CHƯƠNG I: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG
1. Khái niệm, bản chất
1.1. Vốn đầu tư phát triển
Trên phương diện nền kinh tế: Vốn đầu tư phát triển là biểu hiện bằng tiền toàn bộ những chi phí đã chi ra để tạo ra năng lực sản xuất (tăng thêm tài sản cố dịnh và tài sản lưu động) và các khoản đầu tư phát triển khác.
1.2. Nguồn vốn đầu tư phát triển
Nguồn vốn đầu tư là thuật ngữ dùng để chỉ các nguồn tập trung và phân phối vốn cho đầu tư phát triển kinh tế đáp ứng nhu cầu chung của nhà nước và xã hội.
1.3. Bản chất nguồn vốn đầu tư phát triển
Xét về bản chất , nguồn hình thành vốn đầu tư chính là phần tiết kiệm hay tích lũy của nền kinh tế có thể huy động được để đưa vào quá trình tái sản xuất xã hội .
2. Phân loại
2.1. Nguồn vốn đầu tư trong nước
Nguồn vốn đầu tư trong nước là phần tích lũy của nội bộ nền kinh tế bao gồm tiết kiệm của khu vực tư nhân, các tổ chức kinh tế, các doanh nghiệp và tiết kiệm của chính phủ được huy động vào quá trình tái sản xuất của xã hội.
2.1.1.Nguồn vốn nhà nước
Nguồn vốn đầu tư của nhà nước bao gồm nguồn vốn của ngân sách nhà nước, nguồn vốn tín dụng đầu tư phát triển
37 trang |
Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 2144 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Mối quan hệ giữa vốn trong nước và vốn nước ngoài, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
kinh nghiệm của nước ngoài để tự mình hoạt động có hiệu quả hơn. Đó có thể là các kinh nghiệm về quản lý, tổ chức sản xuất hay cải thiện trình độ công nghệ. Khi công nghệ của nước ngoài đã cũ, họ có thể chuyển giao sang cho nước sở tại, cũng làm tăng tiềm lực công nghệ của nước sở tại.
Thông qua kênh liên kết sản xuất: Các doanh nghiệp nước ngoài có thể thiết lập nên các liên doanh với doanh nghiệp trong nước, cải thiện khả sử dụng vốn của các đối tác trong nước. Các doanh nghiệp trong nước muốn làm ăn với nước ngoài thì cần phải đảm bảo các tiêu chuẩn về độ tin cậy, chất lượng và tốc độ giao hàng. Ngoài ra thì sự năng động của các nhà đầu tư nước ngoài sẽ kéo theo các ngành sản xuất trong nước và vận tải nội địa hoạt động mạnh hơn nhằm đáp ứng yêu cầu hoạt động của các doanh nghiệp nước ngoài. Các doanh nghiệp nước ngoài còn tạo điều kiện cho các doanh nghiệp trong nước tiếp cận với thị trường thế giới, giúp nước nhận mở rộng thị trường tiêu thụ hàng hóa và là cầu nối trung gian giúp cho các doanh nghiệp xuất nhập khẩu vươn ra thịt trường bên ngoài.
Thông qua kênh di chuyển lao động (nhân lực): Các nhà đầu tư tiến hành tuyển dụng lao động ở nước sở tại và đào tạo họ để đáp ứng các yêu cầu công việc. Họ đào tạo từ công nhân cho tới cán bộ quản lý. Khi có sự luân chuyển lao động thì những kỹ năng lao động hữu ích này sẽ lan ra toàn bộ nền kinh tế và làm tăng năng lực của người lao động ở nước sở tại.
=> Tất cả các kênh trên sẽ tác động đồng thời làm tăng năng suất lao động của nước sở tại. Các nguồn vốn sẽ được sử dụng một cách có hiệu quả hơn.
Vốn nước ngoài cũng làm hoàn thiện thị trường tài chính trong nư ớc và tăng khả năng cạnh tranh, hiệu quả của thị trường tài chính.
Trong đó tác động mạnh mẽ nhất là lên TTCK. Vốn đầu tư nước ngoài vào cổ phiếu trong nước giúp giảm chi phí vốn ở nước sở tại và đa dạng hóa rủi ro. Sự có mặt của các nhà đầu tư nước ngoài còn tạo áp lực cải thiện thể chế và chính sách trong nước. Các nhà đầu tư đi kèm là các công ty đánh giá mức độ tín nhiệm sẽ cải thiện chất lượng thông tin và nhờ đó tăng tính hiệu quả của TTCK. Cơ chế cáo bạch sẽ tăng lên và giúp nước sở tại phát triển các dịch vụ về kế toán, kiểm toán, dịch vụ môi giới và kinh doanh chứng khoán. Ngoài ra sự có mặt của các nhà đầu tư nước ngoài cũng giúp thị trường vốn nước sở tại từng bước hội nhập với thị trường vốn toàn cầu.
Những tác động tiêu cực nếu như việc sử dụng và quản lý nguồn vốn nước ngoài không tốt
Đúng như trên chúng ta đã phân tích, những tác động tích cực của nguồn vốn nước ngoài mang lại cho chúng ta là rất lớn, song không phải lúc nào nguồn vốn nước ngoài cũng mang lại hiệu quả như mong muốn mà nó cũng luôn tiềm ẩn những nguy cơ cho nước tiếp nhận và tác động tới nguồn vốn trong nước đặc biệt là về khả năng trong tương lai của nguồn vốn này
a. Luôn tiềm ẩn nguy cơ làm gia tăng nợ nước ngoài và gia tăng sự phụ thuộc vào nền kinh tế nước ngoài nhất là đối với nguồn ODA.
Nguồn vốn ODA luôn chứa đựng cả tính ưu đãi cho nước tiếp nhận và lợi ích của nước viện trợ. Chính vì vậy, ODA mang yếu tố chính trị. Các nước viện trợ nói chung đều không quên đựơc lợi ích cho mình, vừa gây ảnh hưởng chính trị, vừa thực hiện xuất khẩu hàng hoá và dịch vụ tư vấn vào nước tiếp nhận. Bản thân các nước phát triển nhìn thấy lợi ích của mình trong việc hỗ trợ, giúp đỡ các nước đang phát triển để mở mang thị trường tiêu thụ sản phẩm và thị trường đầu tư. Viện trợ thường gắn với các điều kiện kinh tế. Xét về lâu dài, các nhà viện trợ sẽ có lợi về mặt an ninh, kinh tế, chính trị khi kinh tế các nước nghèo phát triển. Viện trợ các nước không chỉ đơn thuần là việc giúp đỡ hữu nghị mà còn là một công cụ lợi hại để thiết lập và duy trì lợi ích kinh tế và vị thế chính trị cho nước tài trợ. Những nước cấp viện trợ đòi hỏi những nước tiếp nhận phải thay đổi chính sách phất triển cho phù hợp với lợi ích của bên tài trợ. Khi nhận viện trợ, các nước cần cân nhắc kỹ lưỡng những điều kiện của các nhà tài trợ, không vì lợi ích trước mắt mà đánh mất những quyền lợi lâu dài. Quan hệ hỗ trợ phát triển chính thức phải đảm bảo tôn trọng toàn vẹn lãnh thổ của nhau, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau, bình đẳng cùng có lợi.
ODA là nguồn vốn có khả năng gây nợ. Khi tiếp nhận và sử dụng vốn ODA do tính chất ưu đãi nên gánh nặng nợ nần thường chưa xuất hiện. Một số nước do sử dụng không hiệu quả ODA có thể tạo nên sự tăng trưởng nhất thời, nhưng sau một thời gian lại lâm vào vòng nợ nần do không có khả năng trả nợ. Sự phức tạp chính là ở chỗ vốn ODA không có khả năng đầu tư trực tiếp cho sản xuất, nhất là do xuất khẩu trong khi việc trả nợ lại dựa vào xuất khẩu thu ngoại tệ. Mặt khác với ODA là nguồn vốn vay lâu dài, do ban đầu chưa phải trả nợ ngay nên ODA hay được sử dụng lãng phí, không hiệu quả. Khi đến kì trả nợ thì người phải trả lại là thế hệ sau, vì vậy, nó còn kìm hãm khả năng phát triển lâu dài của nguồn vốn trong nước. Do đó, trong khi hoạch định chính sách sử dụng ODA cần phải phối hợp với các loại nguồn vốn để tăng cường sức mạnh kinh tế và khả năng xuất khẩu.
b. Nguồn vốn nước ngoài di chuyển vào trong nước làm tăng thu nhập của vốn nước ngoài trên thị trường trong nước và làm giảm thu nhập của nguồn vốn trong nước.
