Giới thiệu MÔN HọC PHÂN TíCH TD Và CHO VAY
TD là hoạt động quan trọng nhất của các tổ chức trung gian tài chính nói chung và NH thương mại nói riêng, là hoạt động sinh lợI chủ yếu, đồng thờI cũng là lĩnh vực chứa đựng nhiều rủI ro nhất của các NH thương mạI và các định chế tài chính khác. Vì vậy, việc nghiên cứu về TD, kỹ thuật cho vay và đánh giá rủi ro trong quá trình cho vay thông qua việc phân tích TD nhằm tìm kiếm cơ hội đầu tư, hạn chế rủi ro trong việc cấp TD là vấn đề mà các NH quan tâm thường xuyên và có ý nghĩa to lớn trong việc quyết định đến sự tồn tại và phát triển của NH.
Môn học: phân tích TD và cho vay sẽ trang bị cho sinh viên những kiến thức cơ bản về cơ chế, chính sách của Nhà nước về hoạt động TD trong nền kinh tế thị trường, quy trình công nghệ, kỹ thuật phân tích TD truyền thống và hiện đại được áp dụng phổ biến trên thế giới. Để trang bị cho sinh viên những kiến thức trên, môn học phân tích TD và cho vay sẽ đề cập đến các nội dung sau:
- Những vấn đề chung về TD NH: Các nội dung trình bày bao gồm các vấn đề về lý thuyết liên quan đến TD như: khái niệm phân loại TD, định giá TD, đảm bảo TD, quy trình cho vay và phân tích TD, chính sách TD. Đây là những vấn đề chung được áp dụng cho tất cả các loại cho vay và tất cả các nhóm khách hàng khác nhau.
- Cho vay các doanh nghiệp. Các nội dung trình bày liên quan đến các loại cho vay ngắn hạn và kỹ thuật cho vay ngắn hạn, cách thức thẩm định, phân tích một hồ sơ vay ngắn hạn, các phương thức, kỹ thuật cho vay và thẩm định cho vay trung dài hạn.
- Cho vay cá nhân và hộ gia đình. Trình bày những đặc thù trong cho vay cá nhân và hộ gia đình, trong đó tập trung giới thiệu đặc thù của cho vay tiêu dùng, các phương thức và kỹ thuật thẩm định cho vay tiêu dùng, đặc thù cho vay nông nghiệp nông thôn, các phương thức và kỹ thuật thẩm định cho vay nông nghiệp nông thôn.
104 trang |
Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 2427 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Môn học phân tích tín dụng và cho vay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
mới xuất hiện ở Hàn Quốc, ấn Độ, Indonesia và đến đầu những năm 80, hoạt động cho thuê mới phát triển hầu hết ở các nước Châu á.
ở Việt Nam, hoạt động cho thuê phát triển khá muộn, ngân hàng đầu tiên trong lĩnh vực này là ngân hàng Ngoại thương Việt Nam (thành lập công ty cho thuê năm 1994). Hiện nay, cả nước có 9 công ty cho thuê tài chính bao gồm các công ty cho thuê trực thuộc các ngân hàng thương mại, công ty cho thuê liên doanh, và công ty cho thuê 100% vốn nước ngoài.
Theo luật TCTD Việt Nam, cho thuê tài chính là chức năng của các công ty cho thuê tài chính, đây là định chế tài chính phi ngân hàng.
7.1.2. Định nghĩa cho thuê
7.1.2.1. Định nghĩa cho thuê
Cho thuê (leasing) là một giao dịch hợp đồng giữa 2 chủ thể - bên chủ sở hữu tài snả và bên sử dụng tài sản, trong đó, bên chủ sở hữu tài snả - bên cho thuê chuyển giao tài sản cho bên đi thuê sử dụng trong một khoản thời gian nhất định và bên sử dụng tài sản phải thanh toán tiền thuê cho bên chủ sở hữu tài sản. Từ định nghĩa này cho thấy, cho thuê có đặc điểm:
- Là sự thoả thuận giữa bên cho thuê và bên đi thuê làm phát sinh sự tách rời giữa quyền sở hữu và quyền sử dụng tài sản trong thời hạn thuê.
- Bên đi thuê có nghĩa vụ thanh toán tiền thuê cho bên chủ sở hữu trong thời hạn thuê theo mức thoả thuận.
- Khi kết thúc hợp đồng thuê, bên đi thuê phải trả lại tài sản cho bên chủ sở hữu.
Cho thuê có 2 loại: Thuê vận hành (operating leases) và Thuê tài chính (financial leases).
Cho thuê vận hành là loại cho thuê ngắn hạn, bên thuê có thể huỷ bỏ hợp đồng, bên cho thuê chịu trách nhiệm bảo trì, đóng bảo hiểm và thuế tài sản
Cho thuê tài chính hay còn gọi là cho thuê vốn (capital leases) là loại cho thuê dài hạn, bên thuê không được huỷ bỏ hợp đồng, chịu trách nhiệm bảo trì, đóng bảo hiểm và thuế tài sản.
Theo quy định của Uỷ ban tiêu chuẩn kế toán quốc tế, bất cứ một giao dịch cho thuê nào thoả mãn ít nhất 1 trong 4 tiêu chuẩn sau đều được gọi là cho thuê tài chính.
- Quyền sở hữu tài sản được chuyển giao khi chấm dứt hợp đồng thuê.
- Hợp đồng thuê có quy định quyền chọn mua
- Thời hạn hợp đồng bằng phần lớn thời gian hoạt động của tài sản
- Hiện giá của các khoản tiền thuê lớn hơn hoặc gần bằng giá trị của tài sản.
Đối với Việt Nam (theo nghị định 16/2001/NĐ-CP, ngày 2/5/2001):
Cho thuê tài chính là hoạt động tín dụng trung dài hạn thông qua việc cho thuê máy móc thiết bị, pưhưong tiện vận chuyển và các động sản khác trên cơ sở hợp đồng cho thuê giữa bên cho thuê và bên thuê. Bên cho thuê cam kết mua theo yêu cầu của bên thuê và nắm giữ quyền sở hữu đối với tài sản cho thuê. Bên thuê sử dụng tài sản thuê và thanh toán tiền thuê trong suốt thời hạn thuê.
Khi kết thúc thời hạn thuê, bên thuê được quyền lựa chọn mua lại tài sản thuê hoặc tiếp tục thuê theo các điều kiện đã thoả thuận. Tổng số tiền thuê một loại tài sản ít nhất phải tương đương với giá trị của tài sản đó.
7.1.2.2. Lợi ích của tài trợ cho thuê
- Tạo điều kiện cho các doanh nghiệp hạn hẹp về ngân quỹ có được cơ sở vật chất cần thiết để sử dụng.
- Thời hạn cho thuê thường dài hơn so với thời hạn cho vay để mua tài sản.
- Giúp doanh nghiệp tránh được rủi ro về tính lạc hậu, lỗi thời của tài sản.
- Giao dịch cho thuê thường thực hiện nhanh chóng và linh hoạt hơn đi vay.
- Bên cho thuê luôn có quyền quản lý, kiểm soát tài sản theo điều khoản của hợp đồng thuê.
- Đối tượng tài trợ được thực hiện dưới dạng tài sản cụ thể gắn với mục đích kinh doanh của bên thuê nên mục đích sử dụng vốn được đảm bảo.
7.1.3. Các loại cho thuê tài chính
7.1.3.1. Các loại cho thuê tài chính cơ bản
- Cho thuê tài chính hai bên: theo phương thức này, trước khi thực hiện nghiệp vụ cho thuê, tài sản cho thuê đã thuộc quyền sở hữu của bên cho thuê (bên cho thuê đã mua hoặc đã xây dựng). Phương thức tài trợ này thường do các công ty sản xuất máy móc thiết bị thực hiện, các tổ chức tài chính ít áp dụng phương thức này.
- Cho thuê ba bên: theo phương thức này, bên cho thuê chỉ mua tài sản theo yêu cầu của bên thuê và đã được 2 bên thoả thuận theo hợp đồng thuê. Phương thức tài trợ này còn được gọi là phương thức cho thuê tài chính thuần, đây là phương thức cho thuê áp dụng phổ biến nhất vì nó có nhiều ưu điểm hơn so với phương thức cho vay 2 bên.
7.1.3.2. Các loại cho thuê tài chính đặc biệt
- Tái cho thuê: hay còn gọi là bán và thuê lại là một dạng đặc biệt của phương thức cho thuê có sự tham gia của 2 bên. Trong kinh doanh, có nhiều doanh nghiệp thiếu vốn lưu động để khai thác nên họ đã bán 1 phần TSCĐ hiện có và thuê lại tài sản để sử dụng. Ngoài ra, các định chế tài chính cũng áp dụng phương thức tài trợ này như là một biện pháp giải quyết nợ quá hạn thay vì dùng biện pháp thanh lý nợ.
