Hội chợ thương mại rất phổ biến và cách hiệu quả nhất để giới thiệu và bán
sản phẩm ở nước ngoài. Hội chợ thương mại là triển lãm tập trung những sản
phẩm của hàng trăm nhà cung cấp
113 trang |
Chia sẻ: hao_hao | Lượt xem: 1841 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Marketing và marketing quốc tế, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ạm phát đối với lao động, nguyên vật liệu, đóng gói, vận tải sẽ
khác nhau, vì vậy sẽ không hợp lý nếu áp dụng tỷ lệ lạm phát chung trong tính
toán chi phí và định giá của công ty.
Vấn đề nguy hiểm nhất của định giá trong một nền kinh tế lạm phát cao là
khi lạm phát lại đi kèm với việc kiểm soát giá của chính phủ, điều này là thường
xảy ra. Công ty không thể tăng giá khi không được sự cho phép. Việc tính toán
chi phí tốt là quan trọng hơn cả trong khả năng của công ty chống lại yêu cầu về
việc tăng giá. Những công ty đa quốc gia cũng có thể hy vọng hướng giá độc
quyền của hiệp hội thương mại quốc gia và những nhà cạnh tranh. Những công ty
đa quốc gia có thể có hệ thống tính toán giả tạo hơn những công ty quốc gia và
có khả năng chống lại yêu cầu tăng giá. Tuy nhiên, công ty đa quốc gia có thể
được cho phép tăng giá nhanh hơn hoặc nhiều hơn công ty quốc gia. Vì lý do
này, công ty đa quốc gia có thể hợp tác với công ty quốc gia trong yêu cầu tăng
giá.
Một lựa chọn khác để giải quyết vấn đề kết hợp lạm phát và kiểm soát giá là
thay đổi hỗn hợp đầu vào mà công ty đã sử dụng. Nếu tỷ lệ lương có tỷ lệ tăng
nhanh hơn các chi phí khác, công ty có thể quan tâm đến việc tập trung vốn nhiều
hơn cho loại dây chuyền sản xuất ra. Sẽ có 2 lý do cho việc này. Một là không
phải là tất cả các loại sản phẩm đều chịu mức độ kiểm soát giống nhau. Tại nơi
BÀI DỊCH MARKETING QUỐC TẾ
LƯU HÀNH NỘI BỘ Trang 99
công ty đã lựa chọn, nó phải cố gắng chuyển dịch từ loại sản phẩm bị điều chỉnh
giá sang loại không bị kiểm soát giá. Lý do thứ 2 là không phải các loại sản phẩm
đều có cùng mức độ lạm phát. Một số sản phẩm sử dụng đầu vào có chi phí ổn
định và công ty nên quan tâm đến những sản phẩm như vậy. Sự lựa chọn cuối
cùng là rút lui khỏi thị trường. Đây là điều không bao giờ mong muốn nhưng cần
thiết trong những trường hộp bất khả kháng.
Những yếu tố khác
Có vài yếu tố khác không thể kiểm soát được, những yếu tố này khác nhau ở
mỗi thị trường. Nhu cầu và cạnh tranh đã được đề cập ở phần định giá xuất khẩu,
nhưng những nhà quản trị Marketing ở những công ty con sẽ quan tâm nhiều hơn
đến yếu tố này. Những người làm Marketing ở những công ty con liên quan
thường xuyên đến nhu cầu và cạnh tranh địa phương ngược lại với những nhà
làm Marketing xuất khậu những người chuyển động 1-2 bước từ thị trường nước
ngoài. Sản phẩm thuế doanh thu khác nhau ở mỗi quốc gia và tác động đến giá
của công ty.
Tất cả các quốc gia đều bảo vệ thị trường nội địa của họ, thường là bằng thuế
đánh vào hàng nhập khẩu. Điều này có 2 tác động khác nhau vào sự định giá của
công ty. Ảnh hưởng nhiều nhất là khi công ty con đang nhập khẩu sản phẩm cho
thị trường địa phương và trả thuế cao so với giá chuyển nhượng. Ngay cả những
nơi công ty con đang bán hàng hoá sản xuất tại địa phương, thuế nhập khẩu có
thể vẫn là yếu tố giúp cạnh tranh với những sản phẩm giá thấp của đối thủ cạnh
tranh ở quốc gia khác, tạo ra sự định gái thoải mái hơn cho công ty con. Cuối
cùng, chi phí phân phối sẽ có tác động khác nhau ở những quốc gia khác nhau.
Một lý do thứ 2 là vì cơ sở hạ tầng phân phối của quốc gia hoặc loại sản phẩm
của hãng khác nhau, công ty có thể sử dụng kênh phân phối khác nhau ở thị
trường khác nhau.
BÀI DỊCH MARKETING QUỐC TẾ
LƯU HÀNH NỘI BỘ Trang 100
CHƯƠNG 8
CHÍNH SÁCH XÚC TIẾN QUỐC TẾ
Xúc tiến là một phần của Marketing - Mix, nó là công cụ mà hầu hết các
công ty dùng để truyền đạt hết thông tin đến khách hàng. Tuy nhiên, có một vài
cách truyền đạt khác là qua sản phẩm, giá và hoạt động phân phối của công ty.
Nhưng cơ bản là qua hoạt động xúc tiến của công ty, có nhiều hình thức truyền
đạt thông tin khác nhau từ việc rao hàng đến tờ bướm bán hàng và các hình thức
kỹ thuật cao. Nhưng tất cả chúng đều có mục đích chung là khuyến khích khách
hàng mua sản phẩm hoặc dịch vụ của công ty. Vì thế cho nên nếu các thông điệp
xúc tiến mang đến những thông tin có lợi cho khách hàng, thì vai trò của nó làm
cho nhà Marketer có được sự yên tâm. Các công ty sẽ phối hợp các hoạt động
xúc tiến khác nhau để khuyến khích khách hàng mua sản phẩm của họ. Những
phương tiện xúc tiến được sử dụng rộng rãi nhất là quảng cáo và bán hàng cá
nhân. Sau đây, chúng ta sẽ nghiên cứu các hình thức xúc tiến quốc tế này.
QUẢNG CÁO TRONG THỊ TRƯỜNG NƯỚC NGOÀI
Chú ý là “Quảng cáo trong thị trường nước ngoài” chứ không phải là
“quảng cáo quốc tế”. Bởi vì, phần lớn các mẫu quảng cáo mà không phải là
những mẫu quảng cáo quốc tế thực sự mà nó vốn nằm trong biên giới một quốc
gia. Phần lớn các mẫu quảng cáo được sản xuất và sử dụng ở thị trường nội địa.