Về thực chất đây là việc tái phân phối thu nhập của vốn trong nước cho vốn nước ngoài, do đó có thể gây ra làn sóng "bài ngoại" của vốn trong nước và hiện tượng xung đột ngấm ngầm, hoặc công khai trong quan hệ giữa vốn trong nước và vốn nước ngoài
c. Nguồn vốn nước ngoài được đầu tư khá nhiều vào khai thác tài nguyên, dẫn đến làm giảm khả năng phát triển lâu dài của nguồn vốn trong nước.
Đặc điểm của tài nguyên thiên nhiên là bắt nguồn từ tính chất quý hiếm và sự phân bố không đòng đều giữa các vùng trên trái đất. Các nước đang phát triển thường có nhiều tài nguyên thiên nhiên hơn các nước phát triển. Một trong những động cơ của các nhà đầu tư nước ngoài là nhằm khai thác tài nguyên thiên nhiên rẻ và dồi dào ở những nước tiếp nhận. Họ có thể khai thác để đem về nước sản xuất hoặc sản xuất thành sản phẩm ngay tại nước sở tại. Có một hình thức khai thác khác là khai thác những địa điểm du lịch hấp dẫn có sẵn hoặc ở dạng tiềm năng của chúng ta. Nhưng nguồn tài nguyên của chúng ta chỉ có hạn, nếu cứ khai thác như vậy thì không biết trong bao lâu nữa sẽ cạn kiệt. Thế hệ sau sẽ không có nguyên, nhiêu liệu để sản xuất vì vậy sẽ gặp bất lợi do có thể sẽ phải nhập khẩu nguyên liệu hoặc tốn kém chi phí cho nghiên cứu tìm ra nguyên liệu khác thay thế. Việc này sẽ làm giảm khả năng phát triển về lâu dài của nguồn vốn trong nước
d. Tình trạng lũng đoạn thị trường của nhà đầu tư nước ngoài và cạnh tranh không cân sức giữa doanh nghiệp trong nước với và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài có thể làm phá sản doanh nghiệp trong nước và gây thất nghiệp.
Một thực tế mà tất cả chúng ta đều có thể dễ dàng nhìn thấy, đó là doanh nghiệp nước ngoài thường làm ăn có hiệu quả hơn với doanh nghiệp trong nước đó là bởi các lý do sau
• Thứ nhất năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp trong nước đang phát triển thường rất hạn chế bởi đa số các doanh nghiệp đều có quy mô nhỏ và ít vốn. Cộng thêm vào đó là đa số các chủ doanh nghiệp và giám đốc doanh nghiệp tư nhân chưa được đào tạo một cách bài bản về kiến thức kinh doanh, quản lý, kinh tế - xã hội, văn hóa, luật pháp... và kỹ năng quản trị kinh doanh, nhất là kỹ năng kinh doanh trong điều kiện hội nhập quốc tế. Điều đó được thể hiện rõ trong việc nhiều doanh nghiệp chưa chấp hành tốt các quy định về thuế, quản lý nhân sự, quản lý tài chính, chất lượng hàng hóa, sở hữu công nghiệp...
• Thứ hai, sự lạc hậu về khoa học - công nghệ của các doanh nghiệp trong nước. Hiện nay, đa số các doanh nghiệp nước ta đang sử dụng công nghệ lạc hậu so với mức trung bình của thế giới từ 2 đến 3 thế hệ, trong đó số máy móc hiện đại chiếm tuỷ lệ thấp. Bên cạnh đó đầu tư để dổi mới công nghệ lại thường chiếm tỷ lệ rất thấp khoảng 0.2 dên 0.5 % doanh thu
• Thứ ba, hạn chế về khâu nguyên vật liệu và sự yếu kém về thương hiệu các doanh nghiệp
• Thứ tư, chiến lược phân phối, chiến lược truyền thông và xúc tiến thương mại của các doanh nghiệp trong nước còn nhiều hạn chế.
e. Làm chảy máu chất xám sang khu vực có vốn đầu tư nước ngoài
Doanh nghiệp nước ngoài còn cạnh tranh với doanh nghiệp trong nước trong lĩnh vực thu hút nguồn nhân lực bởi chính sách lương, thưởng và những trợ cấp. Thông thường do được hưởng nhiều ưu đãi và môi trường làm việc tốt hơn mà đa số những người có trình độ tay nghề thường làm trong các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Việc này đã làm giảm đáng kể nhân tài cho khu vực trong nước, góp phần làm giảm khả năng phát triển của khu vực này.
è Giữa hai nguồn vốn trong nước và ngoài nước tồn tại mối quan hệ hữu cơ với nhau. Mỗi nguồn đều có những tác động tích cựu và những điểm hạn chế tới việc huy động, hiệu quả sử dụng và mức đóng góp cho sự phát triển chung của nguồn vốn còn lại. Biểu hiện đó có thể là những tác động trực tiếp, và những tác động gián tiếp là chủ yếu qua một số kênh trong nền kinh tế như: Kênh lao động, kênh chuyển giao công nghê, kênh cạnh tranh và ổn định môi trường vĩ mô chung cho sự vận động của cả hai nguồn vốn.
Một điều luôn cần phải xem xét là những tác động tiềm ẩn nguy cơ bất ổn định nền kinh tế của các dòng vốn từ ngoài nước (đầu tư gián tiếp nước ngoài, viện trợ chính phủ…).Những bất ổn này có thể là nguyên nhân của nhiều cuộc khủng hoảng và có thể đánh đổ những thành quả mà nguồn vốn trong nước đã xây dựng trên con đường phát triển.
Tóm lại, nhìn nhận mối quan hệ hữu cơ giữa hai nguồn vốn trong nước và ngoài nước trong sự đóng góp của chúng trong phát triển kinh tế là cần thiết.Quan trọng là chúng ta phải có được chiến lược kết hợp ,phân bổ, sử dụng hai nguồn vốn này thế nào cho hợp lý nhât để đạt được hiệu quả toàn diện. Muốn làm được điều này,chúng ta cần nghiên cứu những diễn biến của từng nguồn vốn và mối quan hệ giữa chúng trên thực tê như thế nào?
CHƯƠNG III: THỰC TRẠNG THU HÚT, SỬ DỤNG HAI NGUỒN VỐN ĐẦU TƯ TRONG NƯỚC VÀ NGUỒN VỐN ĐẦU TƯ NƯỚC NGOÀI VÀ MỘT SỐ GIẢI PHÁP.
A. THỰC TRẠNG
I. Nguồn vốn trong nước
1. Nguồn vốn đầu tư của Nhà nước:
Hàng năm nguồn vốn nhà nước dành cho đầu tư ngày càng tăng và chiếm tỷ trọng rất lớn trong ngân sách nhà nước, trong GDP, là nguồn lực quan trọng trong quá trình phát triển kinh tế của đất nước. Qui mô đầu tư, hiệu quả đầu tư tác động trực tiếp đến sự phát triển bền vững, hiệu quả kinh tế và đời sống con người.
1.1 Đầu tư từ Ngân sách nhà nước
Tổng vốn đầu tư từ NSNN trong 5 năm 2001-2005 là 274.3 nghìn tỷ đồng (trong đó phần vốn ODA đưa vào ngân sách để đầu tư là 41,75 nghìn tỷ đồng), bằng 22.8% tổng vốn đầu tư toàn xã hội và chiếm 28% tổng chi NSNN. Trong 3 năm cuối của thời kỳ ổn định ngân sách 2004-2006, vốn đầu tư cho lĩnh vực xã hội tăng từ 46% lên 51,1% trong khi đó đầu tư cho lĩnh vực kinh tế giảm từ gần 53% xuống 47.5%.
Có thể đánh giá việc bố trí vốn kế hoạch NSNN trong thời gian qua đã được tập trung hơn, khắc phục một bước tình trạng đầu tư dàn trải; Các địa phương đã chủ động giảm bớt các dự án khởi công mới tập trung vốn cho các dự án chuyển tiếp, các dự án hoàn thành, cụ thể số dự án của các địa phương triển khai năm 2006 chỉ còn 10.276 dự án , ít hơn năm 205 là 424 dự án,trong đó số dựa ns hoàn thành chiếm 35% tổng số dự án thực hiện; Lượng thực hiện và giải ngân vốn đầu tư xây dựng cơ bản của một số ngành và địa phương đạt kết quả khá cao; Về thanh toán nợ đọng xây dựng cơ bản, đi đôi với việc tập trung vốn cho các công trình hoàn thành đưa vào sử dụng , nhiều tỉnh thành phố đã chủ động bố trí kế hoạch vốn để xử lý nợ xây dựng cơ bản từ các năm trước. Theo số liệu báo cáo sơ bộ, trong năm 2006 các địa phương đã bố trí 3.406 tỷ đồng ( bằng khoảng 25% tổng số vốn đầu tư trong cân đối không kể vốn vốn đầu tư từ nguồn thu về sử dụng đất) thanh toán khối lượng nợ xây dựng cơ bản của 2.009 dự án; Việc chấp hành các thủ tục đầu tư và xây dựng được thực hiện tốt hơn so với các năm trước đây, nhìn chung các dự án được bố trí trong kế hoạch năm 2006 đều đảm bảo các thủ tục đầu tư và xây dựng , cũng như các quy định của nhà nước về phân bổ kế hoach vốn đầu tư.
