Giải quyết quan hệ giới, thực hiện bình đẳng
giới trong gia đình người Sán Chỉ góp phần
quan trọng thúc đẩy sự tiến bộ của phụ nữ
DTTS và phát triển bền vững các lĩnh vực của
đời sống xã hội. Trong những năm qua thực
hiện đường lối, chính sách của Đảng và pháp
luật của Nhà nước, mối quan hệ giới trong gia
đình người Sán Chỉ nói riêng đã có những
chiều hướng tiến bộ, song vẫn tồn tại sự
không bình đẳng, phụ nữ vẫn thiệt thòi hơn so
với nam giới, nguyên nhân chính là do đói
nghèo, định kiến giới, gánh nặng công việc
gia đình, một bộ phận phụ nữ an phận, mù
chữ đã tác động tiêu cực đến phụ nữ. Do vậy,
các khuyến nghị đặt ra cần được xem xét cẩn
trọng và thực hiện từng bước đồng bộ mang
lại hiệu quả thiết thực.
5 trang |
Chia sẻ: linhmy2pp | Ngày: 11/03/2022 | Lượt xem: 274 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Mối quan hệ giới trong gia đình người Sán Chỉ (Khảo sát tại xã Bộc Bố, huyện Pắc Nặm, tỉnh Bắc Kạn), để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tạ Thị Thảo Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 133(03)/1: 127 - 131
127
MỐI QUAN HỆ GIỚI TRONG GIA ĐÌNH NGƯỜI SÁN CHỈ
(Khảo sát tại xã Bộc Bố, huyện Pắc Nặm, tỉnh Bắc Kạn)
Tạ Thị Thảo*
Trường Đại học Khoa học – ĐH Thái Nguyên
TÓM TẮT
Để hướng tới những chính sách đặc thù về giới cho vùng sâu vùng xa và vùng dân tộc thiểu số
(DTTS), việc nghiên cứu về thực trạng mối quan hệ giới trong gia đình DTTS được xem là cấp
thiết. Ở cả xã hội mẫu hệ và phụ hệ, trong mối quan hệ giới, người phụ nữ DTTS là người thiệt
thòi hơn nam giới trên hầu hết mọi phương diện. Bài viết xem xét về mối quan hệ giới trong gia
đình người Sán Chỉ, qua đó đề xuất một số khuyến nghị nhằm giải quyết mối quan hệ giới trong
gia đình và nâng cao vị thế của người phụ nữ Sán Chỉ. Số liệu trong bài viết được xử lý bằng phần
mềm thống kê SPSS version 11.5, dựa trên nghiên cứu thực địa với người Sán Chỉ ở thôn Khuổi
Bẻ và thôn Nà Lẩy, xã Bộc Bố, huyện Pắc Nặm, tỉnh Bắc Kạn.
Từ khoá: mối quan hệ giới, phụ nữ Sán Chỉ, bình đẳng giới, phân công lao động, tiếp cận và kiểm
soát nguồn lực
ĐẶT VẤN ĐỀ*
Quan hệ giới được hiểu là những tương tác xã
hội ổn định giữa nam giới và phụ nữ trong gia
đình và ngoài xã hội, do con người, xã hội
thiết lập nhằm quy định về quyền lợi, trách
nhiệm, vị trí, vai trò, hành vi, thái độ của
nam giới và phụ nữ.
Theo đó, quan hệ giới trong gia đình DTTS
được hiểu là mối tương quan giữa thành niên
nam và thành viên nữ của gia đình về thực
hiện các chức năng của gia đình thông qua
hoạt động phân công lao động theo giới, sự
kiểm soát các nguồn lực và vai trò quyết định
của phụ nữ và nam giới trong gia đình DTTS.