Mcdonald’s ở Phần Lan
Không có quốc gia nào bảo vệ trẻ em tốt hơn ở Phần Lan. Một tòa án bảo vệ
người tiêu dùng ở Helsinki cấm các hoạt động thương mại trên truyền hình được
bảo trợ bởi Mc Donald’s. Tòa án buộc tội công ty sử dụng một mẫu quảng cáo lợi
dụng sự cô độc của một đứa trẻ.
Mẫu quảng cáo trên truyền hình chỉ ra một cậu bé, trong sự chán nản, cậu bé
đi dạo trong một căn hộ vắng người. Cậu bé nhìn ra cửa sổ và quan sát thấy một
quầy hàng của Mc Donald’s ở góc đối diện. Ngay lập tức, sự chán nản của cậu bé
biến mất. Quảng cáo kết thúc bằng việc cậu bé rất hạnh phúc khi ăn một vài sản
phẩm của Mc Donald’s của nhà hàng này.
Tòa án Phần Lan quyết định rằng, mẫu quảng cáo này không được truyền đi,
bởi vì nó đã truyền đi một ấn tượng xấu, tức là ăn và mua sản phẩm của Mc
Donald’s có thể làm mất đi sự cô đơn hoặc phục vụ thay thế cho tình bạn.
Để bảo vệ mình, Mc Donald’s đã phát biểu rằng: mẫu quảng cáo chỉ có nghĩa
là ăn sản phẩm của Mc Donald’s – đặc biệt là trẻ em - tạo ra sự hạnh phúc bên
ngoài hạnh phúc gia đình. Tuy nhiên, toà án đã từ chối cuộc tranh cãi và đe dọa sẽ
phạt công ty 50.000 USD nếu tiếp tục lấy sự cô đơn của những đứa trẻ để xúc tiến
công việc kinh doanh.
BÀI DỊCH MARKETING QUỐC TẾ
LƯU HÀNH NỘI BỘ Trang 101
Điều này không có nghĩa là các nhà nghiên cứu thị trường quốc tế không phối
hợp với các mẫu quảng cáo nước ngoài của họ. Thực vậy, họ sẽ luôn bổ sung
thêm tính quốc tế cho mẫu quảng cáo và tính quốc tế này sẽ được nhận dạng qua
sự tương đồng rõ nét từ quốc gia này đến quốc gia khác. Tuy nhiên, tùy thuộc
vào đặc tính của từng thị trường nội địa, mà ta thay đổi mẫu quảng cáo của công
ty phù hợp với từng quốc gia. Vì thế, trước khi xem xét công việc quảng cáo của
các nhà Marketer quốc tế, chúng ta phải xác định những ảnh hưởng riêng biệt ở
mỗi quốc gia đến công việc quảng cáo.
Bảng 8-1 minh chứng một số vấn đề mà người quảng cáo quốc tế phải đối
mặt, một người bán hàng trong một quốc gia muốn gửi một thông điệp thuyết
phục đến khách hàng tiềm năng ở những quốc gia khác, phải chắc rằng khi
người bán và người mua ở trong cùng quốc gia thì thông tin đưa ra phải đủ gây
ấn tượng và sự thách thức mới lạ. Khi người bán và người mua thuộc những quốc
gia khác nhau và văn hóa khác nhau, thì ở đây chúng ta sẽ có nhiều rào cản cho
việc truyền đạt thông tin quảng cáo. Ở đây chúng ta thảo luận một số vấn đề khác
biệt này mà người quảng cáo quốc tế phải đối mặt.
MÔI TRƯỜNG QUỐC GIA CỦA QUẢNG CÁO
Tầm quan trọng của quảng cáo trong một quốc gia
Theo một nghĩa đặc biệt thì vai trò kinh tế và văn hóa trong quảng cáo là thay
đổi ở mỗi quốc gia. Sự thay đổi kinh tế trong quảng cáo có thể thấy ở bảng 8 -1.
Qua tỷ lệ % của tổng thu nhập quốc nội ở mỗi quốc gia. Những quốc gia quảng
cáo mạnh ở cột 1 chủ yếu là những quốc gia công nghệ giàu có, cao nhất là Mỹ.
Sự hiện diện của Taiwan, Bolivia, Colombia và Hàn Quốc trên bảng, mà riêng
chỉ có thu nhập và công nghệ thì không đủ chỉ ra hết vai trò của quảng cáo ở mỗi
quốc gia. Những quốc gia ở cột 2, quảng cáo đóng vai trò nhỏ hơn, đó là những
quốc gia đang phát triển. Châu Á, Châu Phi và Trung Đông là những vùng quảng
cáo yếu kém.
Bảng 8 -1 đưa ra mức độ phát triển kinh tế của mỗi quốc gia là một sự chỉ
dẫn tốt của vai trò quảng cáo sẽ được thực hiện. Tuy nhiên, chỉ có thu nhập thì
không đủ làm rõ vai trò của quảng cáo, bởi vì những quốc gia mà có ít sự quan
hệ thì phải quảng cáo mạnh và những quốc gia giàu mối quan hệ thì quảng cáo ít
như: Pháp, Ý, Úc. Ngoài ra, sự đa dạng về văn hóa phải được xem xét để hiểu
được vai trò của quảng cáo.
Tôn giáo là một biến số đa dạng, ví dụ: đạo Phật thì nhấn mạnh sự không
ham muốn như là một đức tính tốt. Nhìn chung, quảng cáo tăng theo mức độ ham
muốn. Những quốc gia Hồi giáo thì miễn cưỡng chấp nhận đổi mới từ các nước
Phương Tây, hầu hết các đổi mới mang từ các nước thiên chúa giáo. Điều này
đặc biệt đúng cho những quốc gia đã trải qua một cuộc hồi sinh của Islam bảo
BÀI DỊCH MARKETING QUỐC TẾ
LƯU HÀNH NỘI BỘ Trang 102
thủ như là Pakistan, Malaysia, Libya và Iran. Ví dụ: tổng số quảng cáo
Khomeini’s Iran đặt biệt tụt xuống trongsuốt triều đại Shah’s.
Khả năng đọc và viết cũng là cản trở cho quảng cáo. Tỷ lệ biết đọc và biết
viết ở mỗi quốc gia tạo sự khó khăn cho quảng cáo qua phương tiện in ấn. Thêm
vào đó một số quốc gia không có thương mại TV hay radio, mà đây là phương
pháp tìm kiếm khách hàng biết đọc và biết viết tốt, ngay khách hàng không biết
chữ, tức là nó tác động đến mọi người như nhau. Sự đa dạng về ngôn ngữ cũng là
mỗi vấn đề, nó tạo ra sư không hiệu quả trên qui mô rộng và tạo ra chi phí quảng
cáo cao trong một quốc gia, một môi trường đa ngôn ngữ là một bất lợi lớn cho
quảng cáo. Quốc gia Zaire là một ví dụ cho trường hợp này.