Bên cạnh đó cũng phải thừa nhận sự chậm trễ trong việc thực hiện và giải ngân nguồn vốn ngân sách Nhà nước và trái phiếu chính phủ. Công tác chỉ đạo, điều hành và quản lý thực hiện dự án của các Bộ, ngành, địa phương còn nhiều hạn chế. Công tác xây dựng, thẩm định, phê duyệt dự án, tổng dự toán và thiết kế kỹ thuật… vừa chậm trễ, vừa chưa đảm bảo yêu cầu chất lượng. Công tác khảo sát ban đầu thiếu chính xác, không xác định đầy đủ các yếu tố liên quan. Các quy định hướng dẫn tính toán điều chỉnh chi phí, định mức đầu tư thường chậm được xử lý của các cấp thẩm quyền và không đồng bộ với các biến động thị trường. Thủ tục phê duyệt tổng dự toán, kế hoạch đấu thầu, kết quả trúng thầu…của một số Bộ, ngành và địa phương còn rất rườm rà và phức tạp; Năng lực tư vấn và năng lực nhà thầu thi công còn kém. Mặc dù trong thời gian gần đây, năng lực của các đơn vị tư vấn, nhất là tư vấn lập dự án và tư vấn thiết kế tuy có được cải thiện nhưng vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu. Tình trạng dự án phải điều chỉnh nhiều lần vẫn chưa được khắc phục. Sự yếu kém về tài chính và năng lực thi công của nhiều nhà thầu cũng là nguyên nhân chậm tiến độ đầu tư xây dựng công trình; Quy chế quản lý đầu tư và xây dựng còn nhiều bất cập. Một số văn bản hướng dẫn thực hiện các Luật, Nghị định của Chính phủ về đầu tư, xây dựng, đấu thầu thanh toán vốn chưa được thống nhất và thiếu cụ thể, gây khó khăn cho việc thực hiện ở các đơn vị cơ sở. Việc thông báo giá của các địa phương thường không đầy đủ, và không cập nhật thường xuyên, nên khi lập dự toán các chủ đầu tư phải triển khai thêm nhiệm vụ thoả thuận với địa phương để bổ sung vào thông báo giá, gây lãng phí và chậm trễ trong công tác đấu thầu. Việc tính trượt giá chưa được quy định thống nhất, cũng là nguyên nhân kéo dài thời gian lập, thẩm định và phê duyệt dự án; Công tác giải phóng mặt bằng còn chậm, đặc biệt là trong tình hình giá đất đai đang ở mức cao, chi phí đền bù lớn cũng là nguyên nhân ảnh hưởng đến tiến độ thực hiện và giải ngân nguồn vốn đầu tư.
1.2. Tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước
Chính sách tín dụng đầu tư phát triển của nhà nước đến nay đã khẳng định tính đúng đắn đường lối đổi mới của Đảng và Nhà nước trong lĩnh vực đầu tư, phản ánh tính tất yếu của quá trình phát triển kinh tế xã hội chuyển từ nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung sang nền kinh tế vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước. Trong điều kiện khả năng tích luỹ của ngân sách nhà nước, cùng với các chính sách thu hút đầu tư, Chinh phủ đã có thêm công cụ khai thác nguồn vốn trong xã hội để hỗ trợ đầu tư phát triển phục vụ cho sự nghiệp CNH - HĐH.
Cụ thể trên một số mặt sau:
- Tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước đã góp phần tăng cường cơ sở vật chất kỹ thuật, nâng cao năng lực của nền kinh tế. Nguồn vốn tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước tăng trưởng cao và chiếm tỷ trọng đáng kể trong tổng vốn đầu tư của toàn xã hội, từng bước xoá bỏ sự chênh lệch về trình độ phát triển và đời sống của nhân giữa các vùng, miền tạo đà cho các vùng kinh tế cùng phát triển..
- Hỗ trợ phát triển một số lĩnh vực trọng điểm của nên kinh tế.
Về phát triển cơ sở hạ tầng kinh tế: Hàng nghìn km cầu đường giao thông được mở rộng, góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế – xã hội trên từng địa bàn và trong phạm vi cả nước, nhất là vùng miền núi, vùng biên giới hải đảo. Xây dựng mới hơn 500 km đường dây 500KV ,gần 2.000 km đường dây 220KV và 110KV hàng trăm trạm biến áp các loại ,công suất phát điện tăng 2.000MV.Vốn đầu tư cho các dự án góp phần tăng năng lực sản xuất điện và phân phối điện năng. Ở các vùng kinh tế trọng điểm và cửa khẩu quốc gia , hạ tầng nhiều khu kinh tế, KCN, KCX được hình thành ,nâng cấp ,mở rộng , đáp ứng nhu cầu xuất nhập khẩu hàng hoá, dịch vụ,sản xuất kinh doanh của các DA;
Phát triển các ngành sản phẩm công nghiệp trọng điểm: Vốn tín dụng phát triển của Nhà nước đầu tư cho 17 nhà máy đóng tầu có khả năng đóng mới hàng chục tàu trọng tải từ 6.500 tấn đến 53.000 tấn mỗi năm; 42 tàu vận tải biển trọng tải từ 3.600 tấn đến 22.000 tấn. Ngành đường sắt được đầu tư đóng mới 166 toa xe khách và 610 toa xe hàng. Nguồn vốn này cũng góp phần tăng thêm năng lực sản xuất :2.8 triệu tấn xi măng , 0.55 triệu tấn thép, 50 vạn tấn phân bón các loại, trên 1 triệu bộ săm lốp ô tô , 45.000 tấn sợi, 110 triệu m2 vải thành phẩm, 23 triệu sản phẩm dệt kim … mỗi năm.
- Tạo sự chuyển biến lớn về lượng và chất trong việc khai thác các nguồn vốn cho đầu tư, thúc đẩy sự phát triên của thị trường tài chính.
- Giải quyết các vấn đề xã hội: Vốn tín dụng đã đầu tư và đưa vào sử dụng hàng trăm trường học, trường dạy nghề , bệnh viện ,trạm xá ,các khu nhà ở và đô thị mới .các dự án được đầu tư băng nguồn vốn này đã góp phần tạo công ăn việc làm cho hàng triệu lao động , đào tạo nguồn nhân lực, bảo vệ môi trường sinh thái ,bảo vệ sức khoẻ và nâng cao mức sống cho người dân , đặc biệt ở khu vực miền núi ,vùng sâu, vùng xa, vùng Đồng bằng sông Cửu long.
1.3. Nguồn vốn đầu tư từ DNNN:
Nguồn vốn này cũng đóng vai trò rất quan trọng đối với tăng trưởng kinh tế. Các DNNN hiện được xác định đóng vai trò chủ đạo trong việc phát triển kinh tế , trong quá trình CNH - HĐH ở nước ta.
Trong tổng giá trị vốn đầu của cả nước thì vốn đầu tư của DNNN vẫn chiếm một tỷ trọng khá lớn năm 2006 chiếm khoảng 18.6% và đang có xu hướng ngày càng tăng lên trong những năm trở lại đây. Mặc dù có tốc độ tăng trưởng, hiệu quả kinh doanh kém hơn khối doanh nghiệp tư nhân hay khu vực có vốn đầu tư nước ngoài nhưng rõ ràng các DNNN vẫn giữ vai trò quan trọng trong nhiều lĩnh vực kinh tế.
Bên cạnh doanh thu trực tiếp do bán điện mang lại , hoạt động của ngành điện cũng có vai trò rất quan trọng đối với mọi hoạt động phát triển kinh tế xã hội. Những ảnh hưởng này là khó có thể tính toán. Tăng trưởng nguồn điện năng là điều thiết yếu cho tăng trưởng kinh tế bền vững và đồng đều ở nước ta.
