3. KẾT LUẬN
Hầu hết trẻ tự kỷ tại các CSGDĐB ở Thành phố Huế có mức độ khuyết tật nặng, điều
này gây nên khó khăn trong công tác chăm sóc, hỗ trợ giáo dục cho trẻ. Trong 3 lĩnh
vực được chẩn đoán, đánh giá, trẻ tự kỷ gặp khó khăn nhiều nhất ở lĩnh vực ngôn ngữ -
giao tiếp, tiếp đến là quan hệ - tương tác xã hội. Đa số trẻ thiếu vắng ngôn ngữ hoặc
ngôn ngữ giao tiếp, do đó kéo theo những hạn chế trong giao tiếp và khả năng quan hệ
xã hội ở trẻ. Trong lĩnh vực quan hệ xã hội, khả năng tương tác cảm xúc ở trẻ ít khó
khăn hơn nhu cầu và khả năng thiết lập mối quan hệ qua lại với người khác. Có sự khác
biệt mang ý nghĩa thống kê giữa cha mẹ trẻ với giáo viên trong đánh giá nhu cầu và khả
năng quan hệ xã hội ở trẻ, GV nhận thấy trẻ có khó khăn hơn CM trẻ. Hành vi, sở thích
là lĩnh vực các trẻ ít gặp khó khăn nhất nhưng vẫn tồn tại hành vi, sở thích định hình,
tăng động, tự hủy, khó khăn khi thay đổi thói quen.
Ở gia đình và các CSGDĐB đã tiến hành một số hỗ trợ giáo dục thiết thực cho trẻ, tuy
nhiên thiếu sự tương xứng giữa tỷ trọng đầu tư với hiệu quả đạt được do nội dung hỗ trợ
chưa xác hợp với thực trạng khó khăn của trẻ. Sức mạnh tập thể thông qua sự phối hợp
giáo dục giữa cơ sở với gia đình, cộng đồng và xã hội chưa được phát huy. Việc phân
chia lớp học chỉ dựa vào sự đánh giá chung, chưa xuất phát từ những chẩn đoán, đánh
giá khoa học, xác thực về mức độ biểu hiện khó khăn cụ thể. Vì vậy, để nâng cao chất
lượng và hiệu quả công tác can thiệp, hỗ trợ giáo dục cho trẻ tự kỷ tại các CSGDĐB ở
Thành phố Huế cần thực hiện các biện pháp cụ thể sau:
Sử dụng phối hợp các công cụ chẩn đoán, đánh giá dành cho trẻ tự kỷ để xác định mức
độ biểu hiện rối loạn của trẻ. Chia nhóm học theo mức độ biểu hiện rối loạn tự kỷ để có
những hỗ trợ cụ thể, sát với từng nhóm mức độ khó khăn khác nhau. Xác định nội dung,
biện pháp hỗ trợ giáo dục phù hợp cho từng nhóm. Đồng thời xây dựng kế hoạch và hỗ
trợ cá nhân theo đặc điểm phát triển của từng trẻ với những hỗ trợ trước mắt và lâu dài
dựa trên những khó khăn, thuận lợi riêng của mỗi trẻ. Cơ sở giáo dục, giáo viên, nhà trị
liệu phối hợp, tư vấn, hướng dẫn cha mẹ trẻ trong công tác giáo dục để nâng cao chất
lượng hỗ trợ giáo dục cũng như sự phát triển nhanh chóng, đồng bộ cho trẻ. Đánh giá
thường xuyên, định kỳ việc thực hiện kế hoạch đề ra.
Việc thực hiện đồng bộ các biện pháp có thể nâng cao hiệu quả can thiệp, hỗ trợ giáo
dục dành cho trẻ tự kỷ. Kết quả nghiên cứu đã cung cấp những chẩn đoán, đánh giá cụ
thể về trẻ là cơ sở để xây dựng kế hoạch can thiệp, hỗ trợ giáo dục phù hợp - điều kiện
để nâng cao chất lượng công tác giáo dục dành cho trẻ tự kỷ tại các CSGDĐB này
8 trang |
Chia sẻ: thucuc2301 | Lượt xem: 479 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Biểu hiện rối loạn của trẻ tự kỷ tại các cơ sở giáo dục đặc biệt ở thành phố Huế - Nguyễn Thị Ngọc Nhi, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tạp chí Khoa học và Giáo dục, Trường Đại học Sư phạm Huế
ISSN 1859-1612, Số 04(20)/2011: tr. 126-133
BIỂU HIỆN RỐI LOẠN CỦA TRẺ TỰ KỶ
TẠI CÁC CƠ SỞ GIÁO DỤC ĐẶC BIỆT Ở THÀNH PHỐ HUẾ
NGUYỄN THỊ NGỌC NHI
Trường Đại học Sư phạm – Đại học Huế
NGUYỄN QUANG UẨN
Trường Đại học Sư phạm Hà Nội
Tóm tắt: Trẻ tự kỷ tại các cơ sở giáo dục đặc biệt ở Thành phố Huế hiện nay
có tỷ lệ rối loạn nặng cao, thể hiện rõ ở lĩnh vực giao tiếp và khả năng quan
hệ xã hội. Cho đến nay, ở các cơ sở này vẫn chưa chẩn đoán, xác định được
mức độ và biểu hiện rối loạn cụ thể của các lĩnh vực mà trẻ tự kỷ đang mắc
phải nên việc xây dựng kế hoạch chăm sóc và giáo dục trẻ còn chưa phù hợp
và thiếu tính khả thi. Trong bài viết này, chúng tôi giới thiệu kết quả nghiên
cứu, chẩn đoán, đánh giá mức độ những biểu hiện rối loạn của trẻ tự kỉ tại
các cơ sở giáo dục đặc biệt ở Thành phố Huế, làm cơ sở để xây dựng kế
hoạch giáo dục phù hợp và hiệu quả.