Zaire có dân số khoảng 35 triệu người, ngôn ngữ chính là tiếng Pháp. Nhưng chỉ có
một bộ phận nhỏ dân số nói được tiếng Pháp. Có 4 ngôn ngữ chung trên toàn quốc gia,
nhưng chỉ có ¼ dân số hiểu được 4 ngôn ngữ này. Tuy nhiên, hầu hết người dân thì ưa
thích quen thuộc với ngôn ngữ dân tộc mình. Có trên 100 ngôn ngữ dân tộc và tất cả
chúng đều khó hiểu. Ngôn ngữ dân tộc chính là phương tiện tốt nhất cho việc truyền
thông tin quảng cáo có sức thuyết phục. Nhưng để chuẩn bị quảng cáo cho một số lượng
ngôn ngữ như vậy quả là một công việc không thể vượt qua.
Cơ sở hạ tầng phục vụ cho chiến lược xúc tiến
Khả năng quảng cáo của một công ty ở một quốc gia sẽ bị ảnh hưởng bởi sự
trợ giúp của những cơ sở hạ tầng có sẵn ở đây. Nước Mỹ có một cơ sở hạ tầng rất
tốt cho quảng cáo, có nhiều tư liệu mà công ty nghiên cứu thị trường và nhiều
công ty quảng cáo để giúp đỡ cho công việc này. Có một dãy rộng lớn các
phương tiện quảng cáo để chọn lựa như bưu điện, báo chí, tạp chí, truyền thanh
truyền hình, băng rôn, quảng cáo ngoài trời và nhiều phương tiện khác. Ở những
khu vực có mức độ phát triển kinh tế thấp hơn thì những bộ phận khác nhau của
cơ sở ha tầng thiếu hoặc không đầy đủ. Ví dụ: dịch vụ bưu điện đôi khi không chỉ
là phương tiện duy nhất trong một vùng quê rộng lớn của những quốc gia đang
phát triển. Nhiều quốc gia không có con số phát hành hay khán thính giả mục
tiêu thực của phương tiện quảng cáo. Phương tiện TV rất bị giới hạn ở một số
quốc gia đang phát triển và ngay cả một số quốc gia đang thịnh vượng. Ví dụ: ở
Thụy Điển và gần đây ở Na Uy không một mẫu quảng cáo nào được phép xuất
hiện trên TV.
Những qui định và những phương tiện truyền thông có sẵn ở mỗi quốc gia có
thể ép buộc một người quảng cáo sửa đổi chương trình của mình. Những chiến
dịch để chuẩn bị cho phương tiện TV và radio sẽ không làm tương tự cho phương
tiện in ấn. Bảng 8-2 đưa ra một ý kiến về mối liên hệ quan trọng về các phương
tiện quảng cáo khác nhau ở nhiều quốc gia. Vai trò của phương tiện in ấn nằm
trong khoảng 14% - 94%, cũng với khoảng rộng như vậy cho phương tiện TV và
phương tiện khác. Phần của radio đạt được 25% ơ ûGuatamala và giảm xuống
0% ở những quốc gia không thương mại hóa radio. Tuy nhiên, nên chú ý rằng xu
hướng ở nhiều quốc gia là đề cao vai trò to lớn của thương mại hóa TV để bù đắp
cho radio và phương tiện in ấn. Ở chừng mực nào đó điều này là công bằng vì số
người xem TV đang tăng lên, nhưng cũng một phần vì sự mong muốn của chính
phủ là cắt giảm chi tiêu truyền hình cộng cộng. Cũng có một khía cạnh chính trị
ảnh hưởng đến việc chọn lựa phương tiện ở nhiều quốc gia, ở đây các phương
tiện có lẽ bị gắn chặt bỡi các quan điểm hoặc các đảng phái chính trị đặc biệt.
BÀI DỊCH MARKETING QUỐC TẾ
LƯU HÀNH NỘI BỘ Trang 103
Những công ty quảng cáo trong một quốc gia là nhân tố quan trọng nhất
trong việc xúc tiến. Quan trọng là ở những quốc gia khác nhau thì sự tồn tại và
bản chất của những công ty quảng cáo cũng khác nhau. Nhìn chung, những quốc
gia công nghệ giàu có thì có nhiều công ty quảng cáo với khả năng phục vụ trọn
gói như Mỹ chẳng hạn. Khi công ty xâm nhập vào những nền kinh tế nghèo hơn
và nhỏ hơn thì năng lực phục vụ và số lượng các công ty giảm. Ví dụ vương quốc
Anh có trên 160 công ty, một số công ty quảng cáo có khả năng phục vụ trọn gói.
Ngược lại, các quốc gia như Ghala, Paraguay và Zambia chỉ có 2 công ty quảng
cáo và chỉ 1 trong 2 công ty có khả năng phục vụ trọn gói. Quả thật, vào năm
1992 cứ 9 quốc gia thì chỉ có một công ty quảng cáo. Trong những thị trường
nghèo này thì các công ty thường phải bỏ qua sự phục vụ của các công ty quảng
cáo địa phương mà sử dụng các công ty quảng cáo ở nơi khác. Công ty quảng
cáo đa quốc gia sẽ đóng vai trò chỉ dẫn cho các công ty quảng cáo địa phương
thiếu kinh nghiệm, giúp đỡ họ nâng cao kiến thức để họ có thể phục vụ tốt hơn
trong tương lai. Công việc của những nhân viên cấp cao của công ty là cung cấp
những thông tin từ những thị trường tiến bộ hơn và đôi khi gửi nhân viên của
công ty đi những thị trường nước nhập khẩu.
Chính phủ và quảng cáo
Chính phủ Mỹ không thực hiện chính sách tự do kinh doanh có liên quan đến
quảng cáo. Tuy nhiên, những rào cản này không làm chúng ta phải cân nhắc
trong quảng cáo. Xa hơn, có những quốc gia có những ngăn cản chặt chẽ hơn và
một số khác có sự ngăn chặn yếu hơn chính phủ Mỹ. Một điều cần thật phải chú
ý là một số quốc gia không cho phép quảng cáo trên truyền hình và truyền thanh.