Sán Chỉ là nhóm dân tộc ít người sinh tụ chủ
yếu ở Bắc Kạn, Tuyên Quang, Thái Nguyên,
Cao Bằng, Quảng Ninh, Nghiên cứu này
được khảo sát trong cộng đồng người Sán Chỉ
khu trú chủ yếu tại thôn Khuổi Bẻ và thôn Nà
Lẩy (Xã Bộc Bố, huyện Pắc Nặm, tỉnh Bắc
Kạn). Trong giới hạn bài viết này, chúng tôi
xem xét tới: 1. Quan hệ giới trong việc thực
hiện chức năng kinh tế gia đình; 2. Quan hệ
giới trong kiểm soát và ra quyết định đối với
các nguồn lực của gia đình; 3. Một số khuyến
nghị hướng tới giải quyết mối quan hệ giới
trong gia đình.
*
Tel: 0988 820020, Email: thaotathi@gmail.com
Quan hệ giới trong thực hiện chức năng
kinh tế gia đình
Xét về phương diện kinh tế, gia đình được
xem là đơn vị sản xuất và đơn vị tiêu dùng
sản phẩm xã hội. Gia đình tạo ra lao động và
có tính chất kép, bên trong và bên ngoài, tại
gia và được trả lương. Từ thực tế phong trào
giải phóng phụ nữ diễn ra nửa cuối thế kỷ XX
đã tạo ra hiện tượng phụ nữ tham gia vào các
quá trình sản xuất, và kể từ sau chiến tranh
thế giới thứ hai, ngoài chức năng làm mẹ, phụ
nữ có thêm chức năng sản xuất bên cạnh nam
giới. Và phương thức sản xuất tư bản chủ
nghĩa có thể được xem là nguyên nhân làm
nảy sinh sự phân công lao động theo giới tính,
phụ nữ là nạn nhân trong khuôn khổ của sự
bóc lột mang tính gia trưởng.
Hôn nhân trong cộng đồng người DTTS làm
thay đổi không những thân phận của người phụ
và nam giới về mặt xã hội, mà nó còn tạo cơ
hội cho họ thực hiện các chức năng, vai trò của
mỗi giới: người vợ, người chồng, người cha,
người mẹ trong gia đình. Sự phân công lao
động theo giới tính và tuổi tác là yếu tố quan
trọng chi phối đời sống xã hội của họ. Sự phân
công này diễn ra một cách tự nhiên, gắn liền
với cấu tạo cơ thể và chức năng sinh học của
phụ nữ và nam giới. Theo đó, phụ nữ do có
chức năng sinh con, nuôi con, sức khoẻ yếu
Tạ Thị Thảo Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 133(03)/1: 127 - 131
128
nên nên phụ trách những “việc nhẹ”, còn nam
giới do có thể chất khoẻ hơn nên đảm nhận
những “việc nặng”, vai trò là người chồng,
người cha trong gia đình, họ trở thành lao động
chính và có trách nhiệm với vợ con. Mặc dù cả
phụ nữ và nam giới người Sán Chỉ đều tham
gia vào tất cả các khâu của hoạt động sản xuất,
nhưng những việc được cho là “việc đàn ông”
gồm: phát nương, cày bừa, bón phân, thu
hoạch; “việc đàn bà” gồm có: tỉa trồng, chăm
sóc mùa vụ, phụ việc, cắt cỏ, chăn nuôi lợn,
gia cầm. Việc chăn nuôi chủ yếu do phụ nữ
đảm nhiệm vì chăn nuôi không được xem là
công việc sản xuất hàng hoá, mà chỉ được coi
là “việc nhà”. Họ cho rằng sự phân công trách
nhiệm kinh tế này là hoàn toàn hợp lý bởi
trong gia đình người đàn ông nắm vai trò chủ
đạo. Một quy tắc được đặt ra dù là trong xã
hội mẫu hệ hay phụ hệ thì nam giới vẫn giữ vai
trò chính trong sản xuất, và quan niệm này cho
đến nay vẫn chưa hề thay đổi.