1. ĐẶT VẤN ĐỀ
Tự kỷ là một dạng rối loạn phát triển lan tỏa/rối loạn phát triển theo diện rộng
(Pervasive Developmental Desorder/PDD), gây nên những hạn chế cơ bản về các mặt:
quan hệ xã hội, giao tiếp và hành vi, sở thích, làm cho trẻ mắc hội chứng này gặp khó
khăn trong khả năng thiết lập quan hệ xã hội và phản ứng phù hợp, tự nhiên trước hoàn
cảnh sống hàng ngày [1], [2]. Với những trẻ tự kỷ ở mức độ nặng, khả năng và cơ hội
hòa nhập cộng đồng là rất ít. Việc phát hiện, chẩn đoán và can thiệp sớm một cách hợp
lý và lâu dài sẽ làm giảm ảnh hưởng của rối loạn tự kỷ đến sự phát triển, giúp trẻ hiện
thực hóa các khả năng tiềm tàng của mình và có cơ hội hòa nhập vào cuộc sống.
Tại các cơ sở giáo dục đặc biệt (CSGDĐB) ở Thành phố Huế hiện nay, cùng với trẻ có
các dạng khuyết tật khác, trẻ tự kỷ đang được can thiệp và hỗ trợ giáo dục theo nhiều hình
thức khác nhau. Tuy nhiên, việc thiếu vắng các kế hoạch giáo dục cá nhân được xây dựng
dựa trên sự đánh giá khách quan và khoa học về mức độ khuyết tật, các dạng rối loạn cụ
thể của trẻ đã ảnh hưởng rất lớn đến chất lượng và hiệu quả của quá trình giáo dục. Vì
vậy, việc nghiên cứu, xác định rõ biểu hiện rối loạn của trẻ tự kỷ tại các CSGDĐB ở
Thành phố Huế, trên cơ sở đó xây dựng kế hoạch giáo dục cá nhân phù hợp là một công
việc cần thiết để nâng cao chất lượng và hiệu quả quá trình can thiệp, hỗ trợ cho trẻ tự kỷ.
2. BIỂU HIỆN RỐI LOẠN TỰ KỶ CỦA TRẺ TẠI CÁC CƠ SỞ GIÁO DỤC ĐẶC
BIỆT Ở THÀNH PHỐ HUẾ
Để nghiên cứu, chẩn đoán, đánh giá mức độ rối loạn tự kỷ của trẻ tại các CSGDĐB ở
Thành phố Huế, chúng tôi đã sử dụng Thang lượng giá hội chứng tự kỷ ở trẻ em
(Children Autistic Rating Scale - CARS), phối hợp với các quan sát trên 15 trẻ độ tuổi
từ 3-6 đã được chẩn đoán là tự kỷ đang theo học hoặc tham gia chương trình can thiệp
sớm tại Trường Chuyên biệt Tương Lai (56 Lâm Hoằng, Huế) và Trung tâm Bretage
BIỂU HIỆN RỐI LOẠN CỦA TRẺ TỰ KỶ TẠI CÁC CƠ SỞ GIÁO DỤC ĐẶC BIỆT...