- Cho thuê hợp tác: là phương thức cho thuê đặc biệt, biến tướng từ 2 phương thức cho thuê cơ bản ở trên nhằm để phân tán rủi ro khi các tài sản thuê có giá trị lớn. Đó là công ty cho thuê hợp tác với một hay nhiều bên cho vay để cùng tài trợ. Trong trường hợp này, bên cho thuê là trái chủ trong quan hệ cho thuê, còn bên cho vay là trái chủ của bên cho thuê. Vốn tài trợ bao gồm 2 phần, một phần bên cho thuê, một phần bên cho vay. Đối với hợp đồng thuê có giá trị lớn, bên cho thuê và cho vay cùng uỷ thác cho một tổ chức tài chính đứng ra đảm nhiệm toàn bộ công việc. Trong cho thuê hợp tác, vốn vay thường chiếm tỷ trọng lớn trong tổng số tiền tài trợ (từ 60% đến 80%), khoảng cho vay được đảm bảo bằng chính tài sản cho thuê và cam kết chuyển nhượng hợp đồng cho thuê và các khoản tiền thuê.
- Cho thuê giáp lưng: là phương thức cho thuê mà trong đó, thông qua sự đồng ý của bên cho thuê, bên đi thuê thứ nhất cho bên đi thuê thứ hai thuê lại tài sản đó, bên đi thuê thứ nhất thực chất là bên trung gian giữa bên cho thuê và bên thuê thứ hai. Khoảng tiền thuê bên thứ hai trả cho bên thuê thứ nhất cao hơn sơ với khoảng tiền thuê bên thứ nhất trả cho bên cho thuê, khoảng chênh lệch đó là hoa hồng trách nhiệm. Ngoài ra cho thuê giáp lưng cũng áp dụng trong trường hợp bên thuê thứ nhất đã thuê tài sản và đã sử dụng nhưng sau đó không có nhu cầu sử dụng thì cho bên khác thuê lại với sự đồng ý của bên cho thuê.
7.2. các nội dung phân tích trong hoạt động tàI trợ cho thuê
Đây là hoạt động tài trợ trung và dài hạn nên một số vấn đề cơ bản về quy trình tài trợ và nội dung phân tích cũng tương tự như cho vay trung dài hạn. Tuy nhiên, chúng ta cần lưu ý đến một số yếu tố đặc thù của hình thức tài trợ này như sau:
7.2.1. Phân tích các vấn đề liên quan đến tài sản cho thuê
- Trong hồ sơ đề nghị tài trợ, bên đi thuê cần phải mô tả chi tiết các thông số kỹ thuật liên quan đến tài sản, giá tài sản, nhà cung cấp và cách thức chuyển giao tài sản của các bên liên quan.
- Bên cho thuê là người sở hữu tài sản cho thuê nên cần phải thẩm định kỹ các yếu tố nêu trên nhất là trình độ của thiết bị và giá cả nhằm hạn chế rủi ro liên quan đến tài sản và thanh toán của bên thuê sau này.
7.2.2. Phân tích bảo đảm trong giao dịch cho thuê
Về nguyên tắc trong giao dịch cho thuê, không cần phải có tài sản bảo đảm. Tuy nhiên, trong một số trường hợp, bên cho thuê cũng có thể yêu cầu bên thuê phải có biện pháp bảo đảm thích hợp.
7.2.3. Phân tích nhà cung cấp và điều kiện chuyển giao tài sản
- Nhà cung cấp do bên đi thuê lựa chọn nhung bên cho thuê cần phải thẩm định kỹ năng lực của nhà cung cấp. Nếu xét thấy nhà cung cấp không đủ năng lực thực hiện hợp đồng thì bên cho yêu cầu bên đi thuê thay đổi nhà cung cấp khác có điều kiện tốt hơn.
- Đối với những thiết bị phức tạp, bên thuê cần phải thẩm định kỹ về trách nhiệm lắp đặt, bàn giao tài sản, đào tạo công nhân và chuyển giao công nghệ, bảo hành và bảo dưỡng. Đây là điều rất cần thiết nhằm sử dụng tài sản một cách hiệu quả, tạo điều kiện thanh toán tiền thuê đúng hạn.
7.2.4. Phân tích cách thức giám sát việc sử dụng và quản lý tài sản
Việc sử dụng và quản lý tài sản đúng quy trình kỹ thuật là một trong những nội dung cơ bản được quy định trong hợp đồng cho thuê. Để kiểm tra việc thực hiện các điều khoản theo hợp đồng, bên cho thuê phải giám sát định kỳ, hay đột xuất. Nội dung giám sát bao gồm:
- Kiểm tra quy trình bảo dưỡng tài sản của bên thuê và việc đóng bảo hiểm tài sản
- Kiểm tra môi trường vận hành tài sản và tình trạng hoạt động của tài sản, xem xét mức độ hư hỏng tài sản có nằm trong giới hạn cho phép không.
- Kiểm tra cường độ sử dụng tài sản (trong hợp đồng thuê thường có quy định hạn mức sử dụng tối đa, và bên thuê sẽ bị phạt nếu vi phạm).
Ngoài việc giám sát việc sử dụng và quản lý tài sản, bên cho thuê còn giám sát hiệu quả sử dụng vốn, việc thanh toán tiền thuê như trong cho vay để có biện pháp hạn chế rủi ro về tài sản và rủi ro tín dụng.
7.2.5. Phân tích các phương pháp xử lý tài sản khi chấm dứt hợp đồng cho thuê
Thông thường tài sản cho thuê có thể xử lý khi chấm dứt hợp đồng theo hướng:
- Bên đi thuê được chuyển giao quyền sở hữu tài sản thuê (thể hiện ở hợp đồng)
- Bên đi thuê mua lại tài sản thuê: bên đi thuê được quyền lựa mua hay không mua tài sản thể hiện ở hợp đồng, giá bán được tính toán trên cơ sở hiện giá (bán theo vốn gốc còn lại phải thu hồi).
- Cho thuê tiếp: : bên đi thuê được quyền lựa thuê tiếp tài sản thể hiện ở hợp đồng, tiền thuê trong thời hạn này thường thấp hơn so với tiền thuê trước đây.
- Bên thuê trả lại tài sản: trong trường hợp hợp đồng thuê không có điều khoản thoả thuận cách thức xử lý tài sản, có quy định quyền chọn mua hay thuê tiếp nhưng bên thuê từ chối lựa chọn quyền này. Bên cho thuê có quyền định đoạt tài sản như thu hồi hay uỷ quyền cho bên thuê bán tài sản.
7.2.6. Phân tích tổng số tiền tài trợ, thời hạn tài trợ, số tiền thuê
* Số tiền tài trợ: Trong giao dịch cho thuê không cần phải có vốn đối ứng, bên cho thuê sẽ cung cấp 100% vốn để mua tài sản. Vì vậy, số tiền tài trợ bao gồm:- Chi phí mua tài sản- Chi phí vận chuyển- Chi phí lắp đặt, chạy thử- Các chi phí khác để hình thành nguyên giá tài sản.
* Thời hạn tài trợ: Là khoảng thời gian kể từ khi bên thuê nhận tài sản để sử dụng cho đến khi chấm dứt quyền thuê theo hợp đồng. Nếu thời điểm thanh toán tiền mua và nhận tài sản của bên thuê khác nhau thì bên cho thuê sẽ lựa chọn một trong 2 cách xử lý sau:
- Nếu thời hạn thuê tính từ lúc nhận tài sản thì trong chi phí thuê phải cộng thêm chi phí mà bên cho thuê ứng trước để mua.
- Hai bên có thể thoả thuận thời hạn thuê kể từ khi bên cho thuê ứng vốn thanh toán việc mua tài sản.
Đối với một số hợp đồng, thời hạn cho thuê được chia 2 loại:
- Thời hạn cho thuê cơ bản: là thời hạn thoả thuận ghi trong hợp đồng cho thuê tài chính lần đầu, thời hạn này hai bên không được huỷ ngang.
- Thời hạn gia hạn: là thời hạn sau khi hết thời hạn cơ bản và 2 bên thoả thuận một thời hạn để thuê tiếp tài sản mà không cần mua hoặc trả lại tài sản. Trong thời hạn này, hợp đồng thuê có thể huỷ ngang, số tiền thuê thấp hơn thời hạn trước.
Việc xác định thời hạn thuê cơ bản phải dựa trên thời gian hoạt động của tài sản, tốc độ lỗi thời của tài sản, cường độ sử dụng tài sản, nhu cầu sử dụng tài sản, khả năng thanh toán và các rủi ro liên quan đến thị trường.