Trong gia đình người Sán Chỉ, mối quan hệ
giới trong lao động sản xuất ngoài việc được
quy định bởi tính chất “nặng – nhẹ”, còn
được phân biệt về không gian. “Việc đàn
ông” không chỉ đòi hỏi nhiều sức lao động
mà còn bao gồm trách nhiệm liên quan tới
giao tiếp xã hội. Số liệu khảo sát cho thấy
82.6% nam giới đảm nhiệm công việc buôn
bán, trao đổi sản phẩm kinh tế, chỉ có dưới
20% phụ nữ cho biết họ đảm nhận công việc
này (chủ yếu rơi vào nhóm gia đình thiếu
vắng đàn ông trong nhà với lý do đã mất hoặc
đi làm ăn xa).
Khi được hỏi về cơ sở của sự phân công các
công việc trong sản xuất kinh tế, người dân
cho biết:
“Các công việc cứ phân tự nhiên thôi, đàn
ông khỏe hơn thì làm việc nặng hơn, cày bừa
xong thì về, còn đàn bà yếu hơn thì làm việc
nhẹ hơn, ở lại tỉa cây, nhặt cỏ, lấy củi, rồi về
cơm nước, chăn lợn. Với lại nhà nào cũng
phải có đàn ông thì mới giàu được, đàn ông
mới làm ra tiền” (Phỏng vấn sâu, nam giới
Sán Chỉ, 45 tuổi, nông dân)
Lao động phụ nữ gắn liền với khuôn viên gia
đình, nên sự hạn chế về không gian dẫn tới
việc họ bị hạn chế cả về năng lực nhận thức
cũng như cơ hội tiếp cận các cơ hội phát triển
cũng như các nguồn thông tin xã hội.
Quan hệ giới trong kiểm soát nguồn lực và
lợi ích
Đất đai là một vấn đề xã hội nhạy cảm, liên
quan sâu sắc đến những vấn đề đáng quan
ngại như sự an toàn, vị thế và cả đặc tính của
từng cá nhân. Nó cũng là tài sản kinh tế chủ
yếu quyết định vị thế của cả nam giới và phụ
nữ. Ở khu vực Đông Á Thái Bình Dương, đất
đai hoàn toàn do nam giới sở hữu và việc
đứng tên được truyền từ đời này sang đời
khác thông qua khung pháp lý mà từ xưa đến
nay vốn không có lợi cho phụ nữ. Ở nhiều
nhóm DTTS, theo phong tục chỉ có nam giới
được thừa kế đất đai và việc phụ nữ thiếu hiểu
biết về quyền hợp pháp của mình càng làm
trầm trọng vấn đề. Hiến pháp, Luật dân sự,
Luật Hôn nhân và gia đình, Luật Đất đai
(2003) đã quy định phụ nữ có các quyền bình
đẳng với nam giới về sử dụng đất đai và sở
hữu tài sản. Tuy vậy, theo phong tục truyền
thống người phụ nữ còn gặp nhiều khó khăn
trong việc đứng tên sở hữu loại tài sản này. Họ
vẫn bị coi là phụ thuộc vào gia đình hoặc gia
đình chồng, khi tiếp cận với đất đai, họ phải
thông qua người cha, chồng hoặc anh/em trai.
Bảng 1. Phân công lao động trong gia đình người Sán Chỉ phân theo giới tính (%)
Hoạt động lao động Nam giới Phụ nữ
Chăn nuôi gia súc nhỏ, gia cầm 36.4 63.6
Chăm sóc cây trồng, mùa vụ 22.2 77.8
Cày bừa, trồng rừng 52.5 47.5
Buôn bán, trao đổi sản phẩm kinh tế 82.6 17.4
Tạ Thị Thảo Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 133(03)/1: 127 - 131
129
“Từ trước tới nay con gái đi lấy chồng chưa bao giờ được chia đất, chỉ con trai được chia khi
lập gia đình riêng, hoặc con trai được bố mẹ để lại đất đai cho, vì con trai phải ở lại để trông
nom bố mẹ nên được có đất, còn con gái đã có nhà chồng lo, điều này không có gì sai cả”
(Phỏng vấn sâu, nam giới Sán Chỉ, 54 tuổi, thầy mo).