127
(16 kiệt 6 Tam Thai, Huế) dưới sự quản lý của Văn phòng Tư vấn di truyền và Hỗ trợ
trẻ khuyết tật của Đại học Y khoa Huế. Ngoài ra chúng tôi còn tiến hành điều tra bằng
anket, phỏng vấn cha mẹ, giáo viên, nhà quản lý các CSGD để tìm hiểu biểu hiện rối
loạn ở các trẻ tự kỷ, phân loại tự kỷ và những nội dung liên quan đến quá trình chăm
sóc, hỗ trợ giáo dục trẻ tự kỷ tại gia đình và CSGD. Kết quả nghiên cứu như sau:
2.1. Mức độ tự kỷ của trẻ tại các CSGDĐB ở TP Huế
Theo kết quả chẩn đoán bằng thang đo CARS, 15 trẻ trong phạm vi nghiên cứu đều
thuộc dạng tự kỷ điển hình, không có các hội chứng khác trong phổ tự kỷ (Asperger,
Rett hay rối loạn bất hòa nhập tuổi ấu thơ...). Trong đó có 06 trẻ rối loạn tự kỷ ở mức
nhẹ - vừa (mức điểm từ 33,5-36), 09 trẻ còn lại ở mức nặng (từ 38,5-51 điểm). Tỷ lệ trẻ
em nam mắc chứng tự kỷ nhiều hơn trẻ em nữ. Kết quả nghiên cứu cho thấy có 13/15
trẻ được nghiên cứu là trẻ nam (chiếm 80%) và 2 trẻ nữ (chiếm 20%).
Kết quả chẩn đoán, đánh giá trên cho thấy tỷ lệ trẻ tự kỷ ở mức độ nặng cao. Nguyên
nhân của thực tế này là do trẻ tự kỷ không được phát hiện và chẩn đoán sớm, chưa được
can thiệp, hỗ trợ kịp thời, thiếu tính khoa học và không bền vững. Điều này gây nên khó
khăn cho công tác hỗ trợ giáo dục cũng như khả năng hòa nhập cộng đồng ở trẻ.
2.2. Biểu hiện rối loạn tự kỷ của trẻ tại các CSGDĐB ở Thành phố Huế
Những biểu hiện rối loạn điển hình của trẻ tự kỷ được nghiên cứu trên 3 lĩnh vực: quan
hệ - tương tác xã hội, ngôn ngữ - giao tiếp và sở thích, hành vi. Từ kết quả điều tra bằng
anket về mức độ biểu hiện rối loạn tự kỷ ở các lĩnh vực nêu trên dành cho cha mẹ trẻ và
giáo viên cho thấy:
2.2.1. Lĩnh vực quan hệ - tương tác xã hội
Những rối loạn trong lĩnh vực này thể hiện ở nhu cầu và khả năng thiết lập quan hệ xã
hội và khả năng tương tác cảm xúc với người khác.
- Về Nhu cầu và khả năng thiết lập mối quan hệ xã hội, kết quả đánh giá thể hiện ở
bảng sau.
Bảng 1. Kết quả đánh giá nhu cầu và khả năng thiết lập quan hệ xã hội của trẻ tự kỷ
Stt Nhu cầu và khả năng thiết lập mối quan hệ qua lại với người
khác
X
SD Thứ
bậc
1 Khả năng đáp trả khi có người hỏi chuyện 2,20 0,45 2
2 Khả năng tiếp xúc bằng mắt 2,00 0,39 5
3 Khả năng hiểu và thực hiện yêu cầu phù hợp 2,04 0,48 4
4 Khả năng sử dụng ngôn ngữ cử chỉ trong mối quan hệ tương tác với người khác
1,80 0,48 6
5 Nhu cầu và khả năng thiết lập mối quan hệ với người lớn (cô giáo/bố mẹ)
2,10 0,36 3
6 Nhu cầu và khả năng thiết lập mối quan hệ với bạn/anh chị em 2,38 0,55 1
Chung ( X ) 2,09 0,36
Ghi chú: X : Giá trị trung bình; SD: Độ lệch chuẩn
NGUYỄN THỊ NGỌC NHI – NGUYỄN QUANG UẨN
128
Khó khăn nhiều nhất mà các trẻ gặp phải là khả năng và nhu cầu thiết lập mối quan hệ
với bạn, anh chị em đồng lứa ( X = 2.38). Theo ý kiến của cha mẹ và giáo viên: chỉ 1/15
trẻ thích và biết chơi trong nhóm bạn, số trẻ thường xuyên chơi một mình, không biết
chơi cùng nhóm bạn chiếm 4/15 trẻ. Nhu cầu này cũng thể hiện rõ trong mối quan hệ
với người lớn (kể cả bố mẹ trẻ): phần lớn trẻ thường xuyên không để ý đến sự hiện diện
của người lớn (8/15 trẻ), chỉ 2/15 số trẻ thường xuyên có nhu cầu và khả năng tạo quan
hệ với người lớn nhưng chủ yếu trẻ thích được người lớn gần gũi, chiều chuộng hơn là
biết chia sẻ, đặt câu hỏi với họ Nhu cầu quan hệ với người lớn ở trẻ thể hiện tốt và
thường xuyên hơn với bạn bè, anh chị em do trẻ phải cần đến người lớn trong việc đáp
ứng các nhu cầu trợ giúp.