Hạn chế khác cho công ty là chính phủ thường điều khiển quảng cáo bằng những
qui định và giới hạn cho những sản phẩm như: thuốc lá, rượu và một số sản phẩm
đuợc cho là dễ hư hỏng khác.
Một vài quốc gia đưa ra luật lệ qui định ngôn ngữ phải dược sử dụng trong
quảng cáo và một số quốc gia khác đòi hỏi các mẫu quảng cáo phải được thực
hiện bởi các công ty địa phương. Hai mươi bốn quốc gia phải có sự thông thoáng
quảng cáo cho những loại sản phẩm chính của nó. New Zealand, một quốc gia
với 3 triệu dân lại có đến 30 luật lệ khác nhau liên quan đến quảng cáo. Một số
chính phủ thì lại kiểm soát quảng cáo thông qua thuế. Ví dụ: ở Thụy Điển thuế
quảng cáo trên báo chí là 6% và phương tiện khác là 10%. Trong khi quảng cáo
trên báo và tạp chí thì không phải đóng thuế nhưng trên các phương tiện khác là
10%. Thách thức lớn cho quảng cáo là chính phủ yêu cầu mở cuộc tấn công vào
chính sự thành lập của mẫu quảng cáo.
Chính phủ Anh mở cuộc tấn công vào Proter & Gamble và Unilever vì nó đã
chi tiêu quá nhiều cho quảng cáo sản phẩm chất tẩy của nó mà điều này làm tăng
giá sản phẩm. Tương tự chính phủ Aán Độ đã chống lại Firestone vì sự chi tiêu
cho quảng cáo của họ.
BÀI DỊCH MARKETING QUỐC TẾ
LƯU HÀNH NỘI BỘ Trang 104
QUẢNG CÁO TRONG THỊ TRƯỜNG XUẤT KHẨU VÀ THỊ
TRƯỜNG NGƯỜI MUA GIẤY PHÉP SẢN XUẤT
Ơû một số quốc gia các công ty bán hàng thông qua nhà phân phối độc lập
hay thông qua người mua giấy phép sản xuất. Những bộ phận này sẽ tự quản lý
việc marketing và quảng cáo sản phẩm của công ty trong thị trường của họ. Điều
này có nghĩa là các nhà Marketer quốc tế sẽ không phải làm công việc quảng cáo
trong thị trường này, ngoại trừ gửi những tài liệu quảng cáo đã được sử dụng của
công ty ở quốc gia khác cho thị trường này. Như vậy, yếu tố tự do hóa kinh
doanh có lẽ là cần thiết. Ở đây, các nhà phân phối và người mua giấp phép sản
xuất không muốn bất cứ sự giúp đỡ nào (hay sự can thiệp nào) từ nhà xuất khẩu
và người bán giấy phép sản xuất. Vì:
Nhà phân phối và người mua giấy phép sản xuất là những người hiểu biết
về thị trường của họ nhất.
Đó là công việc tư lợi của họ để xúc tiến sản phẩm tốt.
Họ chi tiêu cho các phương tiện địa phương rẻ hơn.
Nếu họ có những nhà Marketer giỏi họ sẽ làm được việc hơn những nhà
cung cấp nước ngoài.
Nhiều nhà xuất khẩu và người bán giấp phép sản xuất không có mặt trong thị
trường nước ngoài thì công việc quảng cáo phụ thuộc hoàn toàn vào nhà phân
phối và người mua giấp phép sản xuất của họ. Đôi khi điều này xảy ra là vì nhà
phân phối và người mua giấp phép sản xuất có lợi thế hơn, nhưng thông thường
đó là kết quả của sự thiếu nhân lực, thiếu kinh nghiệm và khả năng chuyên môn
của các bộ phận của nhà xuất khẩu và nhà bán giấp phép sản xuất. Thông thường,
các công ty xuất khẩu - bán giấy phép sản xuất có thể có chương trình quảng cáo
và marketing hiệu quả hơn nếu họ đóng vai trò chủ động. Tuy nhiên, điều này đòi
hỏi phải có những người có kinh nghiệm mà những người như vậy có lẽ không
tìm được ở công ty xuất khẩu – công ty bán giấy phép sản xuất nhỏ. Nếu các
công ty quốc tế có đội ngũ marketer giỏi hơn những nhà marketer của những nhà
phân phối – nhà mua giấy phép sản xuất, thì họ nên cố gắng thể hiện vai trò của
họ trong quảng cáo và marketing. Ít nhất có một kiến thức sâu rộng trong việc
xúc tiến những sản phẩm riêng của công ty. Điều này đặc biệt đúng khi những
nhà phân phối quản lý một sản phẩm tầm cỡ rộng lớn mà lại không có một kiến
thức đặc biệt về sản phẩm của họ.
Rộng hơn các nhà sản xuất và bán giấy phép sản xuất có nhiều kinh nghiệm
trong việc xúc tiến thì nên cố gắng thể hiện vai trò của mình trong việc xúc tiến
cho nhà phân phối và người mua giấy phép sản xuất, nhưng nếu đó là trách
nhiệm của nhà phân phối hoặc người mua giấy phép sản xuất thì tại sao các nhà
marketer quốc tế phải tham gia vào công việc này? Có rất nhiều lý do để các
công ty nước xuất khẩu đảm trách công việc này:
1. Dù nỗ lực nhưng các nhà phân phối – mua giấy phép sản xuất không thể
đưa ra một mẫu quảng cáo nào trợ giúp cho sản phẩm của công ty.
BÀI DỊCH MARKETING QUỐC TẾ
LƯU HÀNH NỘI BỘ Trang 105
2. Họ có thể quảng cáo nhưng ở phương diện nào đó thì công ty cần phải
quan tâm đến việc không hiệu quả hay gây hại đến sản phẩm của công ty.
3. Quảng cáo của nhà phân phối có thể gây ra mâu thuẫn lớn lan truyền từ
quốc gia này đến quốc gia kia và công ty muốn duy trì được hình ảnh vì vị
trí của mình.
4. Lý do pháp lý: công ty phải tìm ta một cách có hiệu quả để kiểm soát được
số tiền làm ra bởi người đại diện ở nước ngoài của họ. Điều này đặc biệt
đúng cho những ngành dược và những sản phẩm ảnh hưởng đến đời sống
và sự an toàn.
