các môn khoa học Mác - Lênin, tư tưởng Hồ chí Minh nói chung, những nguyên lí của chủ nghĩa Mác - Lênin về chủ nghĩa xã hội nói riêng là một trong những giải pháp góp phần nâng cao chất lượng dạy và học các môn khoa học này trong các trường đại học hiện nay. Với tính cách là một PPDH tích cực, việc vận dụng phương pháp nêu vấn đề trong dạy học những nguyên lí của chủ nghĩa Mác - Lênin về chủ nghĩa xã hội thực sự không phải dễ dàng. Nó gắn liền với những yêu cầu rất cao về trình độ chuyên môn, kỹ năng thực hành phương pháp của người giảng viên cũng như năng lực học tập của sinh viên, trong đó kiến tạo THCVĐ là kỹ năng chiếm vị trí hàng đầu. Chính vì thế, nắm vững các dạng THCVĐ trong dạy học các nội dung này là một trong những yêu cầu hàng đầu nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng phương pháp nêu vấn đề trong giai đoạn hiện nay. TÀI LIỆU THAM KHẢO [1] Nguyễn Ngọc Bảo (1995). Phát huy tính tích cực, tính tự lực của học sinh trong quá trình dạy học. NXB Giáo dục, Hà Nội. [2] V. O. Kon (1976). Những cơ sở dạy học nêu vấn đề. NXB Giáo dục, Hà Nội. [3] I. Ia. Lecne (1997). Dạy học nêu vấn đề., NXB Giáo dục, Hà Nội. [4] C. Mác, Ph. Ănghhen (2008). Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản. NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội. [5] C. Mác, Ph. Ănghhen (1995). Toàn tập, t.2. NXBb Chính trị quốc gia, Hà Nội. [6] A. M. Machiuskin (1976). Tình huống có vấn đề trong tư duy và trong dạy học. NXB Giáo dục, Hà Nội. [7] M. I. Makhơnutốp (1972). Lý luận và thực hành dạy học nêu vấn đề. NXB Giáo dục, Hà Nội. Title: SOME FORMS OF PROBLEMATIC SITUATIONS IN TEACHING THE PRINCIPLES OF MARXISM – LENINISM ON SOCIALISM Abstract: In the process of teaching the basic principles of Marxism-Leninism on socialism, the application of raise issues teaching methods proved to be very consistent with the urgent demands from the target and specific knowledge of the contents of this unit. Problematic situations is one of the basic characteristics, nuclear and most central of these teaching methods. Therefore, mastering the form problematic situations in teaching therequired content is leading to improve the efficiency of the method used to raise issues in teaching today. ThS. VŨ ĐÌNH BẢY - ThS. ĐẶNG XUÂN ĐIỀU Khoa Giáo dục chính trị, Trường Đại học Sư phạm – Đại học Huế VŨ ĐÌNH BẢY – ĐẶNG XUÂN ĐIỀU 136

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdf12_170_vudinhbay_dangxuandieu_19_dang_xuan_dieu_6894_2020953.pdf
Tài liệu liên quan