* Số tiền thuê: thực chất là vốn gốc và lãi mà bên đi thuê phải trả cho bên cho thuê, cách thức tính cũng tương tư như trong cho vay, tức phải dựa vào tổng số tiền tài trợ, thời hạn cho thuê và lãi suất. Ngoài ra, để tính tiền thuê các bên cần phải xác định các yếu tố:
- Kỳ hạn thanh toán tiền thuê: dựa vào đặc điểm sản xuất và luân chuyển vốn của doanh nghiệp đi thuê, có thể chọn một trong 2 cách sau:
+ Kỳ hạn thanh toán đều, thường theo tháng, quý hay năm
+ Kỳ hạn thanh toán thời vụ: áp dụng đối với doanh nghiệp sản xuất kinh doanh theo thời vụ, gắn với đặc điểm lưu chuyển tiền tệ của doanh nghiệp này.
- Thời điểm thanh toán: thường áp dụng vào đầu mỗi kỳ, tuy nhiên trường hợp đặc biệt có thể áp dụng vào cuối kỳ.
- Mức hoàn vốn trong thời hạn tài trợ: số tiền tài trợ được chia 2 phần, 1 phần thu hồi trong thời hạn tài trợ, phần còn lại được thu hồi thông qua việc bán tài sản hoặc cho thuê tiếp trong thời hạn gia hạn. Tuỳ theo tính chất của mỗi loại tài sản, cường độ sử dụng, các yếu tố rủi ro liên quan đến hoạt động cho thuê mà xác định mức thu hồi vốn trong thời hạn cho thuê cơ bản. Việc tính số tiền thuê thanh toán mỗi kỳ có thể được áp dụng theo một số phương pháp như: số tiền thuê giữa các kỳ được thanh toán đều vào đầu mỗi kỳ, vào cuối mỗi kỳ, tiền thuê thanh toán theo thời vụ, tiền thuê được tính trên cơ sở lãi suất thả nổi,...,
chương ViiI: đánh giá chất lượng danh mục cho vay và xử lý rủi ro
Mục tiêu: Chương này sẽ nghiên cứu phương pháp và quy trình đánh giá chất lượng danh mục cho vay. Qua đó, lựa chọn các giảI pháp để khắc phục các khoản cho vay có chất lượng thấp, đặc biệt là chú trọng việc xử lý các khoản cho vay có vấn đề với thiệt hại thấp nhất.
8.1. Rủi ro cho vay
8.1.1. Định nghĩa về rủi ro cho vay
Rủi ro cho vay là sự tổn thất tàI chính trực tiếp hay gián tiếp xuất phát từ người đI vay không thực hiện nghĩa vụ trả nợ đầy đủ và đúng hạn theo cam kết đã thoả thuận.
Biểu hiện của rủi ro cho vay là các khoản tiền vay không được thanh toán đúng hạn đã cam kết, có rất nhiều nguyên nhân dẫn đến các khoản tiền vay không được thanh toán đúng hạn đã cam kết. Vì vậy, để hạn chế tối đa các tổn thất của ngân hàng, cần có một chương trình quản trị đồng bộ, từ các chính sách quản trị từng khoản cho vay riêng lẻ và danh mục các khoản cho vay cho đến các biện pháp giám sát và xử lý các khoản cho vay đó.
8.1.2. Nguyên nhân rủi ro cho vay
Như ta đã biết, ngân hàng chỉ quyết định cho vay khi đã tiến hành phân tích tín dụng đầy đủ đối với khách hàng, xác định được ý chí và khả năng trả nợ của họ. Tuy nhiên:
- ý chí và khả năng trả nợ có thể bị thay đổi do nhiều lý do khi khoản vay đã được tiến hành.
- Sự phân tích tín dụng không thể đạt đến mức có thể dự đoán hoàn toàn chính xác về một khoản vay có được hoàn trả như đã thoả thuận hay không.
- Do sự yếu kém trong công tác phân tích tín dụng dẫn đến có những khoản cho vay bị sai lầm ngày từ đầu.
Do vậy, rủi ro cho vay là rủi ro thường xuất hiện trong hoạt động kinh doanh ngân hàng. điều này gây ra những tổn thất lớn cho ngân hàng. vì vậy, cần phảI nghiên cứu về rủi ro cho vay để có biện pháp ngăn ngừa, hạn chế rủi ro này, tạo cho hoạt động kinh doanh ngân hàng lành mạnh và phát triển.
8.1.3. Hậu quả của rủi ro cho vay
8.1.4. Các biện pháp ngăn ngừa, hạn chế rủi ro cho vay
8.2. xếp hạng và giám sát rủi ro danh mục cho vay
Trong suốt quá trình cho vay, ngân hàng cần phảI giám sát danh mục các khoản cho vay nhằm có những hành động kịp thời khi có một vấn đề phát sinh đối với các khoản cho vay.
8.2.1. Phân hạng rủi ro danh mục cho vay
8.2.1.1. Mục đích của phân hạng rủi ro danh mục cho vay
- Cho phép ngân hàng có nhận định chung về danh mục cho vay trong bảng cân đối của ngân hàng.
- Phát hiện sớm các khoản cho vay có khả năng bị tổn thất hoặc đI chệch khỏi chính sách cho vay của một ngân hàng.
- Có chính sách định giá chính xác, hợp lý hơn.
- Làm cơ sở để gia tăng sự giám sát hoặc điều chỉnh khoản cho vay.
- Làm cơ sở để xác định mức dự phòng rủi ro cho vay.
8.2.1.2. Phân hạng rủi ro danh mục cho vay
- Phân hạng rủi ro danh mục cho vay là việc sắp xếp các khoản cho vay dựa trên việc ước tính mức độ rủi ro tiềm tàng của từng khoản cho vay (thiện chí và khả năng trả nợ của từng khách hàng) trong danh mục cho vay của ngân hàng. Các ngân hàng thường phân hạng các khoản cho vay trong danh mục của mình theo 6 mức sau:
Mức 1: Khoản vay ít rủi ro : Khả năng trả nợ của khách hàng theo thoả thuận là khá chắc chắn nhưng có thể có yếu tố nhỏ về rủi ro.
Mức 2: Khoản vay có mức rủi ro trung bình: Khả năng trả nợ của khách hàng theo thoả thuận là vững chắc, mức rủi ro có thể chấp nhận được nhưng trên thực tế có khía cạnh yếu kém, có thể xảy ra rủi ro, cần có sự giám sát và kiểm soát.
Mức 3: Khoản vay có mức rủi ro trên trung bình: Khả năng trả nợ của khách hàng theo thoả thuận ở mức mạo hiểm cao do những yếu kém lớn trên một số khía cạnh nhưng những yếu kém trên các khía cạnh này có dấu hiệu có khả năng sữa chữa được, cần tăng cường việc giám sát để đảm bảo tình huống không xấu đi.
Mức 4: Khoản vay có mức rủi ro cao: Khách hàng đang trong tình trạng xấu kéo dàI như thua lỗ trong kinh doanh, khó khăn trầm trọng về khả năng thanh toán. Ngân hàng cần cố gắn cảI thiện hoặc từ bỏ mối quan hệ để tránh thua lỗ tiềm tàng.
Mức 5: Khoản vay khó đòi lãi: Khách hàng có rủi ro cao, ngân hàng có thể bị thất thoát lãI nhưng hy vọng có thể thu đủ nợ gốc theo thoả thuận là chắc chắn nhưng có thể có yếu tố nhỏ về rủi ro.
Mức 6: Khoản vay khó đòi cả gốc và lãi: Khách hàng có rủi ro cao, ngân hàng có thể bị thất thoát gốc và lãI, kể cả các chi phí sau khi đã nỗ lực hết sức áp dụng các biện pháp có thể có.
- Việc phân hạng rủi ro danh mục cho vay này được dựa trên cơ sở những dữ liệu mà ngân hàng thu thập được và tầm quan trọng của từng dữ liệu. Ngân hàng nên xếp hạng rủi ro cho tất cả khách hàng nhưng không được thông báo cho khách hàng biết về cấp độ rủi ro trong mọi trường hợp. Ngân hàng cũng cần phảI đánh giá lại ngay cấp độ rủi ro của khách hàng khi có sự thay đổi theo chiều hướng đI xuống về khả năng trả nợ của khách hàng.
- Việc phân hạng rủi ro danh mục cho vay này được dựa trên các dữ liệu và thông số như bảng cân đối kế toán và các thông số tàI chính, kinh nghiệm, tính cách và độ tin cậy của người điều hành doanh nghiệp, lịch sử vay nợ của doanh nghiệp, sự phụ thuộc của doanh nghiệp vào các nhà cung ứng chủ yếu và khách hàng mua, mức độ rủi ro về ngành kinh doanh mà khách hàng đang thực hiện, những biến động trong hoạt động kinh doanh của khách hàng, trình độ của những người lãnh đạo chủ chốt, chất lượng của các chiến lược kinh doanh trung dàI hạn của doanh nghiệp.