Nếu bộ phận marketing của công ty quốc tế quyết định tham gia vào công
việc quảng cáo ở thị trường người phân phối – nhận giấy phép sản xuất thì thông
thường đó sẽ là một loại chương trình hợp tác với nhà phân phối – mua giấy phép
sản xuất. Ngoài ra, công ty có thể tự mình chỉ đạo quảng cáo ở thị trường này mà
không cần tham gia của người đại diện ở địa phương. Khi công ty tự mình quảng
cáo thì những thị trưởng nhà phân phối – nhận giấy phép sản xuất được xem như
là những thị trường con. Chúng ta sẽ thảo luận quảng cáo ở những thị trường con
này ở phần sau, ở đây chúng ta chỉ xem xét vấn đề tham gia vào sự hợp tác quảng
cáo của nhà phân phối-người mua giấp phép sản xuất. Một vấn đề chính liên
quan đến sự phân chia lao động trong hợp tác quảng cáo: ai là người thanh toán
quảng cáo? Ai là người chọn thông điệp?Ai chọn phương tiện truyền thông?
Quảng cáo hợp tác này được điều khiển trong những thị trường rộng lớn như thế
nào?
QUẢNG CÁO HỢP TÁC
Thanh toán
Việc thanh toán cho chương trình hợp tác quảng cáo thì thường được phân
chia đồng đều giữa công ty địa phương và công ty quốc tế. Tuy nhiên, công ty
quốc tế thường chia hơn phân nửa nếu điều đó là cần thiết để có được một mẫu
quảng cáo hiệu quả và nếu người phân phối không đủ khả năng hoặc miễn cưỡng
thanh toán 50%. Nhà xuất khẩu bán giấy phép sản xuất đều hy vọng rằng quảng
cáo sẽ được làm bởi sự hợp tác của 2 bên. Nếu chỉ là các công ty quốc tế chi trả
toàn bộ cho công ty địa phương thì chương trình hợp tác này mất đi sự thú vị.
Tuy nhiên, thật là đáng giá nếu chương trình hợp tác đưa ra nhiều mẫu quảng cáo
hiệu quả và làm tăng doanh số. Một thuận lợi khác có lẽ đến từ yếu tố hợp tác khi
người cộng sự địa phương đưa ra những phương tiện truyền thông thuận lợi hơn
những phương tiện truyền thông đã được định sẵn ở công ty nước ngoài.
Thông điệp
Các công ty quốc tế thích đóng một vai trò chính trong việc chọn lựa thông
điệp quảng cáo. Thông điệp thường là yếu tố chính quyết định sự thành công của
mẫu quảng cáo. Trong lĩnh vực này, các công ty quốc tế có nhiều kinh nghiệm
hơn. Với kinh nghiệm của mình, các công ty quốc tế sẽ rút ra được thông điệp
cho thị trường nội địa và những thị trường quốc tế khác. Mặc dù những thông
điệp không nhất thiết phải giống nhau ở mọi quốc gia nhưng cũng gầøn như
BÀI DỊCH MARKETING QUỐC TẾ
LƯU HÀNH NỘI BỘ Trang 106
tương tự cho chương trình hợp tác. Vượt ra ngoài việc nghiên cứu hiệu quả còn
có những lợi thế khác là: giảm chi phí, duy trì được sức thu hút và vị trí của công
ty từ quốc gia này đến quốc gia khác. Công việc này thật là dễ dàng đối với nhà
marketer quốc tế.
Phương tiện truyền thông và công ty quảng cáo
Thông thường, lựa chọn phương tiện truyền thông không phải là công việc
của công ty quốc tế. Bởi vì, trong lĩnh vực này người địa phương có kiến thức
nhiều hơn. Nhưng chọn lựa công ty quảng cáo là công việc quan trọng cho những
công ty quốc tế. Họ thường chọn những công ty quảng cáo đa quốc gia, họ thích
sử dụng chỉ một công ty quảng cáo cho nhiều quốc gia mà họ quan hệ trong
chừng mực mà họ có thể. Họ chọn những công ty mà có những vấn đề về truyền
đạt và chi phí quản lý giảm đến mức tối thiểu và công ty này phải dễ dàng điều
khiển được chương trình hợp tác quảng cáo của họ. Công ty quảng cáo chi nhánh
ở địa phương của công ty đa quốc gia hoạt động với tư cách là người đại diện cho
công ty quốc tế. Tuy nhiên, đôi khi nhà phân phối hay nhà mua giấy phép sản
xuất miễn cưỡng chấp nhận người đại diện này, gây ra cho người đại diện lo lắng
bị trói buộc. Vì thế các công ty quốc tế phải chấp nhận rằng công ty quảng cáo ở
địa phương của công ty đa quốc gia sẽ hoạt động nhân danh nhà phân phối –
người mua giấy phép sản xuất tốt hơn là hoạt động nhân danh công ty quốc tế.
Kiểm tra
Kiểm tra chương trình hợp tác quảng cáo sẽ đem đến sự chắc chắn cho thị
trường nước ngoài về những mẫu quảng cáo phù hợp và chi phí cũng đã được
thỏa thuận trước, hợp tác quảng cáo mang tính dài hạn.
Như đã nói ở trên, công việc kiểm soát sẽ dễ dàng hơn nếu các công ty quốc
tế được chi nhánh của công ty quảng cáo đa quốc gia ở nước mà họ quan hệ. Mặt
khác, công việc kiểm soát này cũng yêu cầu các nhà marketer quốc tế phải đến
đây để xem xét. Và họ cũng yêu cầu sự quan tâm và đặt hàng từ công ty quảng
cáo ở nước nhập khẩu. Thỉnh thoảng có những câu chuyện khủng khiếp là công
ty quảng cáo ở địa phương họ tự gửi đơn đặt hàng giả và chiếm đoạt tiền mà
không làm quảng cáo. Ngoài ra, những vấn đề về kiểm soát thì cũng liên quan
đến phẩm chất, năng lực của nhà phân phối – nhà môi giới sản xuất. Ở đây, ta
nhấn mạnh trở lại sự quan trọng của việc chọn lựa đối tác ở phần đầu.
Khi Pepsi muốn tăng tốc chiến dịch của mình để đuổi kịp Coca- cola, công ty đã kêu
gọi một cuộc hội nghị quốc tế. Pepsi đã tập hợp tất cả các nhà phân phối chai của nó trên
toàn cầu cho cuộc họp mặt tại Los Angeles để giúp được họ có được sự phối hợp tốt nhất
trong việc marketing sản phẩm Pepsi - cola. Ở thị trường của họ Pepsi - Cola đã tự tay
phát hành nhiều mẫu quảng cáo sinh động và đưa trụ sở quản lý quốc tế Pepsi vào hoạt
động.