Khác với người Sán Chỉ, Điều 229 Luật tục Ê Đê (dân tộc Ê Đê đại diện cho chế độ mẫu hệ)
khẳng định rất rõ: “con gái như hạt giống cây lúa, chính con gái là người khoác áo choàng khăn,
là người giữ gìn cái nong, cái nia, cái lưng của tổ tiên, ông bà” [6; 229].
Bảng 2. Hiện trạng kiểm soát các nguồn lực trong gia đình người Sán Chỉ phân theo giới tính (%)
Nguồn lực Nam giới Phụ nữ
Đất đai sản xuất 67.9 32.1
Vốn/tín dụng 74.1 25.9
Thu nhập/sổ tiết kiệm 62.5 37.5
Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất (Sổ đỏ đất ở) 91.3 8.7
Giấy tờ xe máy 100.0 0
Không đứng tên bất kỳ tài sản nào 15.0 85.0
Khi được hỏi về sự quyết định các công việc trong gia đình, người dân cho biết:
“Đàn ông họ biết nhiều hơn mình, họ định làm gì cũng cân nhắc rồi mới hỏi mình. Mình là vợ nó,
phải tin nó, nên khi nó hỏi thì cũng phải gật đầu thôi” (Phỏng vấn sâu, phụ nữ Sán Chỉ, 28 tuổi,
nông dân)
Bảng 3. Quyết định các công việc liên quan đến lao động sản xuất (%)
Hoạt động lao động sản xuất Nam giới Phụ nữ Cả 2
Cơ cấu vật nuôi, cây trồng 75.04 21.7 3.26
Kỹ thuật canh tác 51.85 37.04 9.26
Định hướng sản xuất, kinh doanh 91.3 6.7 2.0
Mua vật tư nông nghiệp (phân bón, thuốc trừ sâu ...) 59.26 29.63 9.26
Buôn bán sản phẩm 82.6 15.4 2.0
Mặc dù cả phụ nữ và nam giới đều tham gia
vào quá trình sản xuất nhưng phần lớn các
quyết định lại do nam giới đưa ra, điều này
cho thấy hiện tượng coi trọng kiến thức người
đàn ông và coi thường kiến thức phụ nữ khá
phổ biến, đây được xem là nguyên nhân ảnh
hưởng tới tiếng nói trong gia đình của phụ nữ
Sán Chỉ.
Tiếng Việt – Vị thế của phụ nữ Sán Chỉ
Trong cộng đồng người Sán Chỉ, khi nam giới
đến tuổi trưởng thành sẽ được tiến hành lễ
Cấp sắc (phụ nữ không được tiến hành nghi lễ
này); các vị trí quan trọng trong cộng đồng
chủ yếu do nam giới nắm giữ: thầy mo, thầy
cúng, trưởng thôn. Có nhiều lý do để kết luận
rằng tiếng nói và vị thế của người phụ nữ
DTTS nói chung và phụ nữ Sán Chỉ nói riêng
phụ thuộc vào khả năng biết tiếng Việt của
họ. Mù chữ hay khả năng giao tiếp bằng tiếng
Việt hạn chế là khó khăn được nhắc đến nhiều
nhất của nhóm này. Thực tế cho thấy xuất
phát từ khó khăn về kinh tế trong gia đình dẫn
tới việc các bậc cha mẹ phải cân nhắc giữa
việc cho con trai hay con gái đi học.
“Con gái học nhiều làm gì, mà có khi chả cần
đi học, nhà khó khăn quá thì phải ở nhà giúp
bố giúp mẹ, rồi lấy chồng, rồi đẻ con, thế
thôi. Ở đây nhà nào chả thế” (Phỏng vấn sâu,
nam giới Sán Chỉ, 40 tuổi, nông dân).