8.2.1.3. Phân hạng chất lượng tài sản bảo đảm
Sau khi xác định mức độ rủi ro của từng khách hàng, ngân hàng tiến hành đánh giá chất lượng của tàI sản đảm bảo khoản vay (nguồn thu nợ thứ 2) để có nhận định hoàn chỉnh về khoản vay và hướng xử lý. TàI sản bảo đảm cũng được xếp thành 6 mức như sau:
- TàI sản đảm bảo loại A: là loại tàI sản đảm bảo có giá trị có thể phát mại bằng 140% của giá trị khoản vay
- TàI sản đảm bảo loại B: là loại tàI sản đảm bảo có giá trị có thể phát mại bằng 110% của giá trị khoản vay
- TàI sản đảm bảo loại C: là loại tàI sản đảm bảo có giá trị có thể phát mại bằng 80% của giá trị khoản vay
- TàI sản đảm bảo loại D: là loại tàI sản đảm bảo có giá trị có thể phát mại bằng 50% của giá trị khoản vay
- TàI sản đảm bảo loại E: là loại tàI sản đảm bảo có giá trị có thể phát mại bằng 20% của giá trị khoản vay
- TàI sản đảm bảo loại F: là loại tàI sản đảm bảo có giá trị có thể phát mại bằng 0% của giá trị khoản vay
(tham khảo quyết định số 493/2005/QĐ-NHNN về việc phân hạng các khoản cho vay và trích lập dự phòng rủi ro)
8.2.2. Giám sát danh mục cho vay
Việc giám sát các khoản cho vay được thực hiện bằng nhiều phương pháp khác nhau tuỳ theo từng ngân hàng hoặc áp đồng thời các phương pháp, đó là:
- Phương pháp dùng bảng so sánh: ngân hàng xây dựng một bảng theo dõi với các nội dung đã được thống nhất với khách hàng. bảng theo dõi được tiến hành qua từng tháng trong suốt thời gian vay. Qua bảng này , ngân hàng có thể thấy được sự biến động về chất lượng của khoản cho vay
- Phương pháp dùng đồ thị: khi nhận được số liệu, ngân hàng đưa các số liệu lên đồ thị (trục là tháng, trục là mức độ chỉ tiêu), mỗi chỉ tiêu theo dõi trên một đồ thị riêng. khi nhận được số liệu thực tế, ngân hàng cũng đưa nó lên đồ thị, các đường biểu diễn sẽ phản ánh đầy đủ chất lượng của khoản cho vay.
- Phương pháp kiểm tra tại chỗ: Phương pháp này đem lại sự yên tâm hơn cho ngân hàng hơn là việc phân tích các báo cáo tàI chính. Nội dung kiểm tra cũng như trên nhưng được thực hiện bằng phương pháp kiểm tra tại chỗ. Qua kiểm tra sẽ thấy rõ các dấu hiệu cảnh báo để có nhận định trong việc giám sát và xếp hạng.
8.3. Các dấu hiệu nhận biết các khoản cho vay có vấn đề và biện pháp ngăn ngừa rủi ro cho vay
8.3.1. Các dấu hiệu nhận biết các khoản cho vay có vấn đề
Việc kinh doanh khó có thể thất bại qua 1 đêm mà sự thất bại đó thường có 1 vàI dấu hiệu báo động, có dấu hiệu biểu hiện mờ nhạt nhưng cũng có dấu hiệu biểu hiện rõ ràng. Nhiệm vụ của ngân hàng là cần phảI phát hiện ra những dấu hiệu ban đầu của các khoản vay có vấn đề nếu muốn ngăn ngừa và giảm thiểu rủi ro. Dấu hiệu của các khoản cho vay có vấn đề bao gồm:
Nhóm 1: Các biểu hiện liên quan đến mối quan hệ với ngân hàng
* Về tàI khoản tiền gởi: có những biểu hiện như: xuất hiện việc phát hành séc quá số dư, khó khăn trong thanh toán lương, gia tăng các khoản nợ thương mại hoặc không có khả năng thanh toán các món nợ đến hạn, sự sụt giảm về số dư trên tàI khoản tiền gởi, thường xuyên yêu cầu hỗ trợ nguồn vốn lưu động từ nhiều nguồn khác nhau, không có khả năng thực hiện các hoạt động cắt giảm chi phí.
* Về tàI khoản tiền vay: có những biểu hiện như: mức độ vay thường xuyên gia tăng, thanh toán chậm các khoản nợ gốc và lãI, thường xuyên yêu cầu ngân hàng cho đáo nợ, yêu cầu các khoản vay vượt quá nhu cầu dự kiến.
* Về phương thức tàI chính: có những biểu hiện như: sử dụng nhiều khoản tàI trợ ngắn hạn cho nhu cầu dàI hạn, chấp nhận các nguồn tàI trợ đắt, giảm các khoản phảI trả và tăng khoản phảI thu, các hệ số thanh toán biến động theo chiều hướng xấu, vốn điều lệ có chiều hướng sụt giảm.
Nhóm 2: Các biểu hiện liên quan đến phương pháp quản lý của khách hàng như:
- Thường xuyên thay đổi cơ cấu của hệ thống quản trị hoặc ban điều hành.
- Hệ thống quản trị luôn có những bất đồng về mục đích, về phương pháp quản trị, điều hành.
- Việc hoạch định các chiến lược, kế hoạch được thực hiện bởi nhà quản trị ít hay không có kinh nghiệm, nhà quản trị tham gia quá sâu vào công việc thường nhật, việc thuyên chuyển nhân viên xảy ra thường xuyên, ít quan tâm đến lợi ích của các cổ động và chủ nợ. Việc hoạch định các chiến lược, kế hoạch kém, thường xuyên xuất hiện các hành động nhất thời, không có khả năng ứng phó với những thay đổi.
- Đội ngũ kế cận yếu kém, việc quản lý có tính gia đình, cục bộ địa phương, những vị trí quan trọng được giao cho những người chưa được đào tạo, huấn luyện đầy đủ mà dựa vào mối quan hệ với nhà quản trị.
- Có tranh chấp giữa hội đồng quản trị, giám đốc điều hành với các cổ đông, chính quyền địa phương, nhân viên, người cho vay, khách hàng.
- Các chi phí quản lý bất hợp lý như trang trí văn phòng, phương tiện đI lại đắt tiền,…
Nhóm 3: Các biểu hiện liên quan đến ngành nghề kinh doanh
Nhóm 4: Các biểu hiện liên quan đến vấn đề kỹ thuật và thương mại như: khó khăn trong việc phát triển sản phẩm, sự thay đổi về lãI suất, tỷ giá, thị hiếu, kỹ thuật mới hay mất nhà cung ứng, khách hàng lớn hoặc xuất hiện thêm đối thủ cạnh tranh. NgoàI ra, sự thay đổi cơ chế, chính sách của nhà nước, nhất là sự tác động của chính sách thuế, môI trường, điều kiện thành lập và hoạt động hay sản phẩm của khách hàng có tính thời vụ.
Nhóm 5: Các biểu hiện liên quan đến các thông tin tàI chính, kế toán như chậm trể, trì hoãn việc nộp các báo cáo tàI chính, các số liệu tàI chính không đầy đủ hoặc qua phân tích các chỉ tiêu tàI chính cho thấy có sự gia tăng không cân đối về tỷ lệ nợ thường xuyên, tiền mặt sụt giảm đột ngột, doanh số gia tăng nhưng tiền lãI ít hay không có lãI, những thay đổi về tỷ lệ lãI gộp, lãI ròng trên doanh số bán, lượng hàng tồn kho tăng nhanh, phảI thu tăng nhanh, thời gian nợ kéo dàI, hoạt động kinh doanh bị thua lỗ, nguồn vốn không đủ trả nợ theo kế hoạch, làm đẹp bảng cân đối bằng cách tạo ra tàI sản vô hình.
8.3.2. Biện pháp ngăn ngừa
Trong quá trình giám sát và xếp hạng rủi ro danh mục các khoản cho vay, nếu có khoản cho vay có vấn đề (chứa đựng tiềm ẩn rủi ro cao) thì cần phảI có biện pháp ngăn ngừa sớm. Việc ngăn ngừa được thực hiện qua 5 bước sau:
8.3.2.1. Lập kế hoạch gặp gỡ khách hàng
- Việc thực hiện gặp gỡ khách hàng để tìm biện pháp khắc phục các khoản cho vay có vấn đề được giao cho bộ phận chuyên môn hoá, tuỳ theo quy mô ngân hàng lớn hay nhỏ mà được bố trí khác nhau (có thể giao cho một chuyên gia chuyên trách hay 1 tổ riêng của phòng tín dụng hoặc thành lập 1 phòng quản lý rủi ro cao).