2. Nguồn vốn đầu tư của dân cư và tư nhân:
2.1. Tiết kiệm tư nhân:
Nhìn tổng quan, nguồn vốn tiềm năng trong dân cư không phải là nhỏ, tồn tại dưới dạng vàng, tiền mặt, ngoại tệ… Nguồn vốn này xấp xỉ bằng 80% tổng nguồn vốn huy động của toàn bộ hệ thống ngân hàng. Thực tế phát hành trái phiếu chính phủ và trái phiếu của một số ngân hàng thương mại quốc doanh cho thấy, chỉ trong thời gian ngắn đã huy động được hàng ngàn tỷ đồng và hàng chục triệu USD từ khu vực dân cư. Nhiều hộ gia đình thực sự đã trở thành các đơn vị kinh tế năng động trong các lĩnh vực kinh doanh thương mại, dịch vụ, sản xuất nông nghiệp và tiểu thủ công nghiệp . ở mức độ nhất định, các hộ gia đình cũng sẽ là một số các nguồn tập trung và phân phối vốn quan trọng trong nền kinh tế.
2.2. Đầu tư của doanh nghiệp ngoài quốc doanh:
Cùng với sự xác định của Đảng và Nhà nước về vai trò cụ thể của thành phần kinh tế ngoài quốc doanh thì trong những năm đổi mới vừa qua, diễn biến cơ cấu nguồn vốn đầu tư ở nước ta đã cho thấy xu thế vận động hướng tới cơ cấu ngày càng có hiệu quả, phù hợp với chủ trương phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN. Trong đó, đặc trưng là nguồn vốn đầu tư của khu vực kinh tế ngoài quốc doanh đã gia tăng trong tổng đầu tư xã hội.
Xét về mặt hiệu quả và chất lượng, có bằng chứng cho thấy hiệu quả sử dụng vốn của khu vực kinh tế ngoài quốc doanh là tương đối cao so với các khu vực kinh tế khác. Với tính chất phong phú, đa dạng, linh hoạt, năng động và chứa đựng cả những khả năng lớn của sáng kiến cá nhân, trên phương diện lý thuyết, khu vực kinh tế ngoài quốc doanh có cơ sở và trách nhiệm phải sử dụng có hiệu quả nguồn vốn của mình.
3. Thị trường vốn
Thị trường vốn Việt Nam mà chủ yếu là TTCK đã có bước phát triển nhảy vọt trong thời gian qua. Thời điểm Thống đốc NHNN Việt Nam quyết định thành Ban Nghiên cứu xây dựng và phát triển thị trường vốn (06/11/1993), thời điểm UBCK Nhà nước được thành lập (28/11/1996), thời điểm phiên giao dịch chứng khoán đầu tiên được thực hiện (28/06/2000). Thời điểm năm 2002 mới có 21 loại cổ phiếu được niêm yết với tổng vốn lên l.086 tỷ đồng, hai loại trái phiếu Công ty (đều là của Ngân hàng Đầu tư và phát triển Việt Nam) với số vốn 157 tỷ đồng và 50 loại trái phiếu Chính phủ với 5.400 tỷ đồng, đã có tổng cộng 73 loại chứng khoán với tổng mức vốn hóa khoảng 6.600 tỷ đồng, gần l,6% GDP.
Một trong ba thị trường của thị trường vốn là thị trường bất động sản. Trong thời gian qua thị trường bất động sản đã có nhiều biến động. Luật đất đai ra đời vào cuối năm 1993, làm xuất hiện giao dịch bất động sản nhưng mới ở thị trường tự phát. Cuối thập kỷ, Nhà nước chính thức thừa nhận, tuy nhiên thị trường vẫn chưa thực sự phát triển, vẫn tồn tại những giao dịch ngầm với mục đích chính là để trốn thuế.
Cuối năm 2006 thị trường bất động sản bị đóng băng, không những khiến cho thu ngân sách nhà nước không tăng được bao nhiêu, lại còn làm cho rất nhiều doanh nghiệp kinh doanh bất động sản gặp phải nhiều khó khăn, có nhiều doanh nghiệp còn đứng trên bờ vực phá sản, thậm chí kéo theo nhiều ngân hàng cho vay bất động sản cũng gặp khó khăn. Đầu năm 2007, đã có những dấu hiệu cho thấy thị trường bất động sản đã ấm dần lên. Nguyên nhân chủ yếu là một bộ phận nhà đầu tư có khoản lợi nhuận lớn từ thị trường chứng khoán muốn chuyển lợi nhuận sang một hình thức đầu tư khác. Thêm vào đó là chính sách của Nhà nước cho Việt kiều có thể mua nhà làm hoạt động mua bán bất động sản nhộn nhịp hơn, một dấu hiệu khả quan.
II. Nguồn vốn nước ngoài
Hoạt động xuất khẩu của khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài luôn đạt tốc độ tăng trưởng cao và hiện chiếm trên 55% tổng kim ngạch xuất khẩu của cả nước.
1. Nguồn vốn hỗ trợ phát triển chính thức (ODA)
Nguồn vốn ODA được Chính Phủ Việt Nam khẳng định là “có một tầm quan trọng đặc biệt trong chương trình phát triển kinh tế của nước ta”. Vì vậy chúng ta phải củng cố lòng tin đối với các nhà tài trợ và tranh thủ sự giúp đỡ của họ nhiều hơn nữa. Với những quy mô tài trợ khác nhau, Việt Nam hiện đang nhận tài trợ từ nhiều đối tác song phương và hàng trăm tổ chức phi chính phủ (NGO).
Nhật Bản là quốc gia viện trợ ODA nhiều nhất cho Việt Nam. Kế tiếp đó là Ngân Hàng Thế Giới WB và Ngân Hàng Phát Triển Châu Á ADB.
Tình hình huy động và tiếp nhận ODA:
Từ năm 1950, Việt Nam đã thiết lập quan hệ ngoại giao với các nước XHCN, và nhận được nhiều viện trợ, trong đó có ODA. Sau năm 1975, chúng ta tiếp tục nhận viện trợ ODA, không chỉ từ các nước XHCN mà còn từ các nước TBCN. Tuy nhiên sau 1979 thì các nước TBCN cắt đứt viện trợ cho Việt Nam. Từ 1975-1990, Việt Nam nhận được 2.318 tỷ USD ODA song phương và 1.6 tỷ USD ODA đa phương (Từ Liên Hiệp Quốc và các nước XHCN).
Tình hình giải ngân ODA:
Trong thời gian đầu (1993-1999), số vốn ODA giải ngân theo văn bản thấp so với mức bình quân các nước khác trong khu vực, do chúng ta còn thiếu kinh nghiệm quản lý. Theo WB, mức giải ngân ODA của Việt Nam thực tế chỉ đạt 7% so với mức bình quân khu vực là 18-20%. Tuy mức giải ngân sau này có tiến bộ nhưng nhìn chung vẫn còn thấp và không đồng đều giữa các loại dự án và các nhà tài trợ. Các dự án kỹ thuật đều có mức giải ngân đạt yêu cầu và nhanh chóng đi vào hoạt động, đóng góp tích cực cho sự phát triển kinh tế - xã hội. ODA cũng hỗ trợ đắc lực trong tài chính –ngân hàng và cải cách hành chính công. Nhiều dự án thực hiện đấu thầu quốc tế nên chúng ta vừa chọn được các công ty vừa đáp ứng yêu cầu công nghệ, vừa tiết kiệm được vốn vay.
Tỷ lệ giải ngân ODA của nước ta hiện nay còn thấp, chỉ đạt hơn 80% kế hoạch năm. Tại Việt Nam, nhà tài trợ lớn nhát là Nhật bản, với đại diện tiêu biểu nhất là JBIC, thường yêu cầu vốn giải ngân tối thiểu là 22%, song Việt Nam chưa năm nào đạt được chỉ tiêu này.
2. Nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài ( FDI):
Trong những năm qua đầu tư trực tiếp nước ngoài FDI là một động lực quan trọng góp phần đáng kể vào tăng trưởng kinh tế của Việt Nam.
Hoạt động FDI ở VN trong thời gian qua:
* 1991-1997: FDI tăng trưởng nhanh và bắt đầu có nhiều đóng góp cho phát triển kinh tế - xã hội của VN. Tính trong hai năm 1996 và 1997, FDI đạt đỉnh cao với khoảng 15,8 tỷ USD vốn đăng ký và gần 6 tỷ USD vốn thực hiện.
* 1998-2000: FDI suy giảm mạnh do ảnh hưởng của khủng hoảng tài chính tiền tệ Châu Á, tụt xuống mức thấp nhất vào năm 1999. Vốn FDI thực hiện trong thời gian này chỉ đạt bình quân trên 2,3 tỷ USD/năm .