QUẢNG CÁO TRONG THỊ TRƯỜNG CỦA CÁC CON
Quảng cáo trong những quốc gia mà ở đây công ty có một chi nhánh làm đại
diện cho công ty mình và những công việc tương tự như công ty mẹ làm ở thị
trường nội địa. Theo qui luật tự nhiên, công ty sẽ hiện diện trong thị trường này
và công việc quảng cáo cơ bản thì giống nhau ở mọi nơi: cùng một thông điệp
BÀI DỊCH MARKETING QUỐC TẾ
LƯU HÀNH NỘI BỘ Trang 107
truyền trên cùng một phương tiện vào cùng thời gian. Dĩ nhiên phải có một vài
sự khác biệt vì mỗi thị trường thì có những biến số môi trường riêng biệt, đối thủ
cạnh tranh khác nhau, trạng thái công ty khác nhau như qui mô kinh doanh, hình
dáng sản phẩm, thị phần ở mỗi quốc gia. Tuy nhiên, công ty con phải làm công
việc quảng cáo ở thị trường của mình giống như công ty mẹ đã làm ở thị trường
nội địa. Sự giống nhau cốt lõi này cho phép chúng ta hạn chế chính chúng ta
trong 2 vấn đề nổi bật nhất: chọn công ty quảng cáo và chọn thông điệp quảng
cáo.
Chọn công ty quảng cáo nào?
Quảng cáo là một chức năng của marketing mà các công ty thường thuê
mướn chuyên gia bên ngoài hoặc một công ty quảng cáo để làm quảng cáo cho
mình. Điều này cũng đúng cho cả thị trường nội địa và tất cả thị trường khác.
Chọn lựa công ty quảng cáo là một yếu tố quan trọng nhất quyết định sự thành
công của chương trình quảng cáo. Ơû những thị trường nước ngoài, các công ty
quảng cáo hoạt động như cầu nối văn hoá giữa công ty quốc tế và thị trường địa
phương. Có 2 sự lựa chọn chủ yếu đặt ra cho công ty khi chọn lựa cho công ty
quảng cáo: có thể chọn lựa công ty quảng cáo địa phương cho mỗi thị trường địa
phương. Họ có thể chọn lựa một chi nhánh ở địa phương của công ty quảng cáo
đa quốc gia. Những công ty quảng cáo đa quốc gia khổng lồ phần lớn là những
công ty Mỹ, họ có chi nhánh ở nhiều thị trường chính. Những công ty đa quốc
gia của Mỹ có trung bình trên 20 chi nhánh. Ví dụ như Mecann- Erickson có
không dưới 58 chi nhánh (xem bảng 8 -3 ). Chọn lựa một công ty quảng cáo phù
hợp cho thị trường nước ngoài sẽ phụ thuộc vào những nhu cầu và mục đích của
công ty liên quan đến những gì mà công ty ứng cử có thể cung cấp. Chúng ta sẽ
thảo luận một vài vấn đề liên quan đến việc chọn lựa giữa công ty quảng cáo địa
phương độc lập và chi nhánh ở địa phương của công ty quảng cáo đa quốc gia.
Công ty quảng cáo địa phương
Một công ty quảng cáo độc lập ở thị trường nước ngoài có lẽ là một lựa chọn
tốt nếu công ty này là một công ty làm ăn hiệu quả nhất. Nếu quảng cáo là phần
quan trọng của marketing – mix và công ty phụ thuộc nhiều vào quảng cáo thì có
thể nhận ra là một công ty độc lập ở địa phương có thể làm công việc này tốt
nhất. Nếu công ty quốc tế mong muốn có một hình ảnh mang tính địa phương
hơn là mang tính quốc tế thì công ty quốc tế sẽ chọn một công ty địa phương. Ví
dụ IBM sử dụng những công ty địa phương trong những thị trường nước ngoài để
thúc đẩy hình ảnh của nó như một công dân tốt. Nếu một công ty đa quốc gia có
phân quyền, tức là nó đưa ra nhiều sự tự quản cho những chi nhánh nước ngoài.
Việc chọn lựa công ty quảng cáo thường không chọn công ty con mà họ sẽ chọn
công ty địa phương. Bên cạnh sự hiệu quả của quảng cáo, họ tự do chọn lựa công
ty quảng cáo thì quan trọng cho tinh thần của công ty con. Cuối cùng, nếu công
ty quốc tế sử dụng chiến dịch mang tính địa phương thì quảng cáo nên được thiết
lập ở mỗi thị trường hơn là hợp tác quốc tế. Một lý do khác là công ty địa
phương có thể phục vụ tốt ngang bằng công ty chi nhánh đa quốc gia.
Công ty quảng cáo đa quốc gia
BÀI DỊCH MARKETING QUỐC TẾ
LƯU HÀNH NỘI BỘ Trang 108
Thị phần quảng cáo của công ty quảng cáo đa quốc gia trên thế giới đang
tăng lên đều đặn, bởi vì nhu cầu phục vụ của họ, đặc biệt bởi những khách hàng
của công ty quảng cáo đa quốc gia. Có những lý do để chúng ta lựa chọn chi
nhánh của công ty quảng cáo đa quốc gia hơn là lựa chọn công ty địa phương.
1. Khi công ty đa quốc gia muốn tiêu chuẩn hóa sự hấp dẫn và vị trí của mình
một cách tương đối trên thị trường thế giới. Điều này sẽ dễ dàng đạt được
nếu công ty làm ăn với công ty quảng cáo quốc tế. Nếu tất cả các phương
tiện đưa tin trong thị trường nước ngoài gần giống với mạng lưới đưa tin
của công ty con thì làm ăn với công ty quốc tế tốt hơn làm ăn với công ty
độc lập. Những công ty con của công ty đa quốc gia hướng vào thị trường
rộng lớn ngoài thông qua chi nhánh của công ty quảng cáo đa quốc gia.
2. Khi công ty đa quốc gia muốn thực hiện việc kiểm soát chương trình quảng
cáo quốc tế của họ (như họ đã từng làm), những chi phí phát hành và chi
phí truyền đạt thông tin được cắt giảm nếu công ty có thể làm ăn với công
ty đa quốc gia. Công ty quảng cáo đa quốc gia này cùng với công ty thuê
nó kiểm tra chương trình quảng cáo trên cơ sở quốc tế.
3. Khi công ty đa quốc gia có thị phần nhỏ trong một số thị trường và họ chi
cho ngân sách quảng cáo quá nhỏ, với kinh phí này thì không đủ để tạo sự
nỗ lực tốt nhất với công ty quảng cáo địa phương độc lập. Nếu mà côngty
quảng cáo đa quốc gia đang làm ăn với một số công ty trong thị trường
này. Với một tổng số ngân sách quảng cáo chi cho thị trường này thì đủ đe
khuyến khích phục vụ tốt, kể cả những thị trường nhỏ.