- Việc chuyên môn hoá sẽ có nhiều lợi ích như tận dụng được kỹ năng chuyên môn hoá, người được phân công không bị phân tán bởi công việc khác, dễ dàng áp dụng các biện pháp mạnh nếu cần, hoặc đánh giá vấn đề không bị ảnh hưởng bởi các nhân tố trong quá khứ. Nhân viên được giao phụ trách công việc này đòi hỏi phảI có khả năng phân tích tín dụng, khả năng đàm phán, chín chắn, thông minh, nắm bắt và hiểu nhanh vấn đề.
- Cán bộ tín dụng bàn giao hồ sơ tín dụng cho cán bộ phụ trách, cán bộ phụ trách cần phảI nắm bắt các vấn đề như lịch sử khoản tín dụng, các yếu tố rủi ro tiềm ẩn chính, các dấu hiệu, diễn biến gần nhất, các nội dung liên quan đến hồ sơ tín dụng.
- Chuẩn bị gặp gỡ khách hàng: để đảm bảo kết quả tốt trong cuộc gặp gỡ và tìm ra biện pháp ngăn ngừa, cán bộ phụ trách cần phảI chuẩn bị và chắc chắn: Hồ sơ của ngân hàng đầy đủ và cập nhập mới như giấy đề nghị vay vốn, phương án kinh doanh, báo cáo tàI chính, hồ sơ tàI sản đảm bảo,… Các hồ sơ phảI đảm bảo trung thực, hợp pháp nhất là các hồ sơ ghi lại những thoả thuận giữa ngân hàng và khách hàng, hồ sơ về quyết định tín dụng của ngân hàng. Tất cả các giấy tờ về tàI sản đảm bảo phảI được kiểm tra và tin rằng chúng đầy đủ, có hiệu lực. Tiến hành định giá lại tàI sản đảm bảo để nắm được giá trị hiện tại của chúng. Chuẩn bị các dữ kiện chắc chắn để khách hàng công nhận tất cả các vấn đề liên quan đến khoản vay. Xem xét các cơ hội nào có thể gia tăng tàI sản đảm bảo không. Nắm vững khách hàng có khoản vay nào khác ngoàI ngân hàng không.
- Từ các tàI liệu trên, cán bộ phụ trách phảI nhận định được nguyên nhân căn bản dẫn đến rủi ro cao tiềm ẩn của khoản vay là gì?. Phương án kinh doanh đang ở giai đoạn nào và hiểu rõ ngành nghề kinh doanh đó. Đánh giá vị trí của khách hàng trên thị trường. Nắm rõ tình hình tàI chính của khách hàng. Quản lý nội của khách hàng ở tình trạng nào, nhất là chi phí, hàng tồn kho, khoản phảI thu. Các tiềm năng của khách hàng còn có thể giảm nợ là gì?. Các tiềm năng có thể cắt giảm chi phí hoạt động của khách hàng. TàI sản đảm bảo có được thế chấp cho khoản vay khác không?. Khả năng trì hoãn tối đa các khoản nợ ngoàI ngân hàng của khách hàng là bao lâu?.
8.3.2.2. Gặp gỡ khách hàng
Sau khi chuẩn bị tốt, cán bộ phụ trách tiến hành gặp gỡ khách hàng. thông thường, nhân viên tín dụng là người giới thiệu với khách hàng về nhân viên phụ trách. đây là cuộc gặp gỡ rất có ý nghĩa. Khi đó cần phảI xác định rõ vị trí vững chắc của ngân hàng, song không có nghĩa đe doạ, kích động mà nên mở đầu câu chuyện thỏa máI, không đề cập đến công việc ngay nhưng cũng không nên tốn thời gian vào những chuyện xa công việc, hỏi những câu hỏi rõ ràng, ngắn gọn, lắng nghe khi trả lời, không nên ngắt lời khách hàng. Ngân hàng cần hỏi tất cả các vấn đề mình chưa rõ, chỉ ra một vàI bất hợp lý một cách nhẹ nhàng để khách hàng giảI thích. Đích cuối cùng của cuộc gặp này là cho khách hàng biết rõ quan điểm của ngân hàng về khoản vay này và mong muốn của ngân hàng. Những vấn đề cần thông báo cho khách hàng bao gồm:
- Những khó khăn và tính chất của những khó khăn mà ngân hàng cho rằng nó sẽ làm mất an toàn khoản cho vay.
- Với lý do đó, ngân hàng phảI tiến hành kiểm soát để đưa các biện pháp phòng ngừa, giảm bớt thiệt hại.
- Yêu cầu khách hàng cung cấp thông tin để xây dựng 1 phương án khắc phục thích hợp như báo cáo tàI chính hiện tại, kế hoạch doanh thu và lợi nhuận, kế hoạch doanh thu tiền mặt, dự đoán khả năng thiếu tiền trong năm tàI chính, dự kiến của khách hàng khi tự mình giảI quyết các khoản nợ như thế nào?
Kết quả, nếu khách hàng đồng ý hợp tác cùng giảI quyết các điểm yếu của khoản tín dụng thì đó là dấu hiệu tốt. Tuy nhiên, nếu khách hàng không đồng ý với nhận định của ngân hàng và không tỏ ý hợp tác thì ngân hàng vẫn phảI tìm tiếng nói chung. Mặt khác, phảI chuẩn bị các dữ kiện liên quan đến khách hàng để đối phó với tình huống này một cách chủ động.
8.3.2.3. Lập phương án khắc phục, hoặc ngăn ngừa
- Phương án khắc phục, hoặc ngăn ngừa dựa trên cơ sở thông tin khách hàng cung cấp, kế hoạch tự khách phụ của khách hàng và sự phân tích của các chuyên gia tư vấn bên ngoàI ngân hàng (nếu cần).
- Nội dung của phương án khắc phục bao gồm:
+ Những đánh giá chính thức của ngân hàng về khó khăn đối với khoản vay.
+ Các biện pháp cần thiết để giảI quyết vấn đề.
+ Cách thức tiến hành các biện pháp đó như thế nào?
+ Kế hoạch về thời gian mà các hoạt động này cần đạt được.
- Trong các nội dung của phương án thì nội dung thứ 2 “Các biện pháp cần thiết để giảI quyết vấn đề” là quan trọng hơn cả. tuỳ theo nhận định của ngân hàng về khó khăn của khoản vốn vay mà có thể áp dụng các biện pháp sau để điều chỉnh lại tình huống:
+ Biện pháp cố vấn: Ngân hàng đưa ra các biện pháp có tính chất tư vấn về nhiều chủ đề như bán hàng, sản xuất, thu ngân,…
+ Biện pháp tăng thêm vốn: Đề nghị khách hàng phát hành thêm cổ phiếu.
+ Biện pháp sát nhập: Khuyến khích bên vay hợp nhất với các tổ chức khác.
+ Biện Pháp giảm bớt kế hoạch sản xuất kinh doanh: ngân hàng yêu cầu khách hàng huỷ bỏ các kế hoạch mở rộng kinh doanh cho đến khi tình hình tàI chính được cảI thiện.
+ Biện pháp đẩy mạnh thu hồi các khoản phảI thu chậm trả: bằng cách tạo ra các nhân sự chuyên về lĩnh vực này.
+ Biện pháp kiểm soát hàng tồn kho: Giảm giá bán hay tăng mức chiết khấu sẽ tăng doanh số, tăng dòng tiền và tạo cho khách hàng có thể trả nợ.
+ Biện pháp tăng tàI sản đảm bảo: Đưa thêm tàI sản đảm bảo cho khoản vốn vay, tạo cho khoản vốn tăng khả năng đảm bảo
+ Biện pháp kết cấu lại khoản nợ: gia hạn, rút mức trả nợ hàng tháng, thậm chí tạm ngừng thu nợ gốc trong 1 thời gian.
+ Biện pháp gia tăng khối lượng khoản vay: Biện pháp này chỉ được áp dụng khi tất cả các điều kiện ngân hàng đặt ra đều được đáp ứng và chắc chắn rằng khách hàng có thể đặt vào đường phục hồi.
8.3.2.4. Thực hiện phương án
Sau khi phương án được phê chuẩn, ngân hàng mở cuộc họp với khách hàng, giao cho khách hàng bản phương án khắc phục. Nếu khách hàng không chấp nhận, ngân hàng chuyển khoản vay này sang bộ phận thu hồi. Nếu khách hàng chấp nhận, ngân hàng và khách hàng sẽ có văn bản thoả thuận bao gồm các nội dung: mục tiêu của phương án, biểu thời gian hoàn thành, mốc thời gian thực hiện, phương án giám sát, mực tiêu giảm nợ cụ thể và biện pháp cụ thể.
8.3.2.5. Kiểm tra việc thực hiện phương án
- Cán bộ phụ trách phảI thực hiện kiểm tra phương án khắc phục trên 2 khía cạnh:
+ Kết quả tàI chính theo tháng, kết quả thoả thuận giữa ngân hàng và khách hàng.
+ Kết quả các giảI pháp áp dụng có tỏ ra phù hợp không?