Khả năng đáp trả khi tiếp xúc, trò chuyện với người khác cũng gặp khó khăn lớn, ở mức
thường xuyên: chỉ 1/15 trẻ biết đáp trả phù hợp, đa số trẻ hầu như không phản ứng, bất
động (6/15 trẻ), số trẻ khác biết phản ứng đáp lại sau một thời gian. Bởi thường trẻ tự
kỷ không có ngôn ngữ và hạn chế trong việc nắm bắt các quy tắc xã hội. Điều này ảnh
hưởng đến chất lượng cũng như số lượng các quan hệ của trẻ với người khác. Biểu hiện
ít gặp khó khăn nhất khả năng sử dụng ngôn ngữ cử chỉ nói chung và khả năng tiếp xúc
mắt nói riêng trong quá trình tương tác ( X từ 1,8 đến 2,0 điểm). Mối liên kết giữa trẻ
với người khác chủ yếu diễn ra bằng con đường sử dụng ngôn ngữ cử chỉ. Trong quá
trình tương tác, người lớn cố gắng đoán và hiểu ra những mong muốn của trẻ thông qua
các cử chỉ thay vì bằng ngôn ngữ - nhất là ở trẻ không nói được. Dù vậy, đa số trẻ
thường xuyên chưa biết sử dụng các hành vi cử chỉ để tương tác với người khác (8/15
trẻ), khi tiếp xúc trẻ thường nhìn chỗ khác, tránh nhìn thẳng. Khả năng hiểu và thực
hiện yêu cầu phù hợp được đánh giá khó khăn ở mức trung bình so với các biểu hiện
khác nhưng số trẻ thường xuyên bất động, ù lì trước những yêu cầu của người khác rất
lớn (9/15 trẻ) Nhu cầu và khả năng thiết lập quan hệ xã hội là khó khăn rất lớn của trẻ
tự kỷ tại các CSGDĐB này.
Về Khả năng tương tác cảm xúc với người khác:
Bảng 2. Kết quả đánh giá về khả năng tương tác cảm xúc của trẻ tự kỷ
Stt Khả năng tương tác cảm xúc với người khác X SD
Thứ
bậc
3 Cách thức trẻ bày tỏ cảm xúc với thế giới 2,10 0,33 2
4 Phản ứng khi có người tiếp xúc cơ thể 1,65 0,42 4
5 Phản ứng đối với những thay đổi, yêu cầu của người lớn 2,21 0,42 1
6 Thái độ, phản ứng của trẻ khi được khen 1,98 0,35 3
Chung ( X ) 1,99 0,23
Ghi chú: X : Giá trị trung bình; SD: Độ lệch chuẩn
Nhu cầu về sự quan tâm, ôm ấp, vỗ về (tiếp xúc cơ thể) của trẻ ở đây ít gặp khó khăn nhất,
nhưng có đến 4/15 trẻ thường xuyên không chấp nhận sự tiếp xúc trẻ phản ứng bằng cách:
la hét, tránh né người khác hoặc vô cảm, ngồi yên bất động. Sự tiếp xúc cơ thể tạo cho trẻ
tự kỷ cảm giác mất an toàn. Ở mức thỉnh thoảng các trẻ có phản ứng phù hợp với những
BIỂU HIỆN RỐI LOẠN CỦA TRẺ TỰ KỶ TẠI CÁC CƠ SỞ GIÁO DỤC ĐẶC BIỆT...
129
lời nhận xét, khen - chê của người lớn (9/15 trẻ), trong đó chủ yếu trẻ phản ứng với lời
khen. Khó khăn lớn nhất là phải có thái độ phù hợp với những thay đổi, yêu cầu của
người lớn: chỉ 1/15 trường hợp thường xuyên biết ghi nhận, chấp nhận thay đổi còn đa số
trẻ có phản ứng như khóc thét, chống đối hoặc lãnh đạm trước yêu cầu của người lớn.
Cách thức trẻ bày tỏ cảm xúc với những gì xảy ra xung quanh cũng là mặt biểu hiện có
nhiều khó khăn. Nhìn chung, những phản ứng cảm xúc càng có nhiều đòi hỏi về hiểu biết
thế giới, quy tắc xã hội thì phản ứng của trẻ càng thiếu phù hợp.
Như vậy, trong lĩnh vực quan hệ - tương tác xã hội thì khả năng tương tác cảm xúc ở trẻ
gặp ít khó khăn hơn nhu cầu và khả năng thiết lập mối quan hệ qua lại với người khác
( X = 2,09) > ( X = 1,99). Việc thiết lập mối quan hệ, tương tác với người khác đòi hỏi
phải có khả năng sử dụng công cụ giao tiếp và các kĩ năng xã hội khác, trong khi đó
tương tác cảm xúc là nhu cầu tồn tại cơ bản của trẻ.
2.2.2. Những rối loạn trong lĩnh vực ngôn ngữ - giao tiếp
Khả năng ngôn ngữ của trẻ tự kỷ thể hiện ở tính chất và việc sử dụng ngôn ngữ trong
giao tiếp. Kết quả từ bảng 3 cho thấy ngôn ngữ là lĩnh vực trẻ gặp nhiều khó khăn nhất.