* 2001-2007: FDI phục hồi và bắt đầu tăng tốc. Tổng FDI (gồm cả vốn đăng ký mới và vốn tăng thêm) đạt 4,2 tỷ USD năm 2004; và 6,34 tỷ USD năm 2005, cao nhất kể từ 1998 đến nay. FDI đăng ký tăng bình quân một năm trong giai đoạn 2001-2005 gần 18,8%/năm, FDI thực hiện tăng bình quân 6,4%/năm. Có nhiều dự án đầu tư vào ngành công nghệ cao, dự án công nghiệp có trình độ công nghệ hiện đại tạo nên nét mới cho chất lượng của dòng FDI vào VN. UNCTAD (2005a, tr25) xếp VN vào nhóm nước có cả chỉ số FDI performance và chỉ số FDI potential đều cao (nhóm Front-runners), cùng nhóm với Trung Quốc, Hồng Kông, Singapore; còn Philippines, Thái Lan, Indonesia, Ấn Độ, Myanmar, Malaysia không được vào nhóm này.
Nói riêng năm 2006: Năm 2006, đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam có sự tăng trưởng vượt bậc, lượng vốn đầu tư đã vượt xa mức dự báo (6,5 tỷ USD) của cả năm và đạt mức kỷ lục 10,2 tỷ USD , tăng 52% so với năm 2005.
Đến năm 2007 thì vốn FDI vào Việt Nam vượt quá 19 tỷ USD. Đây là một thành công lớn trong việc thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam. Xuất phát từ cơ cấu đầu tư năm 2007 rất khả quan, tập trung vào các lĩnh vực kinh tế chủ chốt như công nghiệp, xây dựng, điện tử, viễn thông và xây dựng cơ sở hạ tầng phục vụ công nghệ cao. Ngoài ra, các lĩnh vực dịch vụ, hiện đại hóa đô thị, phát triển khu công nghiệp, khu chế xuất, chế biến nông lâm hải sản….cũng được các nhà đầu tư rất quan tâm.
* 2008 – nay: Năm 2008 mặc dù nền kinh tế Việt Nam gặp nhiều khó khăn và thách thức nhưng nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam vẫn có bước tăng trương rất khả quan. Hết năm 2008 ghi nhận mức vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài tăng kỉ lục với hơn 64 tỷ USD vốn đăng kí và 11 tỷ USD vốn đã giải ngân . Đây là thành tích ấn tượng của Việt Nam trong năm 2008, tuy nhiên thực trạng và triển vọng của nguồn vốn FDI vẫn là một vấn đề đáng bàn.
Nếu khảo sát kĩ hơn con số 64 tỷ USD vốn FDI đăng ký cấp mới năm 2008, số vốn điều lệ của các dự án chỉ là 15,429 tỷ USD, bằng khoảng 25,6%. Như vậy phần vốn mà các nhà đầu tư nước ngoài dự định phải đi vay để tài trợ cho các dự án của mình chắc chắn sẽ là rất lớn. Điều này nẩy sinh một mối quan ngại là sẽ có những dự án mà nhà đầu tư chỉ đăng kí và xin giấy phép cũng như cấp đất sau đó sẽ vay vốn của các tổ chức tài chính Việt Nam để thực hiện dự án. Nếu nhà đầu tư sau đó lẩn tránh hoặc không đủ “lực” thực hiện dự án, thì hậu quả để lại cho các ngân hàng là rất nặng nề.
Trong năm 2008 chúng ta thấy nguồn vốn này tập trung rất lớn vào lĩnh vực bất động sản và đi vào những dự án lớn. Tuy nhiên thị trường bất động sản là một thị trường nhậy cảm và hay biến động theo chu kỳ, cho nên bất động sản hay đi vào các chu kì tăng nóng rồi giảm mạnh (cuối năm 2007 và năm 2008 điều này đã xảy ra). Cùng với sự đóng băng trên thị trường bất động sản trong năm 2009 nguồn vốn FDI đổ vào lĩnh vực này giảm ảnh hưởng đến tổng nguồn vốn FDI vào Việt Nam năm 2009
Thực tế rằng làn song nguồn vốn FDI trong 2 năm gần đây chủ yếu là do việc cấp phép cho một số dự án đại quy mô. Tuy nhiên trong thời gian qua tiến trình giải ngân của các nhà đầu tư bất động sản ở Việt Nam và các nơi khác trong khu vực cho thấy việc coi toàn bộ số vốn này sẽ được triển khai là khá lạc quan. Bên cạnh đó, với thực trạng của nền kinh tế toàn cầu hiện nay thì khả năng các dự án trên bị đình hoãn hoặc giảm bớt quy mô đầu tư là hoàn toàn có thể xảy ra. Do đó Việt Nam không thể chắc chắn rằng khi các dự án có được triển khai thì có thực sự giải ngân nguồn vốn FDI ở quy mô lớn như thế hay không.
Như vậy có thể sơ bộ kết luận nguồn vốn FDI của Việt Nam hiện này đang thiếu một sự định hướng và điều tiết mạnh mẽ từ chính phủ. Việc thiếu các chính sách định hướng nguồn vốn FDI khiến cho nguồn vốn này không thể phát huy tối đa hiệu quả cho nền kinh tế Việt Nam. Có thể khẳng định nguồn vốn FDI vẫn là một động lực quan trọng của tăng trưởng kinh tế Việt Nam hiện nay và trong nhiều năm nữa. Tuy nhiên công tác quản lý và định hướng nguồn vốn này nhằm phát huy tối đa hiệu quả của nó cũng như hạn chế các mặt tiêu cực đòi hỏi một chiến lược sáng suốt của chính phủ Việt Nam.
Những tồn tại, hạn chế trong triển khai thực hiện dự án FDI tại Việt Nam
- Kết quả thu hút ĐTNN vẫn còn chưa tương xứng với nhu cầu huy động vốn đáp ứng cho tốc độ tăng trưởng đồng thời chưa tương xứng với tiềm năng đất nước. Vốn đầu tư thực hiện tăng qua các năm nhưng tỷ trọng vốn ĐTNN toàn xã hội lại có xu hướng giảm dần do mức độ tăng trưởng thấp hơn mức tăng vốn đầu tư trong nước. Vốn đăng ký tăng không ổn định qua các năm và nhìn chung theo số tương đối có xu hướng giảm.
- Vốn FDI phân bổ chưa hợp lý giữa các ngành và khu vực được đầu tư. Đối với các vùng kinh tế ĐTNN vẫn còn tập trung chủ yếu ở các vùng kinh tế trọng điểm là nơi có những lợi thế về KCHT và tiêu thụ khá hấp dẫn còn các vùng thứ yếu thì chưa được chú trọng đúng mức (tp HCM, Hà Nội chiếm 75% tổng FDI, còn các nơi khác chỉ nhận được nguồn vốn FDI nhỏ bé như: duyên hải Nam trung bộ 7,64%, Đông Bắc 4,46%, đồng bằng sông Cửu Long 2,46%...). Đối với các ngành kinh tế, tập trung chủ yếu vào công nghiệp, dịch vụ, du lịch khách sạn chiếm 72% tổng FDI trong khi đầu tư vào khu vực nông lâm ngư nghiệp có xu hướng giảm sút nên chưa tương xứng với tầm quan trọng và tiềm năng của vùng. FDI được thực hiện trong các ngành sử dụng nhiều vốn và được bảo hộ như ôtô, xe máy, xi măng…trong khi những ngành sử dụng nhiều lao động không được bảo hộ (nông lâm ngư nghiệp) lại có ít dự án nên chưa tạo được nhiều việc làm như mong đợi. Việt Nam cũng chưa thu hút được đáng kể lượng vốn FDI để nâng cấp đường xá, cầu cảng và các cơ sở hạ tầng khác.
- Đầu tư FDI Việt Nam chưa tạo ra sự chuyển biến mạnh về chuyển giao công nghệ từ các doanh nghiệp nước ngoài cho các doanh nghiệp trong nước. Công nghệ du nhập thông qua FDI chủ yếu theo hình thức chuyển giao nội bộ doanh nghiệp còn chuyển giao ngang và dọc giữa doanh nghiệp FDI và doanh nghiệp nội địa còn yếu. Theo điều tra của viện quản lý trung ương, 56% doanh nghiệp thực hiện đổi mới công nghệ qua con đường nhập khẩu công nghệ nước ngoài chỉ có 23% thông qua liên kết với các doanh nghiệp FDI. Tốc độ thu hút VĐT từ các nước có công nghệ cao còn chậm: đầu tư từ các nước Châu Mỹ và vùng Caribe chiếm 13%, Châu Âu chiêm 21%, còn lại tập trung chủ yếu ở các nước Châu Á - 64%.