- Việc kiểm tra phảI được thành lập văn bản với các nội dung như: kết quả kinh doanh của khách hàng khi áp dụng phương án so với kế hoạch đề ra, các mốc thời gian có đạt không, nguyên nhân của việc không đạt, đề xuất các thay đổi với phương án khắc phục,… và trình bày trước hội đồng tín dụng của ngân hàng.
- Kết quả qua thời gian thực hiện và kiểm tra việc thực hiện phương án khắc phục, nếu khoản vay chuyển hướng bình thường thì cán bộ phụ trách chuyển cho cán bộ tín dụng quản lý, nếu không chuyển sang bộ phận truy hồi tàI sản.
8.4. Xử lý rủi ro cho vay
8.4.1. Tổ chức khai thác
Các giảI pháp khai thác được sử dụng khi khách hàng lâm vào trạng tháI nợ nần có vấn đề do gặp rủi ro và có tháI độ thoả đáng với khoản nợ nhưng phảI đặt trong hoàn cảnh có khả năng về nguồn trả nợ, tàI sản còn có, quản lý ở mức lành mạnh. GiảI pháp khai thác có thể hiểu là một chương trình phục hồi hay khắc khổ để áp dụng lên người vay với sự cộng tác và thoả thuận của họ. Các biện pháp này không phảI là công cụ pháp lý, nó đem lại cho ngân hàng triển vọng thu hết được món nợ và duy trì được mối quan hệ lâu dàI đối với khách hàng, biểu hiện của hình thức khai thác như:
- Ngân hàng đưa ra lời khuyên trên nhiều chủ đề nhằm tác động đến khả năng tạo ra và thu lợi tức của người vay như bán bớt tàI sản, thực hiện chương trình mở rộng sản xuất, định giá lại tàI sản, thay đổi phương thức bán, tăng sản phẩm mới, loại bỏ một số hoạt động không sinh lợi.
- Tăng cho vay để hỗ trợ phương án thu hồi. đây là phương án gặp nhiều rủi ro nên ngân hàng cần phảI khẳng định khoản vay bổ sung sẽ góp phanà củng cố khả năng thanh toán của khách hàng và khách có thể trả được nợ. Khách hàng cũng cần phảI kiểm toán độc lapạ, có ý kiến dự đoán của các chuyên gia về kế hoạch thu chi tiền mặt và kế hoạch liên đới. Ngân hàng phảI được bổ sung tàI sản đảm bảo, thời hạn vay bổ sung phảI trong khoản chấp nhận được.
- Ngân hàng giúp khách hàng chuyển sang ngân hàng khác hoặc chủ nợ khác nếu có yêu cầu (bán nợ).
- Ngân hàng chỉ định một đại diện quản lý tàI sản thế nợ. Việc chỉ định này cho phép người ấy được chỉ định kiểm soát điều hành doanh nghiệp.
- Phương pháp thoả hiệp: khi ngân hàng rơI vào tình trạng tiến thoáI lưỡng nan như bảo đảm tín dụng không đủ, giá trị tàI sản đảm bảo giảm, thoả thuận vay có sơ hở, khách hàng bất hợp tác hoàn toàn,… thì ngân hàng sẽ chấp nhận không đưa khách hàng ra toà và nhận một số tiền ít hơn (thoả hiệp).
- Gia hạn thời gian xử lý khi khách hàng có một hợp đồng mới đầy triển vọng sinh lợi. điều kiện áp dụng biện pháp này là ngân hàng phảI nắm chắc được phần lớn lợi nhuận dự tính của hợp đồng, dòng tiền không bị rò rỉ sang chủ nợ khác, ngân hàng nắm giữ được hợp đồng và hiểu được thiện chí của đối tác. kiểm tra tính chắc chắn của phương án và các giả thiết đặt ra.
8.4.2. Thực hiện thanh lý
Các biện pháp thanh lý sẽ là tối ưu nếu ngân hàng xét thấy tổ chức khai thác không tiện lợi, khả năng cảI thiện tình hình tàI chính của khách hàng là không thể, khách hàng không sẵn lòng chi trả, hành động lừa đảo. Các biện pháp thanh lý thường dùng đến pháp luật, bao gồm:
- Phát mại tàI sản đảm bảo
- Thanh lý doanh nghiệp
- Phá sản doanh nghiệp
8.5. Thanh lý các khoản cho vay có vấn đề
8.5.1. KháI niệm và các trường hợp thanh lý khoản cho vay
- Thanh lý là bán hoặc huỷ bỏ vật cũ không dùng nữa.
- Thanh lý là hoàn tất việc thực hiện hợp đồng giữa các bên đã ký.
- Thanh lý là một hành vi hay một quá trình nhằm kết thúc sự tồn tại của một công ty hay một giao dịch nào đó trên cơ sở bán các tàI sản để thực hiện các nghĩa vụ.
- Thanh lý tín dụng là một hành vi hay một quá trình giảI trừ các nghĩa vụ và quyền lợi của các chủ thể tham gia quan hệ hợp đồng tín dụng.
Các trường hợp thanh lý khoản cho vay
- Thanh lý mặc nhiên là việc chấm dứt hiệu lực của hợp đồng tín dụng khi khoản vay đã được hoàn trả đầy đủ cả gốc và lãi.
- Thanh lý tín dụng bắt buộc là ngân hàng dựa vào các cơ sở pháp lý để tìm kiếm các nguồn bù đắp nhằm xử lý khoản vay. Những cơ sở pháp lý để đòi nợ của ngân hàng thường là các điều khoản ràng buộc trong hợp đồng tín dụng hoặc theo quy định của pháp luật hiện hành. Thanh lý tín dụng bắt buộc thường thực hiện trong những trường hợp khi khách hàng vi phạm những nghĩa vụ mà họ phảI thực hiện từ hợp đồng tín dụng cũng như các hợp đồng phụ có liên quan. Thanh lý tín dụng được chia 2 loại là thanh lý toàn phần và thanh lý một phần.
+ Thanh lý toàn phần được thực hiện trong trường hợp sau khi thanh lý khách hàng giảI trừ được toàn bộ nghĩa vụ đối với ngân hàng.
+ Thanh lý một phần chỉ giảI trừ một phần nghĩa vụ hoặc quyền lợi của các bên tham gia hợp đồng như các trường hợp:
@. Các khoản nợ đã thu hồi từ tàI sản đảm bảo nhưng không đủ và đã sử dụng các nguồn bù đắp của ngân hàng để loại ra khỏi nội bảng.
@. Các khoản nợ khê đọng khác đã sử dụng các nguồn của ngân hàng để bù đắp nhưng chưa thu hồi được từ người đI vay.
@. Bán các khoản nợ theo điều khoản được phép truy đòi
Để thực hiện thanh lýb nợ hợp lý, cần phân loại các khoản cho vay theo mức độ rủi ro. Tuỳ theo tính chất của từng loại khoản nợ mà ngân hàng áp dụng các biện pháp thanh lý thích hợp nhằm đảm bảo mục tiêu thu hồi vốn được nhiều nhất và chi phí thanh lý thấp nhất. Có thể phân chia khoản mục cho vay thành các loại sau:
+ Các khoản nợ chưa đáo hạn, được ngân hàng xếp vào nợ tốt. Các khoản nợ này được thanh lý trong trường hợp ngân hàng muốn thay đổi hướng, vùng đầu tư, hoặc khả năng kiểm soát của ngân hàng xuất phát từ mục tiêu lợi nhuận hay thâm nhập thị trường mới. Phương pháp áp dụng trong những trường hợp này là bán nợ hoặc chứng khoán hoá.
+ Các khoản nợ quá hạn còn có khả năng thu hồi: Đây là những khoản nợ đã vi phạm hợp đồng về thời hạn trả nợ. Tuỳ theo nợ này có tàI sản đảm bảo hay không mà áp dụng thanh lý thích hợp.
+ Các khoản nợ mất khả năng thu hồi có đảm bảo: Đối với các khoản nợ này, ngân hàng cần phảI tiến hành thanh lý từng bước. Về nguyên tắc, xử lý tàI sản đảm bảo để thu nợ, nếu chưa thu hồi đủ, ngân hàng sẽ áp dụng các biện pháp như nợ không có đảm bảo.
+ Các khoản nợ mất khả năng thu hồi không có đảm bảo: Đối với các khoản nợ này, ngân hàng sẽ áp dụng các biện pháp liên quan đến việc tuyên bố pháp sản doanh nghiệp, khoán nợ, trợ cấp của ngân sách nhà nước.
8.5.2. Thanh lý các khoản cho vay có vấn đề bằng việc xử lý tàI sản đảm bảo
8.5.2.1. Xử lý tàI sản thế chấp
- Trực tiếp bán tàI sản thê chấp cho người mua: (trừ trường hợp tàI sản thế chấp là quyền sử dụng đất và các tàI snả khác mà pháp luật quy định phảI bán tại tổ chức bán đấu giá chuyên trách). Người vay hoặc ngân hàng tự tìm người mua để bán tàI sản thế chấp trên cơ sở thoả thuận giá bán tối thiểu.