Đa số trẻ được khảo sát thiếu vắng ngôn ngữ hoặc thường xuyên phát ra âm thanh vô
nghĩa, kì lạ như ciu..ri, ưư..ư.., măm..mi..ma một cách vô thức hay có ý thức khi thể
hiện nhu cầu, yêu cầu nào đó (13/15 trẻ). Chẳng hạn: khi H “đói bụng” hay “muốn
uống nước” thì phát âm “măm..mi..ma” và kéo tay cô đến nơi cháu cần. Ở những trẻ có
ngôn ngữ thì mắc các lỗi như: chỉ nói lặp lại một từ, câu cho mọi tình huống: “năm”=
“vui, sợ, không đồng ý”, “ảnh của mạ” = “nhớ mẹ, vui, buồn, sợ”; nhại lại lời nói của
người khác... Đa số trẻ thiếu vắng ngôn ngữ nên những khảo sát sâu về sau như: cách sử
dụng đại danh từ; sự phù hợp của khả năng văn phạm; sự phù hợp nhịp điệu, ngữ điệu,
âm điệu của lời nói thể hiện khó khăn rất lớn ( X từ 2,60 đến 2,94 điểm).
Bảng 3. Kết quả đánh giá về khả năng ngôn ngữ - giao tiếp của trẻ tự kỷ
Stt Lĩnh vực ngôn ngữ - giao tiếp X SD
Thứ
bậc
1 Khả năng ngôn ngữ nói trong giao tiếp 2,60 0,23 1
2 Khả năng sử dụng ngôn ngữ cử chỉ trong giao tiếp của trẻ 2,19 0,90 3
3 Khả năng khởi xướng, thiết lập, duy trì hội thoại 2,31 0,52 2
4 Khả năng bắt chước 2,03 0,54 4
Chung ( X ) 2,28 0,38
Ghi chú: X : Giá trị trung bình; SD: Độ lệch chuẩn
Khả năng khởi xướng, thiết lập, duy trì hội thoại là khó khăn lớn thứ 2 sau ngôn ngữ
nói, điều này một phần là hệ quả của hạn chế về ngôn ngữ ( X = 2,31). Bắt chước là
biểu hiện gặp ít khó khăn hơn cả trong các mặt này. Chỉ có 2/15 trường hợp có khả năng
bắt chước tốt nhưng trong đó chủ yếu bắt chước hành động, điều này gây nên hạn chế
trong việc tiếp nhận những hỗ trợ giáo dục. Khả năng sử dụng ngôn ngữ cử chỉ trong
giao tiếp ít khó khăn hơn so với các mặt khác do nó không liên quan đến việc sử dụng
NGUYỄN THỊ NGỌC NHI – NGUYỄN QUANG UẨN
130
ngôn ngữ nói, nhưng có đến 4/15 trẻ thường xuyên không biết sử dụng ngôn ngữ cử chỉ
để giao tiếp như: trẻ không hiểu và không sử dụng cử chỉ, điệu bộ để yêu cầu, phản đối
hay thể hiện nhu cầu bản thân; khó học các quy tắc giao tiếp thông thường như chào
hỏi, xin đồ vật; nét mặt, cử chỉ hoặc hành động không đi đôi với ý muốn hay lời nói
Những hạn chế này là do trẻ tự kỷ không hiểu được ý nghĩa của các công cụ giao tiếp và
không nắm bắt được các quy tắc giao tiếp xã hội. Ngôn ngữ là khó khăn rất lớn của trẻ,
điều này ảnh hưởng đến chất lượng giao tiếp và quan hệ xã hội.