- Sự liên kết giữa khu vực FDI và kinh tế trong nước còn hạn chế: công nghiệp phụ trợ cho các ngành vẫn chưa phát triển, chưa đáp ứng được nguyên phụ liệu cho đầu tư chiến lược, điều này hạn chế hiệu ứng của ĐTNN đối với nền kinh tế làm khả năng hấp dẫn của môi trường đầu tư thấp hơn, hạn chế tác động lan toả của nền kinh tế của ĐTNN đối với nền kinh tế. Sự liên kết giữa khu vực kinh tế nước ngoài với khu vực kinh tế nhà nước thiếu đồng bộ trong cơ chế hợp tác khi có nhu cầu. Ngoài khu vực kinh tế nhà nước, khả năng góp vốn của các nhà đầu tư Việt Nam còn hạn chế.
- Bên cạnh đó còn tình trạng một số dự án kém hiệu quả thua lỗ dẫn đến phá sản, trong một số liên doanh còn hiện tượng nhà ĐTNN tự ý thao túng điều hành nhập khẩu những công nghệ quá lạc hậu gây ô nhiễm môi trường và làm những việc không có lợi cho Việt Nam do trình độ quản lý của Việt Nam còn yếu kém.
B. GIẢI PHÁP
Giải pháp chung:
Tạo lập và duy trì năng lực tăng trưởng nhanh và bền vững cho nền kinh tế.
Vấn đề này liên quan đến một nguyên tắc mang tính chủ đạo trong việc thu hút vốn đầu tư: Vốn đầu tư được sử dụng càng hiệu quả thì khả năng thu hút vốn càng lớn. Với năng lực tăng trưởng được đảm bảo, năng lực tích lũy của nền kinh tế sẽ có khả năng gia tăng. Triển vọng tăng trưởng và phát triển càng cao cũng sẽ là tín hiệu tốt thu hút các nguồn vốn đầu tư nước ngoài
2. Đảm bảo ổn định môi trường kinh tế
Sự ổn định của môi trường kinh tế vĩ mô luôn được coi là điều kiện tiên quyết của mọi ý định và hành vi đầu tư. Về nguyên tắc, trước hết phải đảm bảo nền kinh tế trước sự an toàn của vốn và sau nữa là nơi có năng lực sinh lợi cao. Sự an toàn của vốn đòi hỏi môi trường kinh tế vĩ mô ổn định, không gặp rủi ro do yếu tố chính trị hay môi trường kinh doanh gây ra.
Tuy nhiên, sự ổn định kinh tế vĩ mô ở đây phải thỏa mãn yêu cầu gắn liền với năng lực tăng trưởng, tức là ổn định trong tăng trưởng. Có thể đưa ra một số điều kiện cụ thể có tính nguyên tắc liên quan đến ổn định và vẫn đảm bảo thu hút có hiệu quả vốn đầu tư cho tăng trưởng:
- Ổn định giá trị tiền tệ: Kiềm chế lạm phát và khắc phục hậu quả của tình trạng giảm phát nếu xảy ra với nền kinh tế
- Lãi suất và tỷ giá hối đoái
Xây dựng các chính sách huy động các nguồn vốn có hiệu quả.
- Các chính sách và giải pháp huy động vốn cho đầu tư phải gắn liền với chiến lược phát triển kinh tế - xã hội trong từng giai đoạn và phải thực hiện được các nhiệm vụ của chính sách tài chính quốc gia.
- Phải đảm bảo mối tương quan hợp lý giữa nguồn vốn đầu tư trong nước và nguồn vốn đầu tư nước ngoài. Cần quán triệt nguyên tắc: Vốn trong nước là quyết định và vốn nước ngoài là quan trọng.
- Cần đa dạng hóa và hiện đại hóa các hình thức và phương tiện huy động vốn.
Đối với từng nguồn vốn cụ thể
1. Các giải pháp tăng nguồn vốn NSNN:
- Chính phủ cần phải tích cực, chủ động phối hợp với các bộ, ngành, địa phương có liên quan rà soát, sửa đổi, bổ sung các cơ chế chính sách tài chính nhằm cải thiện hơn nữa môi trường đầu tư và kinh doanh; thực hiện quyết liệt cải cách hành chính, nhất là đơn giản và công khai thủ tục hành chính trong lĩnh vực thuế, hải quan, kho bạc để tạo bước đột phá trong khuyến khích hoạt động sản xuất - kinh doanh của các thành phần kinh tế ở trong nước, tập trung thu hút vốn đầu tư trong và ngoài nước.
- Từng bước điều chỉnh cơ cấu nguồn thu ngân sách nhà nước theo hướng tăng tỷ trọng các nguồn thu từ sản xuất kinh doanh trong nước, giảm tỷ trọng các nguồn thu chịu ảnh hưởng của các yếu tố thị trường ngoài nướn như thu ở khâu thuế xuất nhập khẩu.
- Về chính sách thuế: triển khai có hiệu quả luật quản lý thuế; đẩy mạnh công tác thanh tra, kiểm tra, xử lý nghiêm các hành vi vi phạm pháp luật về thuế..., phối hợp với các lực lượng chức năng tổ chức thu dứt điểm các khoản nợ đọng thuế có khả năng thu hồi của các tổ chức, cá nhân sản xuất kinh doanh.Giảm bớt các hình thức bao cấp qua thuế như thuế ưu đãi, miễn giảm thuế.Nhà nước nên ban hành luật thuế đánh vào việc mua sắm và sở hữu bất động sản, nhằm hướng dẫn người dân trong nước trong việc sử dụng các khoản tiết kiệm cho đầu tư sản xuất kinh doanh.
- Phải điều chỉnh cơ cấu chi ngân sách hợp lý theo hướng tăng cường chi cho đầu tư phát triển nhằm xây dựng cơ sở hạ tầng cho công nghiệp hoá hiện đại hoá, phát triển nguồn nhân lực, khoa học công nghệ, văn hoá xã hội, xoá đói giảm nghèo... giảm dần tiến tới loại bỏ hoàn toàn các hình thức bao cấp cho các doanh nghiệp nhà nước thông qua ngân sách nhà nước như miễn giảm thuế, xoá nợ cho vay ưu đãi.
- Đẩy mạnh cải cách hành chính nâng cao năng lực quản lý nhà nước; thực hành tiết kiệm, chống lãng phí, tiêu cực, tham nhũng; tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát của cộng đồng. Bộ Tài chính tiếp tục rà soát, sửa đổi, bổ sung hoặc ban hành mới các văn bản quy phạm pháp luật, các định mức, tiêu chuẩn, chế độ chi tiêu ngân sách Nhà nước, thực hiện Chương trình hành động của Chính phủ về thực hành tiết kiệm, chống lãng phí và phòng, chống tham nhũng; thực hiện chế độ công khai tài chính đối với các cấp ngân sách Nhà nước, các đơn vị dự toán ngân sách
- Tăng nguồn vốn ngân sách nhà nước bằng việc cho thuê đất đai – công thổ quốc gia tức là nhà nước sẽ cho các doanh nghiệp trong nước hay doanh nghiệp đầu tư nước ngoài thuê đất để xây dựng; đẩy mạnh việc bán, khoá, cho thuê và cổ phần hoá các doanh nghiệp nhà nước. Ngoài ra Nhà nước cũng có thể huy động thu ngân sách bằng việc bán các loại trái phiếu chính phủ hay từ thị trường chứng khoán....
- Cải cách phát hành TPCP theo hướng chuyên nghiệp hơn, gắn với thị trường và từng bước phù hợp với thông lệ quốc tế. Những hạn chế của các loại trái phiếu do chính phủ phát hành trong thời gian qua cho thấy rằng trong thời gian đến, giải pháp trọng tâm phát triển thị trường TPCP là việc ban hành khung pháp lý nhằm thiết lập hệ thống các nhà tạo lập thị trường với vai trò là trung gian tài chính hoạt động chuyên nghiệp nhằm duy trì sự công bằng, cạnh tranh và hiệu quả, giúp phát triển thị trường TPCP, đồng thời tăng tính thanh khoản của trái phiếu cũng như khả năng giao dịch trên thị trường thứ cấp.
2. Giải pháp thu hút nguồn tiết kiệm tư nhân vào đầu tư phát triển
- Chính sách lãi suất hợp lý, linh hoạt kích thích dân cư nâng cao tỷ lệ tiết kiệm tạo nguồn cho nền kinh tế.
- Phát triển và hoàn thiện trung gian tài chính thu hút dòng tiết kiệm dân cư vào vòng chảy vốn của nền kinh tế. Đa dạng hóa nhiều hình thức: ngân hàng thương mại, thị trường vốn, quỹ tín dụng... Hoàn thiện cơ cấu; giảm thiểu chi phí hoạt động của trung gian tài chính.