4. Khi công ty đa quốc gia muốn thực hiện quảng cáo trong những thị trường
nhà phân phối mà người mua giấy phép sản xuất mà không có chương
trình hợp tác ở đây, họ thường sử dụng công ty đa quốc gia. Đặc biệt khó
khăn và đắc đỏ để làm ăn với những công ty quảng cáo quốc gia tách biệt
trong những thị trường này,mà ở đây công ty không có người đại diện.
Ngược lại văn phòng địa phương của công ty quảng cáo đa quốc gia có thể
hoạt động như một người đại diện của công ty trong những thị trường
người phân phối và người mội giới sản xuất. Họ sẽ kiểm soát việc quảng
cáo ở đây cả việc thực hiện và tiết kiệm.
5. Cuối cùng chúng ta nên chú ý: chọn chi nhánh địa phương của công ty
quảng cáo đa quốc gia không có nghĩa là bỏ qua những đặc tính và kiến
thức địa phương. Các chi nhánh ở địa phương của công ty quảng cáo đa
quốc gia thuộc trong số những công ty tốt nhất ở thị trường này và họ đã có
mặt ở đây nhiều năm.
Sara Lee bước vào thị trường Châu Aâu mở ra một đợt hoật động của các
công ty hàng tiêu dùng vào thập kỷ 80. Họ đưa ra một nhóm trên 400 công ty
quảng cáo trải rộng trên khắp thị trường Châu Aâu. Tuy nhiên, Sara Lee đã nhận
ra rằng diều này đã không quản lý được thái độ của các thị trường riêng rẽ. Cho
nên họ quyết định cắt giảm số lượng công ty của họ xuống còn 4 công ty đa quốc
gia. Cứ một công ty đa quốc gia quản lý một nhóm sản phẩm chính trên thị
trường Châu Aâu. Ví dụ BBDO Worldwide quản ly nhóm sản phẩm cà phê và
thuốc lá.
BÀI DỊCH MARKETING QUỐC TẾ
LƯU HÀNH NỘI BỘ Trang 109
Chọn thông điệp quảng cáo nào?
Chọn thông điệp quảng cáo là phương tiện truyền thông tin chính từ người
sản xuất đến người tiêu dùng. Chúng đóng vai trò quan trọng nhưng vai trò của
nó thì ít quan trọng hơn trong marketing công nghiệp. Xác định một thông điệp
quảng cáo phù hợp là một khía cạnh then chốt nhất trong chương trìng quảng
cáo. Nếu một thông điệp không hiệu quả thì thật là lãng phí và phản tác dụng cho
việc chi tiêu nhiều tiền vào phương tiện quảng cáo. Biết rằng mỗi một thị trường
nước ngoài là độc nhất vô nhị ở nhiều khía cạnh, chúng ta có thể đự đoán rằng
một thông điệp tốt nhất cho một thị trường là một thông điệp được thiết kế riêng
cho thị trường đó. Sẽ là một điều ngạc nhiên nếu ta làm nhiều thông điệp quảng
cáo giống nhau của công ty quảng cáo đa quốc gia ở nhiều thị trường khác nhau.
Một điều cần phải suy nghĩ trong vấn đề này là: làm thế nào có thể tiêu chuẩn
hóa một mẫu quảng cáo quốc tế hay có nên tiêu chuẩn hóa nó không. Chúng ta
hãy thảo luận để đưa ra một cách hữu ích để có thể quản lý chọn lựa thông điệp
quảng cáo trong những thị trường nước ngoài.
Những thông điệp mang tính địa phương
Thông điệp địa phương do công ty quảng cáo ở địa phương và công ty con
thực hiện. Ở những thị trường có những sự khác biệt so với những thị trường
khác thì sự quan trọng của những công ty này được đề cao nếu mà thị trường của
họ không có sự khác biệt thì có lẽ công việc của họ có thể được làm tại cơ quan
đầu não của các công ty quốc tế. Vượt ra khỏi những suy nghĩ chủ quan này có
những yếu tố khác ảnh hưởng đến thông điệp quảng cáo mang tính địa phương
này. Yếu tố quan trọng đầu tiên là sự khác biệt về động cơ mua hàng ở mỗi nơi.
Ở mức độ này điều này là sự thực, một thông điệp mượn từ thị trường khác sẽ
không mang lại hiệu quả. Có được những phương tiện quảng cáo khác nhau có
thể khuyến khích được chiến dịch quảng cáo mang tính địa phương. TV là
phương tiện chính ở nhiều thị trường nhưng không có được ở một số nơi khác.
Những yếu tố khác của phương tiện in ấn có thể là căn nguyên của sự chuyển đổi
thông điệp quảng cáo ở những quốc gia này. Ở đây công ty phải sử dụng phương
tiện in ấn thay vì phương tiện TV.
Những công ty quảng cáo chọn thuê mướn các công ty quảng cáo địa phương
độc lập cho những thị trường nước ngoài thì những công ty này có khả năng sử
dụng chiến dịch quảng cáo mang tính địa phương hơn. Chắc chắn là khi công ty
quảng cáo ở thị trường này đưa ra thông điệp cho thị trường khác thì công ty đó
khó thành công. Những công ty đa quốc gia có sự phân quyền marketing và
quảng cáo xuống đến câp độ chi nhánh thì những công ty này cũng có khả năng
sử dụng quảng cáo mang tính địa phương của họ mà không cần sự giúp đỡ của cơ
quan đầu não cho sự phối hợp quốc tế. Mặt khác, tính quốc tế của quảng cáo sẽ
không được thực hiện nếu không có ý thức nỗ lực.
Thông điệp mang tính quốc tế
Ít có công ty nào làm ra những mẫu quảng cáo giống hệt nhau cho tất cả
những thị trường của họ. Nhưng họ sẽ làm những mẫu quảng cáo gần giống nhau
cho những quốc gia. Có nhiều lý do cho sự gần giống nhau này. Việc dùng công
BÀI DỊCH MARKETING QUỐC TẾ
LƯU HÀNH NỘI BỘ Trang 110
ty quảng cáo đa quốc gia khuyến khích tiêu chuẩn hoá quảng cáo bởi vì một
trong những nét đặc trưng của họ là khả năng quản lý chiến dịch quảng cáo. Trụ
sở kiểm tra chính của công ty quốc tế khuyến khích tiêu chuẩn hóa những chiến
dịch quảng cáo. Bộ phận quảng cáo đầu não có nhiệm vụ quan trọng hơn là công
ty con nên nó quản lý toàn bộ chương trình quảng cáo. Ngoài những xem xét chủ
quan này còn có nhiều lý do thuyết phục hơn. Ví dụ: nếu công ty muốn duy trì
hình ảnh sản phẩm và vị trí của mình trên nhiều thị trường thì công ty nên tiêu
chuẩn hóa mẫu quảng cáo của mình. Revlon là một ví dụ cho trường hợp này.