2.2.3. Những bất thường trong lĩnh vực hành vi, sở thích
Bảng 4. Kết quả đánh giá về lĩnh vực hành vi, sở thích của trẻ tự kỷ
Stt Lĩnh vực hành vi, sở thích X SD
Thứ
bậc
1 Cách thức trẻ chơi, sử dụng đồ dùng, đồ chơi 2,14 0,47 1
2 Phản ứng của trẻ khi có âm thanh bất ngờ xảy ra 1,67 0,32 4
3 Phản ứng của trẻ khi bị nhéo đau 1,63 0,29 5
4 Sự xuất hiện những hành vi máy móc, định hình 1,99 0,31 2
5 Sự xuất hiện những hành vi bất thường: tự hủy, xâm kích, tăng động 1,75 0,27 3
Chung ( X ) 1,84 0,17
Ghi chú: X : Giá trị trung bình; SD: Độ lệch chuẩn
Những kiểu hành vi, những mối quan tâm và những hoạt động lặp lại, rập khuôn là lĩnh
vực khó khăn thứ 3 mà trẻ tự kỷ mắc phải. Trong lĩnh vực này các trẻ gặp khó khăn nhất
là cách thức sử dụng đồ dùng, đồ chơi: 10/15 số trẻ được khảo sát chưa biết sử dụng đồ
dùng, đồ chơi phù hợp, trong đó: cách tiếp cận không bình thường như ngửi, liếm, gặm,
gãi trên bề mặt, ném, đập ở mức thường xuyên (5/15 trẻ); trẻ lưu tâm một cách khác
thường, như chỉ say mê, thao tác với một bộ phận của đồ vật, đồ chơi như bánh xe ô tô,
soi vật, bàn tay (6/15 trẻ); bị cuốn hút vào một vài đồ chơi, đồ dùng, hoạt động nhất
định (2/15 trẻ); say sưa thao tác với một vài đồ vật bình thường như bấm điện thoại,
máy vi tinh (4/15 trẻ). Những hành vi máy móc, định hình thường gặp ở các trẻ: đu đưa,
lắc lư thân mình; vê xoắn, vặn tay, đập tay; nhún nhảy, đi nhón gót. Các hành vi bất
thường ít gặp hơn hành vi định hình X = 23,2 > X = 16,7. Trong đó, có hành vi tăng
động, hành vi ù lì, hành vi tự hủy và xâm kích... Mặt ít có biểu hiện rối loạn nhất là thính
giác và vị giác, khứu giác, xúc giác ( X từ 1,63 đến 1,67 điểm). Trong đó, 2/15 số trẻ có
biểu hiện quá thái: la hét hay bất động, vô cảm với những kích thích giác quan này.
Xem xét mối quan hệ giữa 3 lĩnh vực khi tác động đến tình trạng tự kỷ của trẻ, chúng tôi
nhận thấy có mối tương quan thuận và chặt chẽ giữa ba lĩnh vực khó khăn mà một trẻ tự
kỷ mắc phải. Trong đó, quan hệ - tương tác xã hội đồng thời có mối quan hệ tương hỗ
với lĩnh vực ngôn ngữ - giao tiếp (r = 0,673, p <0,01) và với lĩnh vực sở thích, hành vi (r
= 0,493, p < 0,01). Riêng lĩnh vực ngôn ngữ - giao tiếp với lĩnh vực sở thích, hành vi có
mối tương quan thuận nhưng không mang ý nghĩa thống kê (p = 0,75). Điều này chứng
tỏ những thuận lợi hay khó khăn về ngôn ngữ sẽ là điều kiện thúc đẩy hay cản trở việc
thiết lập các mối quan hệ - tương tác với người khác và ngược lại. Khi các mối quan hệ
BIỂU HIỆN RỐI LOẠN CỦA TRẺ TỰ KỶ TẠI CÁC CƠ SỞ GIÁO DỤC ĐẶC BIỆT...
131
này mở rộng hay bị bó hẹp đều thúc đẩy hay kéo theo sự suy giảm của hệ thống phương
tiện, khả năng giao tiếp của trẻ Giữa ngôn ngữ - giao tiếp với sở thích hành vi hầu
như không có sự liên quan trực tiếp với nhau. Bởi bản thân hai yếu tố này mang tính bị
động, vô hoạt tính. Chúng chỉ có thể vận động, tác động lẫn nhau khi có sự tham gia của
bản thân đứa trẻ trong các mối quan hệ.
Tóm lại, có thể thấy trẻ tự kỷ ở các CSGDĐB thành phố Huế đều có khó khăn rõ rệt về
cả 3 lĩnh vực. Trong đó, khó khăn lớn nhất là lĩnh vực ngôn ngữ - giao tiếp, tiếp đến là
lĩnh vực quan hệ - tương tác xã hội. Hành vi, sở thích tuy là lĩnh vực ít gặp khó khăn
nhất, nhưng vẫn tồn tại các hành vi, sở thích định hình, khó khăn khi thay đổi thói quen
ở trẻ.
2.3. Thực trạng công tác can thiệp, hỗ trợ giáo dục dành cho trẻ tự kỷ
Hiện nay, gia đình và các CSGDĐB đã có nhiều nỗ lực cho những can thiệp, hỗ trợ giáo
dục dành cho trẻ. Những động thái hỗ trợ giáo dục gia đình đã thực hiện cho trẻ như:
đưa trẻ đi thăm khám và lựa chọn trường học phù hợp với trẻ (12/15 trẻ), nhờ giáo dục
viên về hỗ trợ tại nhà sau giờ lên lớp hay cho trẻ tham gia các lớp tập luyện chuyên sâu
(7/15 trẻ). Nội dung hỗ trợ gồm nhiều mặt, chủ yếu là dạy nói; dạy kĩ năng tự phục vụ;
các nội dụng khác như cách nhận biết, sử dụng ngôn ngữ không lời; cách tương tác với
người khác ít được quan tâm hơn. Hình thức giáo dục gia đình chủ yếu thông qua
sinh hoạt hàng ngày và theo cảm tính, gặp đâu bày đó. Sự đầu tư chưa hợp lý về mặt
nội dung và thiếu tính mục đích trong quá trình hỗ trợ làm cho kết quả giáo dục gia đình
không cao.