- Xã hội hóa hoạt động đầu tư; cho phép nhà đầu tư tư nhân tham gia vào những ngành, lĩnh vực trước đây là độc quyền của Nhà nước nhằm tối ưu hóa hiệu quả đồng vốn đầu tư từ đó nâng cao chỉ số ICOR toàn xã hội.
3. Giải pháp thu hút vốn FDI:
- Thực hiện cải cách hành chính theo hướng đơn giản, gọn nhẹ; tiếp tục xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật rõ ràng, ổn định và mang tính cạnh tranh cao theo thông lệ quốc tế. Thủ tục hành chính ở các khâu phải được công khai quy trình, mọi vướng mắc phải được hướng dẫn, hỗ trợ để có thể cấp giấy phép trong thời gian ngắn nhất, chi phí cho nhà đầu tư nhỏ nhất. Trong thời gian tới cần tiếp tục xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật, chính sách theo hướng ổn định, ngày càng nới lỏng các điều kiện, bảo đảm tính minh bạch và dễ tiên đoán, có sự phù hợp giữa các luật, quy định chuyên ngành, phù hợp với các cam kết quốc tế mà Việt Nam thỏa thuận.
- Nhà nước cần tăng cường đầu tư cơ sở hạ tầng hiện còn yếu kém, hỗ trợ đào tạo và nâng cao kỹ năng nghề nghiệp cho người lao động để có thể tiếp nhận công nghệ hiện đại. Cơ sở hạ tầng là một yếu tố ảnh hưởng rất lớn đến chi phí kinh doanh của nhà đầu tư. So với các nước trong khu vực đang cạnh tranh trong việc thu hút FDI thì cơ sở hạ tầng của Việt Nam chưa đáp ứng yêu cầu. Do vậy, Nhà nước sử dụng nguồn vốn của mình huy động được đầu tư ngày càng nhiều hơn cho cơ sở hạ tầng không có khả năng thu hồi vốn là một yêu cầu khách quan nhằm tăng tính cạnh tranh của môi trường đầu tư.
- Đào tạo để nâng cao tay nghề cho người lao động để có thể làm việc với năng suất cao hơn so với các nước trong khu vực. Trong điều kiện hiện nay Nhà nước cần hỗ trợ cho đào tạo nghề cho người lao động thông qua ưu đãi cho các cơ sở đào tạo: miễn tiền thuê đất trong vòng 5 -10 năm, giảm trong 5 năm tiếp theo, miễn thuế nhập khẩu máy móc, thiết bị dùng cho đào tạo.
- Cần hoàn chỉnh quy hoạch đầu tư quốc gia, trên cơ sở đó xác định danh mục dự án quốc gia cần kêu gọi ĐTNN. Để làm được điều này, các Bộ, ngành các địa phương phải kết hợp với nhau để xây dựng chiến lược phát triển và quy hoạch trong từng ngành, từng địa phương, trên cơ sở đó xây dựng chiến lược thu hút vốn ĐTNN. Cần ra soát điều chỉnh quy hoạch ngành, địa phương theo hướng xoá bỏ độc quyền và bảo hộ sản xuất trong nước, tạo điều kiện cho khu vực có vốn ĐTNN tham gia nhiều hơn vào phát triển các ngành, các lĩnh vực, đặc biệt là các ngành có công nghệ cao.
- Khuyến khích việc cổ phần hoá các doanh nghiệp FDI để huy động vốn từ các tầng lớp dân cư và trên cơ sở đó giúp cho việc thâm nhập của người Việt Nam trong việc quản lý và điều tiết đối với các doanh nghiệp có vốn ĐTNN.
- Xây dựng một chiến lược thu hút và sử dụng có hiệu quả dòng vốn FDI, lồng ghép chiến lược này vào chiến lược phát triển kinh tế - xã hội cũng như chiến lược hội nhập kinh tế quốc tế. Chiến lược này sẽ cho phép giải quyết được các vấn đề quy hoạch tổng thể các ngành và vùng thu hút FDI, đặt ra ưu tiên cho thu hút FDI, tránh những vấn đề bất cập trong phân cấp đầu tư, tránh được sự manh mún và tản mạn trong xúc tiến đầu tư.
- Đổi mới tư duy về thu hút và sử dụng vốn FDI theo hướng tự do hóa hơn nữa đối với dòng vốn này chứ không đưa ra các hạn chế, các điều kiện để dễ quản lý hơn. Bên cạnh việc thực hiện các chính sách thu hút nhiều hơn nữa dòng vốn FDI cần chú trọng đến chất lượng của dòng vốn (công nghệ, thị trường, đào tạo,,,)
- Bên cạnh việc thu hút dòng vốn FDI từ các nước truyền thống, cần định hướng vào thu hút FDI từ những nước có công nghệ nguồn như Mỹ, Châu Âu và Nhật Bản
- Phối kết hợp một cách chặt chẽ nhịp nhàng hơn giữa các cơ quan xúc tiến đầu tư, xúc tiến thương mại và xúc tiến du lịch nhằm xây dựng một hình ảnh quốc gia chung với tầm nhìn, chiến lược và chính sách phát triển quốc gia.
- Các doanh nghiệp trong nước cần tận dụng những lợi ích lan tỏa từ các TNC lớn bằng cách xây dựng chiến lược tham gia vào chuỗi giá trị của các công ty này trên thị trường thế giới với tư cách là nhà thầu phụ, cung ứng dịch vụ đầu vào, đầu ra...
4. Giải pháp thu hút vốn ODA:
- Tiếp tục thực hiện các dự án phát triển cơ sở hạ tầng kinh tế, xã hội theo quy hoạch, kế hoạch đã được phê duyệt nhằm tăng thêm năng lực các công trình giao thông vận tải (đường, cầu, cảng...) năng lượng điện, thủy lợi, thông tin liên lạc, các dự án phát triển giáo dục và đào tạo, y tế và các chương trình xã hội, bảo vệ môi trường...
- Các bộ, cơ quan, địa phương, đơn vị thực hiện các biện pháp thiết thực để đẩy nhanh tiến độ giải ngân nguồn vốn ODA. Trong đó, cần thực hiện việc hài hòa về thủ tục với các nhà tài trợ theo nhóm hoặc song phương, từng bước giải quyết những vướng mắc về thủ tục chuẩn bị thực hiện dự án, trước hết là hài hòa kết cấu nội dung và hình thức các văn kiện dự án (báo cáo nghiên cứu khả thi), các quy trình và thủ tục đấu thầu, báo cáo triển khải các dự án ODA. Ban hành và tổ chức thực hiện, chính sách giải tỏa mặt bằng gắn với tái định cư, tạo điều kiện thực hiện việc giải ngân ODA nhanh, đúng quy định của các chương trình, dự án ODA đã cam kết.
- Trong chỉ đạo thực hiện kế hoạch cần ưu tiên đảm bảo đủ vốn đối ứng cho các chương trình, dự án ODA để thực hiện nghiêm chỉnh các cam kết với các nhà tài trợ. Tiếp tục hoàn thiện, bổ sung, sửa đổi cơ chế quản lý sử dụng vốn ODA, nhất là các vấn đề liên quan đến chính sách thuế, cho vay lại, định mức chi tiêu: tăng cường công tác đánh giá, thẩm định hiệu quả của các chương trình, dự án ODA.
- Các bộ, tỉnh và thành phố cần kiện toàn tổ chức quản lý và sử dụng ODA; nghiêm chỉnh thực hiện quy chế quản lý các dự án, quy chế hoạt động của Ban quản lý dự án và nâng cao năng lực của cán bộ tham gia công tác quản lý ODA ở các cấp trong việc chuẩn bị, tổ chức thực hiện. Trong đó, thực hiện nghiêm túc chế độ báo cáo định kỳ và báo cáo kết thúc dự án, thực hiện kiểm toán các dự án ODA theo hướng tập trung vào một đầu mối để thực hiện có hiệu quả chức năng quản lý ODA được phân cấp theo các quy định hiện hành. Có biện pháp ngăn chặn những biểu hiện gây lãng phí, tham nhũng trong quá trình thực hiện dự án, tạo lòng tin cho các đối tác và cho những người được thụ hưởng lợi ích của dự án. Việc thẩm định cũng được phân cấp đến mức tối đa. Đối với các dự án quan trọng quốc gia do Hội đồng Thẩm định quốc gia thực hiện, đối với các dự án liên quan đến khung chính sách, dự án hỗ trợ kỹ thuật liên quan đến an ninh, môi trường thì do cơ quan chủ quản thẩm định và trình Thủ tướng Chính phủ phê duyệt.