- Ngân hàng nhận tàI sản thế chấp thay cho nghĩa vụ trả nợ: đối với tàI sản thế chấp là quyền sử dụng đất và tàI sản gắn liền với đất chỉ được thực hiện khi có đồng ý của người vay.
- Bán tàI sản thế chấp thông qua tổ chức dịch vụ bán đấu giá:
- Yêu cầu toà án cho phép phát mại tàI sản thế chấp để trả nợ vay ngân hàng
8.5.2.2. Xử lý tàI sản cầm cố
- TàI sản cầm cố phân thành hai loại là:
+ TàI sản tàI chính (giấy tờ có giá, tiền gởi, ký quỹ) và các quyền về tàI sản (các khoản phảI thu trong thương mại, trong nhận thầu xây dựng).
+ TàI sản vật chất (vật tư hàng hoá, máy móc phương tiên đI lại, đồ dùng sinh hoạt) những tàI sản này thường chia hai loại là có đăng ký sở hữu hay không cần đăng ký sở hữu tại cơ quan Nhà nước có thẩm quyền.
- Xử lý tàI sản tàI chính và các quyền về tàI sản: TàI sản tàI chính thường được ngân hàng nắm giữ và chỉ thanh lý hợp đồng bảo đảm khi khách hàng hoàn tất các nghĩa vụ cho ngân hàng. khi bắt buộc phảI thanh lý, ngân hàng dựa vào những thoả thuận trong hợp đồng để xử lý theo các cách sau:
+ Ký hậu bỏ trống các giấy tờ có giá trị bằng tiền (áp dụng đối với giấy tờ có thể ký hậu được). Khi nhận cầm cố, ngân hàng yêu cầu khách hàng ký hậu bỏ trống tên người thụ hưởng, lúc thanh lý, ngân hàng ghi tên mình vào chỗ tên người thụ hưởng để được quyền nhận số tiền từ tàI sản này. nếu giấy tờ có giá có thể chuyển nhượng trên thị trường tiền tệ thì ngân hàng sẽ bán để thu hồi nợ.
+ Cam kết uỷ quyền cho ngân hàng được quyền xử lý để thu nợ (áp dụng đối với tiền gởi có kỳ hạn, tiền gởi tiết kiệm, ký quỹ và các loại khác). đến hạn cam kết ngân hàng thu hoặc trích từ nguồn này để thu nợ nếu khách hàng không trả nợ. Việc uỷ quyền này được thể hiện trên 1 điều khoản trong hợp đồng tín dụng hay một văn bản riêng.
+ Khởi kiện yêu cầu toà án xử để truy đòi nợ (áp dụng trong trường hợp có tranh chấp hay có dấu hiệu lừa đảo khi tàI sản cầm cố là các khoản phảI thu trong thương mại hay trong nhận thầu hay hợp đồng bảo hiểm nhân thọ).
- Xử lý tàI sản vật chất:
+ Đối với tàI sản phảI đăng ký quyền sở hữu hay đăng ký lưu hành thì ngân hàng áp dụng các phương pháp xử lý như tàI sản thế chấp.
+ Đối với tàI sản không cần đăng ký sở hữu, ngân hàng nắm giữ, nếu khách hàng không trả được nợ thì ngân hàng có quyền xử lý tàI sản cầm cố theo thoả thuận trong hợp đồng.
8.5.2.3. Yêu cầu người bảo lãnh thực hiện nghĩa vụ
Nếu người đI vay không trả nợ, thì yêu cầu người bảo lãnh thực hiện nghĩa vụ trả nợ. Nếu người bảo lãnh không thực hiện nghĩa vụ trả nợ, ngân hàng sẽ xử lý theo các cách sau:
- Nếu bảo lãnh có thế chấp, cầm cố thì tiến hành phát mại tàI sản
- Nếu bảo lãnh không có thế chấp, cầm cố thì tiến hành xử lý như nợ không có đảm bảo
Nếu sau khi xử lý tàI sản mà vẫn không thu được nợ đủ thì người bảo lãnh có được giảI trừ nghĩa vụ hay không tuỳ theo quy định của pháp luật và nội dung cam kết của hợp đồng bảo lãnh. Người bảo lãnh chỉ được giảI trừ nghĩa vụ còn lại và người vay phảI thực hiện nghĩa vụ đối với ngân hàng khi hợp đồng bảo lãnh phảI nêu phạm vi bảo lãnh (giá trị ròng của tàI sản tại thời điểm thanh lý). Hoặc người bảo lãnh phảI tiếp tục thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh cho đến khi tuyên bố mất khả năng thanh toán.
8.5.3. Truy đòi người thứ ba trong cho vay gián tiếp
Đối với các loại cho vay gián tiếp như chiết khấu, mua hợp đồng bán trả góp, hoá đơn thương mại,… ngân hàng được uỷ quyền truy đòi người đI vay nếu người có nghĩa vụ thanh toán không trả nợ đúng hạn. Riêng đối với nghiệp vụ chiết khấu, luật pháp cho phép ngân hàng được quyền truy đòi tất cả các chủ thể liên quan đến thương phiếu như người phát hành, người bảo lãnh, người chuyển nhượng,….
8.5.4. Thanh lý các khoản cho vay khi khách hàng bị phá sản
Phá sản có thể hiểu là một thủ tục đòi nợ đặc biệt được tiến hành thông qua hoạt động của cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Doanh nghiệp có thể chủ động làm đơn nộp lên toà án và yêu cầu phá sản (phá sản tự nguyện) hoặc toà án làm thủ tục tuyên bố phá sản theo đơn yêu cầu tuyên bố phá sản của ngân hàng (với tư cách một trong các những chủ nợ chính các khoản nợ không có tàI sản bảo đảm hay bảo đảm một phần). Khi tiến hành thanh lý tín dụng đối với khách hàng phá sản cần phân biệt khách hàng là người đI vay và khách hàng trong nghiệp vụ chiết khấu.
8.5.4.1. Đối với khách hàng là người đI vay
* Đối với khoản nợ được đảm bảo bằng cầm cố thế chấp: sau khi toà ra quyết định mở thủ tục giảI quyết phá sản, mọi tàI sản của doanh nghiệp do toà quản lý và có trách nhiệm bảo quản. tàI sản thế chấp, cầm cố chỉ được phát mại khi toà tiến hành hội nghị chủ nợ. Những tàI sản đem thế chấp, cầm cố được toà giám sát, quản lý và phát mại, số tiền thu được ưu tiên trả nợ ngân hàng (cũng có thể sử dụng để gán nợ cho ngân hàng). Nếu vẫn chưa thu đủ nợ, ngân hàng sẽ trở thành chủ nợ không đảm bảo và được thanh toán theo thứ tự ưu tiên 4 (lương, thuế, có đảm bảo bằng tàI sản, nợ khác).
* Đối với các khoản nợ không có đảm bảo: tham gia vào phân chia như các chủ nợ không ưu tiên khác.
8.5.4.2. Đối với khách hàng trong nghiệp vụ chiết khấu
Nếu thương phiếu đến hạn trước ngày toà án quyết định mở thủ tục tuyên bố phá sản và người thụ lệnh không có khả năng trả nợ , ngân hàng có quyền đòi các bên liên đới thanh toán.
Nếu thương phiếu đến hạn sau ngày toà án quyết định mở thủ tục tuyên bố phá sản, tuỳ theo từng trường hợp cụ thể và quy định của pháp luật mà ngân hàng có thể lựa chọn (hay bắt buộc) dùng quyền truy hoàn hối phiếu cho doanh nghiệp đang bị tuyên bố phá sản bằng cách trả lại quyền sở hữu hối phiếu cho doanh nghiệp để thu lại tiền đã ứng. Và ngân hàng mất quyền truy đòi đối với những người có trách nhiệm liên đới.
8.5.5. Bán các khoản cho vay
8.5.5.1. KháI niệm về nghiệp vụ bán khoản cho vay
Bán khoản cho vay là nghiệp vụ mà trong đó ngân hàng chuyển quyền đòi nợ cho một tổ chức tín dụng khác để sớm thu hồi vốn của mình. Thực chất, việc bán khoản cho vay thường được các ngân hàng lớn thực hiện nhằm tạo điều kiện cho ngân hàng thay đổi quy mô hoạt động, cảI thiện khả năng thanh khoản của ngân hàng, cảI thiện danh mục cho vay và đầu tư, ngăn chặn rủi ro, tăng thu nhập. Bán khoản cho vay mang lại cho ngân hàng một số lợi ích sau:
- Bán khoản cho vay sẽ giảI phóng một lượng vốn, làm tăng khả năng thanh khoản của ngân hàng.