Các CSGDĐB cũng đã tiến hành hỗ trợ hầu hết các nội dung mà trẻ tự kỷ gặp khó khăn,
trong đó tập trung: dạy cách nhận biết, sử dụng ngôn ngữ không lời; dạy kĩ năng tự
phục vụ; khắc phục những hành vi, sở thích bất thường ở trẻ. Các nội dung: dạy cho trẻ
nói; dạy cách tương tác với người khác; dạy các lễ tục, thói quen sinh hoạt hàng ngày
có trọng số thấp hơn. So sánh kết quả nghiên cứu về những khó khăn các trẻ ở đây mắc
phải với tỷ lệ nội dung hỗ trợ mà các CSGDĐB này đã tiến hành về cơ bản phù hợp,
riêng lĩnh vực quan hệ - tương tác xã hội là thiếu phù hợp và ít được đầu tư. Bởi lẽ đây
là con đường giúp trẻ thích nghi, hòa nhập cuộc sống, nội dung này cần được chú trọng
nhiều hơn. Đây có thể là nguyên nhân khiến cho trẻ gặp nhiều khó khăn trong lĩnh vực
này. Hình thức giáo dục được sử dụng chủ yếu là thông qua hoạt động sinh hoạt hàng
ngày, dạy thông qua việc tổ chức giờ học/tập luyện cụ thể. Riêng việc phối hợp với gia
đình trong việc hỗ trợ giáo dục trẻ ít được quan tâm. Đây là hạn chế lớn vì không tạo
được môi trường giáo dục thống nhất và thiếu sự liên kết, hỗ trợ nhau để cùng thực hiện
mục đích chung. Các phương pháp sử dụng trong dạy học dành cho trẻ tự kỷ còn nghèo
nàn. Kết hợp giữa ngôn ngữ với tranh ảnh, cử chỉ hay makaton là phương pháp độc lập
được sử dụng chủ yếu, hoạt động trị liệu là phương pháp thứ hai được sử dụng khá
nhiều, trị liệu ngôn ngữ chưa được chú trọng vì đa số trẻ ở đây không có khả năng ngôn
ngữ, mặt khác không đủ nhân lực thực hiện
NGUYỄN THỊ NGỌC NHI – NGUYỄN QUANG UẨN
132
Tìm hiểu chất lượng hỗ trợ giáo dục của giáo viên dành cho trẻ tự kỷ trên 3 lĩnh vực trẻ
tự kỷ gặp khó khăn, nhìn chung, chất lượng hỗ trợ giáo dục ở các lĩnh vực đều đạt kết
quả tốt, trong đó lĩnh vực quan hệ - tương tác xã hội đạt mức cao nhất ( X chung = 3,0
điểm). Lĩnh vực sở thích hành vi mức đạt khá cao ( X chung = 2,89 điểm). Thấp nhất là
chất lượng hỗ trợ cho lĩnh vực ngôn ngữ - giao tiếp ( X chung = 2,7 điểm). So sánh trọng
số nội dung được hỗ trợ với chất lượng đạt được cho thấy: lĩnh vực quan hệ - tương tác
xã hội có số lượng hỗ trợ giáo dục thấp nhất nhưng chất lượng, hiệu quả thực hiện tốt
nhất. Trong lúc đó, lĩnh vực sở thích hành vi và sử dụng ngôn ngữ cử chỉ trong giao tiếp
là những nội dung được dạy nhiều hơn nhưng chất lượng, hiệu quả đạt được chưa tốt.
Thực tế nêu trên cho thấy sự đầu tư chưa phù hợp về mặt nội dung, hình thức và phương
pháp hỗ trợ thiếu đa dạng đã ảnh hưởng đến chất lượng của những hỗ trợ giáo dục dành
cho trẻ tự kỷ. Vì vậy, điều chỉnh lại các nội dung trọng tâm phù hợp với thực tế khó
khăn của trẻ có thể nâng cao được chất lượng, hiệu quả giáo dục tại các CSGDĐB này.
3. KẾT LUẬN
Hầu hết trẻ tự kỷ tại các CSGDĐB ở Thành phố Huế có mức độ khuyết tật nặng, điều
này gây nên khó khăn trong công tác chăm sóc, hỗ trợ giáo dục cho trẻ. Trong 3 lĩnh
vực được chẩn đoán, đánh giá, trẻ tự kỷ gặp khó khăn nhiều nhất ở lĩnh vực ngôn ngữ -
giao tiếp, tiếp đến là quan hệ - tương tác xã hội. Đa số trẻ thiếu vắng ngôn ngữ hoặc
ngôn ngữ giao tiếp, do đó kéo theo những hạn chế trong giao tiếp và khả năng quan hệ
xã hội ở trẻ. Trong lĩnh vực quan hệ xã hội, khả năng tương tác cảm xúc ở trẻ ít khó
khăn hơn nhu cầu và khả năng thiết lập mối quan hệ qua lại với người khác. Có sự khác
biệt mang ý nghĩa thống kê giữa cha mẹ trẻ với giáo viên trong đánh giá nhu cầu và khả
năng quan hệ xã hội ở trẻ, GV nhận thấy trẻ có khó khăn hơn CM trẻ. Hành vi, sở thích
là lĩnh vực các trẻ ít gặp khó khăn nhất nhưng vẫn tồn tại hành vi, sở thích định hình,
tăng động, tự hủy, khó khăn khi thay đổi thói quen...