- Tiếp tục nâng cao chất lượng công tác quy hoạch, thu hút và sử dụng vốn ODA; đồng thời xây dựng danh mục các chương trình, dự án quan trọng đầu tư bằng nguồn vốn ODA theo ngành và lĩnh vực (kể cả các lĩnh vực xã hội). Các chương trình, dự án ưu tiên đầu tư theo định hướng: phát triển nông nghiệp và nông thôn gắn với tiếp tục thực hiện xóa đói, giảm nghèo. ưu tiên sử dụng vốn ODA cho các chương trình, dự án hỗ trợ chuyển đổi cơ cấu sản xuất nông nghiệp, phát triển ngành nghề, xây dựng cơ sở hạ tầng nông thôn, nước sạch, công trình thủy lợi, trường học, trạm y tế...), đặc biệt chú trọng đầu tư cho các địa bàn vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc ít người...
- Ngoài những tiêu chí như trước đây, danh mục này có hai điểm mới là quy định rõ nguồn vốn và cơ chế tài chính để thực hiện dự án. Chúng ta đã xác định ODA là dự án đầu tư công, có nguồn vốn từ ngân sách nhà nước, vì vậy phải tuân theo quy trình giám sát, quản lý vốn từ ngân sách nhà nước. Thêm vào đó, trách nhiệm giữa các đơn vị thực hiện dự án cũng được quy định rõ ràng. Những quy định này nằm trong Quy chế Tổ chức và hoạt động của ban quản lý dự án ODA, mà Bộ Kế hoạch và Đầu tư sẽ ban hành trong tháng 12 này.
5. Thu hút vốn gián tiếp qua thị trường vốn:
- Tiếp tục thực hiện các chính sách kinh tế vĩ mô thúc đẩy tăng trưởng của cả nền kinh tế. Mặt khác, để thúc đẩy hoạt động của các quỹ đầu tư, chúng ta cần thực hiện một số giải pháp cụ thể như: tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp lý, khuôn khổ quản lý thị trường; phát triển quy mô thị trường; xây dựng và triển khai áp dụng các chuẩn mực quốc tế về quản trị và điều hành doanh nghiệp, quản lý Nhà nước; tăng tính minh bạch của thị trường chứng khoán, thị trường OTC và tại các doanh nghiệp cổ phần tư nhân; ban hành các chính sách khuyến khích hoạt động lâu dài của các quỹ đầu tư nước ngoài...
- Để ngày càng thu hút sự hình thành và hoạt động của các quỹ này trong thời gian đến, cần sớm nghiên xây dựng và triển khai áp dụng các chuẩn mực quốc tế về quản trị và điều hành doanh nghiệp, quản lý Nhà nước; tăng tính minh bạch của TTCK, thị trường không chính thức và tại các doanh nghiệp cổ phần, tư nhân; đẩy mạnh cổ phần hoá gắn với niêm yết trên sàn gia dịch nhằm tạo ra sự sôi động cho TTCK; khuyến khích các công ty định mức tín nhiệm có uy tín như Standard & Poor’s, Moody thành lập chi nhánh tại Việt Nam.
- Minh bạch thông tin và đồng bộ chính sách: Khuyến khích các tổ chức tài chính nước ngoài mua cổ phần ngân hàng, công ty chứng khoán trong nước. Đây chính là một trong các biện pháp giúp tăng năng lực của các công ty chứng khoán Việt Nam, tiến tới phục vụ tốt cả nhà đầu tư trong nước và nước ngoài; Cần sớm ban hành đầy đủ và đồng bộ các văn bản hướng dẫn thực hiện Luật đầu tư và Luật chứng khoán trên tinh thần tiến đến mục tiêu tự do hoá nguồn vốn đầu tư cả trực tiếp và gián tiếp, bảo vệ quyền lợi của nhà đầu tư; Tăng giới hạn tỷ lệ sở hữu của nhà đầu tư nước ngoài tại các doanh nghiệp Việt Nam, bãi bỏ giới hạn này đối với các ngành nghề không trọng yếu và nâng giới hạn nắm giữ cổ phiếu đối với cổ phiếu ngân hàng lên 49%, cho phép các quỹ đầu tư nước ngoài đặt chi nhánh tại Việt Nam.
- Thực thi chính sách mở cửa thu hút vốn: Mở rộng tỷ lệ tham gia của bên nước ngoài trong các doanh nghiệp Việt Nam trên nguyên tắc đảm bảo mặt bằng chung về tỷ lệ tham gia giữa đầu tư trực tiếp và đầu tư gián tiếp; thu hẹp đối tượng ngành nghề Nhà nước cần nắm giữ 100% vốn hoặc nắm giữ cổ phần chi phối; Thiết lập các chính sách bình đẳng về ưu đãi đầu tư, chính sách thuế, phí, lệ phí giữa các nhà đầu tư trong và ngoài nước. Chính phủ tiếp tục thực hiện bảo hộ tài sản của các nhà đầu tư nước ngoài tại Việt Nam dưới mọi hình thức; Thực hiện chính sách tự do hóa tài khoản vãng lai để tạo điều kiện thu hút nguồn từ nước ngoài và tạo điều kiện thuận lợi cho việc chuyển các nguồn thu nhập hợp pháp của các nhà đầu tư nước ngoài ra nước ngoài; Tăng cường an ninh của hệ thống tài chính, thực hiện kiểm soát các dòng vốn khi cần thiết. Tăng cường phối hợp giữa chính sách tiền tệ, chính sách tài khoá và chính sách thu hút vốn đầu tư gián tiếp nước ngoài; đảm bảo sự phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan ngân hàng - tài chính - chứng khoán trong việc quản lý các dòng vốn nhằm đảm bảo sự an toàn, vững chắc và lành mạnh của hệ thống tài chính.
- Xếp hạng tín nhiệm để thu hút đầu tư: Tập trung vào 4 đối tượng: Xếp hạng các công cụ nợ dài hạn, bao gồm việc xếp hạng tổ chức phát hành nợ dài hạn và xếp hạng đợt phát hành nợ dài hạn; xếp hạng tiền gửi và khả năng tài chính của các ngân hàng thương mại quốc doanh và thương mại cổ phần Việt Nam; xếp hạng các doanh nghiệp Nhà nước có quy mô lớn đã và đang tiến hành cổ phần hóa, các doanh nghiệp đang niêm yết trên thị trường chứng khoán Việt Nam và xếp hạng các doanh nghiệp vừa và nhỏ (SMEs) của Việt Nam.
KẾT LUẬN
Quá trình công nghiệp hóa - hiện đại hóa của nước ta luôn đòi hỏi một nguồn vốn đầu tư rất lớn. Trong tổng nguồn vốn đầu tư toàn xã hội, vai trò của từng nguồn vốn trong nước và ngoài nước đã được xác định một cách rõ ràng và cụ thể.Nguồn vốn trong nước là quyết định và nguồn vốn nước ngoài là quan trọng không thể thiếu. Điều đặc biệt là giữa hai nguồn vốn này tồn tại một mối quan hệ hữu dụng, nó là sự bổ trợ , thay thế và thúc đẩy những mặt mạnh và yếu của từng nguồn vốn cụ thể và có những cống hiến tích cực cho nền kinh tế .
Nguồn vốn trong nước tập trung vào nhiệm vụ tạo dựng những cơ sơ kiến trúc hạ tầng kỹ thuật ,phát triển các ngành, các lĩnh vực then chốt để có thế tạo dựng một khung sườn vững chắc cho nền kinh tế trước những cơn sóng của quá trình hội nhập kinh tế toàn cầu.
Nguồn vốn ngoài nước là phép cộng quan trọng cho nhu cầu vốn phát triển của cả nền kinh tế. Các nguồn vốn này hướng tới sự phát triển trong những lĩnh vực cụ thể để tìm kiếm nguồn lợi kinh tế dồi dào ở một đất nước còn nhiều tiềm năng phát triển nhu VIệt Nam. Chúng cũng đồng thời là ưu thế mà một quốc gia đang phát triển như chúng ta có thể tận dụng cùng với các nguồn lực trong nước để rút ngắn thời gian CNH – HDH nền kinh tế.
Nhận thức được vai trò của từng nguồn vốn cụ thể và mối quan hệ bổ trợ giữa hai nguồn vốn này sẽ giúp chúng ta có được những định hướng chính xác, xây dựng chiến lược hợp lý để có thể phát huy hơn nữa những đóng góp của các nguồn vốn này vào mục tiêu phát triển .
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Moi-quan-he-giua-von-trong-nuoc-va-von-nuoc-ngoaidoc.doc