Hạn chế về khả năng nói tiếng Việt đã ảnh
hưởng tới sự tự tin và khả năng tham gia của
phụ nữ Sán Chỉ vào các hoạt động cộng đồng,
các buổi họp thôn cũng như các lớp tập huấn.
Tỷ lệ mù chữ rơi nhiều nhất vào nhóm phụ nữ
đã có gia đình, trong độ tuổi từ trên 30. Việc
giao tiếp thường xuyên trong xã hội tạo cho
đàn ông những lợi thế mà phụ nữ không có
được, giúp họ củng cố quyền lực đối với các
nguồn lực trong gia đình cũng như vị thế của
họ trước phụ nữ. Không có điều kiện tham gia
Tạ Thị Thảo Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 133(03)/1: 127 - 131
130
vào các hoạt động xã hội (do bận, ngại, không
được phép), người phụ nữ thường chỉ dựa vào
ý kiến của người chồng để lựa chọn và tuân
thủ theo các quyết định của họ.
Khuyến nghị
- Trước hiện trạng được phân tích ở trên, để
thực hiện bình đẳng hoá mối quan hệ giới
trong gia đình người Sán Chỉ cần nâng cao
nhận thức của cộng đồng và các thành viên
trong gia đình về quyền và trách nhiệm của cả
hai giới thông qua các buổi sinh hoạt cộng
đồng như họp thôn, xóm, nội dung liên quan
đến quyền con người, quyền của phụ nữ. Tuy
nhiên do địa bàn khảo sát là vùng sâu vùng
xa, vùng đặc biệt khó khăn, trình độ dân trí
hạn chế, công tác thông tin, truyền thông yếu
kém. Do vậy việc phát huy vai trò của Chi hội
phụ nữ thôn, Hội phụ nữ xã và các tổ chức
đoàn thể cấp cơ sở là việc làm mang lại hiệu
quả thiết thực.
- Qua khảo sát, sự hạn chế về ngôn ngữ đã
ảnh hưởng trực tiếp đến nhu cầu thực tế và
nhu cầu chiến lược của người phụ nữ Sán
Chỉ, đến chất lượng cuộc sống gia đình, sức
khỏe của con cái và thế hệ tương lai. Phụ nữ
Sán Chỉ gặp không ít những trở ngại để bày tỏ
nhu cầu của mình với người khác, để được
học tập, nâng cao năng lực của bản thân,
khiến họ tự ti, mặc cảm và ngại giao tiếp với
mọi người, mất cơ hội được tiếp cận với các
dịch vụ và nguồn lực xã hội. Do đó chính
quyền địa phương cần phối hợp cùng trường
tiểu học trên địa bàn tổ chức các lớp bổ túc
văn hoá để dạy chữ cho phụ nữ. Các lớp học
nên được tổ chức vào buổi tối, chia thành
nhiều nhóm nhỏ, mỗi nhóm không quá 10 phụ
nữ tham gia học tập. Trong các buổi học có
thể lồng ghép vừa dạy chữ, vừa nói chuyện,
thảo luận về các quyền của phụ nữ để buổi
học thêm sinh động, hiệu quả.
- Tổ chức các lớp tập huấn phổ biến kiến thức
chăn nuôi, trồng trọt để phát triển kinh tế hộ
gia đình, giúp phụ nữ làm chủ kinh tế bởi phát
triển kinh tế là điều kiện quan trọng để xây
dựng mối quan hệ giới bình đẳng trong gia
đình người Sán Chỉ.
- Thực hiện kế hoạch hoá gia đình có hiệu
quả, xây dựng quan hệ giới bình đẳng trong
gia đình gắn liền với chiến lược xây dựng gia
đình văn hoá, phát triển văn hoá – xã hội là
điều kiện đủ để xây dựng quan hệ giới bình
đẳng trong gia đình người Sán Chỉ nói riêng
và gia đình DTTS nói chung.