Ở gia đình và các CSGDĐB đã tiến hành một số hỗ trợ giáo dục thiết thực cho trẻ, tuy
nhiên thiếu sự tương xứng giữa tỷ trọng đầu tư với hiệu quả đạt được do nội dung hỗ trợ
chưa xác hợp với thực trạng khó khăn của trẻ. Sức mạnh tập thể thông qua sự phối hợp
giáo dục giữa cơ sở với gia đình, cộng đồng và xã hội chưa được phát huy. Việc phân
chia lớp học chỉ dựa vào sự đánh giá chung, chưa xuất phát từ những chẩn đoán, đánh
giá khoa học, xác thực về mức độ biểu hiện khó khăn cụ thể. Vì vậy, để nâng cao chất
lượng và hiệu quả công tác can thiệp, hỗ trợ giáo dục cho trẻ tự kỷ tại các CSGDĐB ở
Thành phố Huế cần thực hiện các biện pháp cụ thể sau:
Sử dụng phối hợp các công cụ chẩn đoán, đánh giá dành cho trẻ tự kỷ để xác định mức
độ biểu hiện rối loạn của trẻ. Chia nhóm học theo mức độ biểu hiện rối loạn tự kỷ để có
những hỗ trợ cụ thể, sát với từng nhóm mức độ khó khăn khác nhau. Xác định nội dung,
biện pháp hỗ trợ giáo dục phù hợp cho từng nhóm. Đồng thời xây dựng kế hoạch và hỗ
trợ cá nhân theo đặc điểm phát triển của từng trẻ với những hỗ trợ trước mắt và lâu dài
dựa trên những khó khăn, thuận lợi riêng của mỗi trẻ. Cơ sở giáo dục, giáo viên, nhà trị
liệu phối hợp, tư vấn, hướng dẫn cha mẹ trẻ trong công tác giáo dục để nâng cao chất
BIỂU HIỆN RỐI LOẠN CỦA TRẺ TỰ KỶ TẠI CÁC CƠ SỞ GIÁO DỤC ĐẶC BIỆT...
133
lượng hỗ trợ giáo dục cũng như sự phát triển nhanh chóng, đồng bộ cho trẻ. Đánh giá
thường xuyên, định kỳ việc thực hiện kế hoạch đề ra.
Việc thực hiện đồng bộ các biện pháp có thể nâng cao hiệu quả can thiệp, hỗ trợ giáo
dục dành cho trẻ tự kỷ. Kết quả nghiên cứu đã cung cấp những chẩn đoán, đánh giá cụ
thể về trẻ là cơ sở để xây dựng kế hoạch can thiệp, hỗ trợ giáo dục phù hợp - điều kiện
để nâng cao chất lượng công tác giáo dục dành cho trẻ tự kỷ tại các CSGDĐB này.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1] Nguyễn Văn Thành (2006). Trẻ em tự kỷ - phương thức giáo dục. NXB Tôn giáo, TP
Hồ Chí Minh.
[2] Kolvin, I. (1971). Studies in the childhood psychoses: I. Diagnostic criteria and
classification. British Journal of Psychiatry. p. 8-11.
Title: EXPRESSION OF AUTISM DISORDERS OF CHILDREN IN SPECIAL EDUCATION
INSTITUTIONS IN HUE CITY
Abstract: At present, the rate of serious disorder of autistic children in special education
institutions in Hue city is so high and clearly shown in the fields of communication and capacity
of social relation. So far, in these institutions, there are not diagnosis and determination about
the extent and expression of specific disorders in the fields that autistic children trouble with, so
that the plans of education and taking care of these children are unsuitable and lack of viability.
In this article, we introduce the results of research, diagnosis, assessing the extent of disorder
expression of autistic children at the special education institutions in Hue city, as a basis to draw
up plans for consistent and effective education.
NGUYỄN THỊ NGỌC NHI
Học viên Cao học, Trường Đại học Sư phạm – Đại học Huế
ĐT: 0935.453.282. Email: ngngnhi.05@ gmail.com
GS. TS. NGUYỄN QUANG UẨN
Nguyên GV Trường Đại học Sư phạm Hà Nội
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 13_189_nguyenthingocnhi_nguyenquanguan_19_nguyen_thi_ngoc_nhi_3507_2020972.pdf