- Bán khoản cho vay sẽ giúp ngân hàng táI cấu trúc lại danh mục cho vay giữa các doanh nghiệp, các ngành kinh tế, nhằm giảm rủi ro, tăng lợi nhuận.
- Bán khoản nợ xấu hoặc có biểu hiện khó kiểm soát sẽ đảm bảo an toàn hơn cho các khoản nợ còn lại mặc dù bán thấp hơn mệnh giá.
- Bán khoản cho vay sẽ giúp ngân hàng cơ cấu lại các khoản mục tàI sản sinh lợi theo hướng giảm tỷ trọng dư nợ cho vay và tăng tỷ trọng đầu tư để thích ứng với môI trường kinh tế, đặc biệt là thay đổi của lãI suất thị trường và các giai đoạn của chu kỳ phát triển kinh tế nhằm hạn chế rủi ro tín dụng, rủi ro lãI suất của các khoản cho vay.
- Phần lỗ sau khi bán trong những trường hợp được chia sẽ với chính phủ vì nó cho phép ngân hàng không phảI nộp thuế thu nhập
Tuy nhiên việc bán khoản cho vay bị giới hạn bởi một số yếu tố như:
- PhảI có người mua, tức phảI đáp ứng yêu cầu về giá cả, chủng loại,..
- PhảI giảI quyết tốt mâu thuẫn vừa muốn bán với giá tối ưu, vừa muốn tăng sự an toàn (muốn bán những khoản nợ xấu), vừa phảI chuyển giao thông tin về khách hàng mà ngân hàng có, vừa phảI có nghĩa vụ bảo mật những thông tin đó.
- Việc Bán khoản cho vay thường bị hạn chế và chịu sự kiểm soát của Nhà nước
8.5.5.2. Đối tượng trong nghiệp vụ bán khoản cho vay
Thông thường, ngân hàng bán khoản cho vay còn thời hạn trong khoản 90 ngày, những khoản cho vay này có thể cũ hay mới. đây là khoản cho vay có tính thanh khoản cao, có khả năng thu hồi cao và có thể là những khoản cho vay không có đảm bảo.
Trong thực tế, các ngân hàng có thể bán khoản cho vay với thời hạn còn lại vàI tuần, thậm chí vàI ngày nhưng cũng có thể bán khoản cho vay với thời hạn vàI năm. nhìn chung là khoản cho vay đều còn thời hạn và được đánh giá tốt.
Một đối tượng khác trong nghiệp vụ bán khoản cho vay là những khoản cho vay quá hạn hoặc có khả năng khó thu hồi. Loại nợ này có tỷ lệ thu hồi thấp, tức mức lãI chiết khấu cao và người mua thường có sẵn thông tin về lĩnh vực cũng như khu vực đầu tư của khoản cho vay được chuyển giao. Tuy nhiên, việc mở rộng giao dịch loại đối tượng này có thể gây bất ổn cho hệ thống nên thường bị giới hạn.
Theo quy định 140/1999/QĐ-NHNN14 ban hành ngày 19/4/1999. nợ quá hạn được phép mua bán là nợ chưa trả được gốc, hoặc lãI, hoặc cả gốc và lãI khi đến hạn do khách hàng nợ có khó khăn tạm thời trong kinh doanh nhưng có khả năng thu hồi.
8.5.5.3. Giá bán khoản cho vay và thời điểm bán
8.5.5.4. Phương thức bán khoản cho vay
Bán khoản cho vay dự phần: theo phương thức này, người mua khoản cho vay ở bên ngoàI hợp đồng tín dụng giữa ngân hàng và khách hàng nợ. Người mua chỉ tham gia cùng ngân hàng bán kiểm tra bất kỳ một kỳ hạn nào bị vi phạm khi có những biến đổi quan trọng về thời hạn trong hợp đồng tín dụng. Người mua có vai trò kiểm soát cả 2 bên (ngân hàng và khách hàng).
Bán hợp đồng: theo phương thức này, ngân hàng bán chuyển quyền sở hữu cho người mua khoản cho vay và người mua có quyền quan hệ trực tiếp với khách hàng nợ. điều này có nghĩa là cần phảI có sự đồng ý của khách hàng nợ trước khi thoả thuận bán khoản cho vay. NgoàI ra, ngân hàng mua có quyền truy đòi nếu khách hàng nợ gây thiệt hại cho ngân hàng mua.
Người mua chỉ tham gia cùng ngân hàng bán kiểm tra bất kỳ một kỳ hạn nào bị vi phạm khi có những biến đổi quan trọng về thời hạn trong hợp đồng tín dụng. Người mua có vai trò kiểm soát cả 2 bên (ngân hàng và khách hàng).
8.6. Nguồn bù đắp tổn thất khi thực hiện thanh lý khoản cho vay có vấn đề
Việc thanh lý các khoản cho vay bằng cách xử lý tàI sản bảo đảm, tuyên bố phá sản doanh nghiệp, truy đòi người liên đới trách nhiệm trong cho vay gián tiếp, bán các khoản cho vay không phảI lúc nào cũng thu đủ nợ. Khi không thu đủ nợ ngân hàng cần phảI có nguồn bù đắp các tổn thất đó để cảI thiện tình hình tàI chính của ngân hàng.
8.6.1. Các trường hợp tổn thất
Tổn thất trong thanh lý tín dụng là những khoản nợ không được hoàn trả sau khi ngân hàng đã tận thu tất cả các nguồn của người đI vay. Có các trường hợp tổn thất trong thanh lý tín dụng như sau:
- Số tiền thu được từ bán tàI sản đảm bảo nhỏ hơn số nợ phảI trả và người đI vay đã mất khả năng thanh toán phần còn thiếu.
- Các khoản cho vay không có tàI sản bảo đảm đã được xử lý sau khi tuyên bố phá sản nhưng không thu đủ nợ.
- Giá bán của khoản cho vay nhỏ hơn mệnh giá của khoản cho vay và không thu được phí dịch vụ dự kiến sau khi bán.
- Các khoản cho vay không có tàI sản bảo đảm của các tổ chức, cá nhân có trách nhiệm vô hạn mà người vay không còn có khả năng chi trả.
- Các người liên đới trách nhiệm mà ngân hàng được phép truy đòi không có khả năng trả nợ.
8.6.2. Bù đắp tổn thất sau khi thanh lý tín dụng
Việc bù đắp tổn thất trong hoạt động thanh lý tín dụng chủ yếu được sử dụng từ quỹ dự phòng rủi ro. Quỹ dự phòng xử lý rủi ro được hình thành sau khi phân loại các khoản cho vay dựa trên cơ sở đánh giá mức độ rủi ro và được hạch toán vào chi phí hoạt động ngân hàng. Quỹ này dùng để bù đắp những tổn thất trong hoạt động tín dụng. Theo quy định hiện nay của Việt Nam, các trường hợp sau được sử dụng quỹ dự phòng để bù đắp tổn thất:
- Khách hàng mất năng lực pháp lý như doanh nghiệp bị giảI thể, cá nhân chết, mất tích, bị toà kết án tù giam trên 1 năm và không còn tàI sản để trả nợ.
- Khách hàng mất khả năng thanh toán nợ do bị phá sản, do nguyên nhân bất khả kháng như thiên tai hoả hoạn, dịch bệnh, hoặc do Nhà nước thay đổi cơ chế chính sách.
Trước khi dùng quỹ dự phòng để bù đắp, giá trị tổn thất phảI được bù đắp bằng tiền bồi thường của các tổ chức, cá nhân và của các tổ chức bảo hiểm. Nếu giá trị tổn thất nhỏ hơn quỹ dự phòng, ngân hàng tiến hành thanh lý nợ bằng quỹ dự phòng *(xoá nội bảng và theo dõi ngoại bảng). Nếu giá trị tổn thất lớn hơn quỹ dự phòng *( trường hợp này ít xảy ra, chỉ có vào thời kỳ suy thoáI kinh tế). ở Việt Nam: quỹ dự phòng rủi ro được tất toán theo năm tàI chính, nếu thừa chuyển thành lợi nhuận trước thuế. Nếu thiếu dùng các nguồn khác để thanh lý (dùng quỹ dự phòng tàI chính để bù đắp, nếu vẫn còn thiếu được hạch toán vào chi phí bất thường).
Quỹ dự phòng tàI chính được trích 10% lợi nhuận còn lại sau khi đã nộp thuế, trích quỹ dự trữ bổ sung vốn điều lệ, bù đắp các khoản lỗ năm trước, nộp tiền thu về sử dụng vốn ngân sách, nộp tiền phạt. Số dư quỹ này không vượt quá 25% vốn điều lệ, quỹ này được trích hàng năm và được dùng để bù đắp tổn thất trong trường hợp quỹ dự phòng được trích lập trong chi phí không đủ bù đắp tổn thất thực tế.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Môn học phân tích td và cho vay.doc