KẾT LUẬN
Giải quyết quan hệ giới, thực hiện bình đẳng
giới trong gia đình người Sán Chỉ góp phần
quan trọng thúc đẩy sự tiến bộ của phụ nữ
DTTS và phát triển bền vững các lĩnh vực của
đời sống xã hội. Trong những năm qua thực
hiện đường lối, chính sách của Đảng và pháp
luật của Nhà nước, mối quan hệ giới trong gia
đình người Sán Chỉ nói riêng đã có những
chiều hướng tiến bộ, song vẫn tồn tại sự
không bình đẳng, phụ nữ vẫn thiệt thòi hơn so
với nam giới, nguyên nhân chính là do đói
nghèo, định kiến giới, gánh nặng công việc
gia đình, một bộ phận phụ nữ an phận, mù
chữ đã tác động tiêu cực đến phụ nữ. Do vậy,
các khuyến nghị đặt ra cần được xem xét cẩn
trọng và thực hiện từng bước đồng bộ mang
lại hiệu quả thiết thực.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Trần Thị Vân Anh, Đỗ Thị Bình (2001), Giới và
công tác giảm nghèo, Nxb Khoa học xã hội, H.
2. Quyền Đình Hà và cộng sự (2006), Khảo sát vai
trò của phụ nữ trong nông nghiệp và nông thôn xã
Nghĩa Hiệp, Yên Mỹ, Hưng Yên, 2005
3. Hoàng Xuân Thành và cộng sự (2009), Theo dõi
nghèo - Phương pháp cùng tham gia tại một số
cộng đồng cư dân nông thôn Việt Nam. Báo cáo
tổng hợp trong vòng 2 năm 2008/2009
4. Lê Thi (2002), Gia đình Việt Nam trong bối
cảnh đất nước đổi mới, Nxb Khoa học xã hội, Hà
Nội. tr.234-243.
5. Hoàng Bá Thịnh, Lê Thái Thị Băng Tâm
(2007), Báo cáo phân tích giới: Nghiên cứu định
tính tại hai xã Xuân Lạc và Bản Thi, huyện Chợ
Đồn, tỉnh Bắc Kạn, Hợp phần nâng cao năng lực
cộng đồng trong quản lý rừng. Chương trình CASI
(CEFM) (Dao)
6. Ngô Đức Thịnh, Chu Thái Sơn, Nguyễn Hữu
Thấu (2001), Luật tục Ê Đê, Nxb Văn hoá Dân tộc.
Tạ Thị Thảo Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 133(03)/1: 127 - 131
131
SUMMARY
GENDER RELATIONSHIIP IN FAMILY OF SAN CHI PEOPLE
(Survey at Boc Bo commune, Pac Nam district, Bac Kan province)
Ta Thi Thao
*
College of Science - TNU
To towards the gender specific policies for remote areas and ethnic minorities, the study on the
status of gender relations in ethnic minority families are considered urgent. In the matriarchal
society and patriarchy, in gender relations, women of ethnic minorities are disadvantaged than men
in almost all respects. This article reviewed the gender relations in families San Chi, which
proposed a number of recommendations to resolve gender relations in the San Chi family and
empowerment of women San Chi. The data in this article are processed by SPSS statistical
software version 11.5, based on fieldwork with the San Chi in Khuoi Be and Na Lay commune,
Pac Nam district, Bac Kan province.
Key words: gender relations, San Chi women, gender equality, the division of labor, access and
control resources.
Ngày nhận bài:31/01/2015; Ngày phản biện: 25/02/2015; Ngày duyệt đăng: 03/4/2015
Phản biện khoa học: TS. Phạm Thị Phương Thái – Trường Đại học Khoa học - ĐHTN
*
Tel: 0988 820020, Email: thaotathi@gmail.com
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- moi_quan_he_gioi_trong_gia_dinh_nguoi_san_chi_khao_sat_tai_x.pdf