Revlon tập trung chuẩn bị quảng cáo và cho phép những giám đốc vùng sửa chữa
những mẫu quảng cáo nhưng với chỉ với sự chấp thuận của cơ quan đầu não.
Một trong những lý do quan trọng nhất cho sự giống nhau của những mẫu
quảng cáo này là động cơ mua một số loại hàng hóa ở một số quốc gia thì tương
tự nhau. Ví dụ như quảng cáo của các công ty Revlon, Coca – Cola, Exxon.
Chiến dịch “Đặt một con cọp trong chiếc xe tăng của bạn” của Exxon đã thành
công ở nhiều quốc gia. Một số lợi thế khác là tạo tra sự tiết kiệm cho mẫu quảng
cáo quốc tế. Sự tiết kiệm này phát sinh từ việc cải thiện sự hợp tác, kiểm soát, và
đánh gía. Đây là lý do lớn nhất để tiêu chuẩn hoá quảng cáo.
Union Carbide xâm nhập vào thị trường Châu Aâu với sản phẩm xe hơi nhãn hiệu
Prestone. Trước khi vào EU, công ty quảng cáo Young and Rubicam của nó đã nghiên cứu
các nhà buôn và khách hàng ở 11 quốc gia. Nghiên cứu chỉ ra rằng những ý tưởng và
những yếu tố đã được sử dụng trước đây ở Mỹ cũng đúng và chính xác với EU. Chiến dịch
quảng cáo cơ bản ở Mỹ đã được đưa sang EU. Thực tế chứng minh sự thành công.
Kết luận dự thảo luận này, chúng ta phải chú ý rằng một thông điệp đúng và
chính xác cho một thị trường nước ngoài, sẽ được xác định bằng cách nghiên cứu
và kinh nghiệm trong thị trường đó sự hiệu quả của quảng cáo sẽ được quyết
định trong thị trường. Với một vài sản phẩm và một vài quốc gia, thông điệp
quảng cáo phải mang tính địa phương. Cho một vài sản phẩm hoặc một vài quốc
gia, thông điệp quảng cáo phải mang tính địa phương. Cho một vài sản phẩm
hay một vài quốc gia, mức độ tiêu chuẩn hóa có lẽ được châp nhận, thậm chí có
lợi. Công ty đa quốc gia sẽ xác định được các yếu tố thích hợp, nhờ vào sự giúp
đỡ của công ty quảng cáo của họ, như trong trường hợp Union Carbide ở trên.
Tuy nhiên trong khu vực mà ta đang sống, chắc hẳn là phần lớn các công ty
quảng cáo bằng chương trình hợp tác quảng cáo cả về sự chấp nhận và lợi nhuận,
như chúng ta đã thấy nhiều mẫu quảng cáo pan-European ở Châu Aâu sau 1992.
BÁN HÀNG CÁ NHÂN
Ngược lại, với những thông điệp khách quan của quảng cáo, bán hàng cá
nhân truyền đạt thông tin và những thông điệp thuyết phục thông qua sự tác động
cá nhân. Tuy ít rõ ràng hơn quảng cáo, nhưng bán hàng cá nhân có thể xâm nhập
trực tiếp vào tận nhà. Trong trường hợp ngân sách hạn chế, thì bán hàng cá nhân
có vai trò quan trọng hơn so với các phương pháp khác. Ơû các thị trường nước
ngoài các công ty Hoa Kỳ chi cho bán hàng cá nhân gấp 3 lần so với thị trường
trong nước. Có một số lý do chính, giải thích tại sao bán hàng cá nhân có thể
thực hiện tốt nhiệm vụ của mình trên thị trường nước ngoài hơn là thị trường nội
địa. Ở thị trường nước ngoài tỷ lệ biết đọc và biết viết thấp, chính phủ ở đây hạn
chế quảng cáo, một phần do thiếu phương tiện truyền thông làm giới hạn số
BÀI DỊCH MARKETING QUỐC TẾ
LƯU HÀNH NỘI BỘ Trang 111
lượng quảng cáo của công ty có thể truyền, do đó bán hàng cá nhân được lựa
chọn. Hơn nữa, ở những quốc gia đang phát triển thì các công ty quảng cáo ở đây
trả mức thù lao cho những người bán hàng cá nhân rẻ hơn.
Đối với nhà marketer hàng tiêu dùng, bán hàng cá nhân có nghĩa là bán cho
người trung gian: nhà bán buôn, nhà bán lẻ hơn là bán cho người tiêu dùng cuối
cùng, ngoại trừ những công ty Mỹ này: Acon, Tupperware, Firestone, Singer.
Điều gây ra sự ngạc nhiên là các công ty Mỹ này sử dụng thành công các kỹ xảo
bán hàng trực tiếp trên những thị trường nước ngoài. Đối với nhà marketer hàng
công nghệ, bán hàng cá nhân là bán cho người cuối cùng, như marketing máy
tính IBM. Ở thị trường nước ngoài bán hàng cá nhân thường thực hiện những
công việc giống như ở thị trường nội địa. Một số đặc điểm khác là trong một số
quốc gia, những thị trường nhỏ và cấu trúc bán buôn và bán lẻ chia rẽ có thể làm
giới hạn lượng bán hàng trực tiếp, nếu kết hợp họ lại thì có lợi hơn. Như chúng
tôi đã trình bày, nguy cơ ở Nhật, General Foods đã phải liên kết với một công ty
lớn ở Nhật để có khả năng bán trực tiếp cho người bán lẻ.
Bán hàng cá nhân chỉ phổ biến trong một quốc gia, nó rất ít được thực hiện
qua biên giới của một quốc gia. Thực vậy, bán hàng cá nhân được thực hiện
nhiều trên một vùng hoặc một phần của quốc gia. Bởi vì, sự khác nhau về ngôn
ngữ, dân tộc, hoặc tôn giáo trên những thị trường của các quốc gia. Giống như
trường hợp của quảng cáo, bán hàng cá nhân trên những thị trường nhà phân phối
- mua giấy phép sản xuất là công việc của nhà phân phối – mua giấy phép sản
xuất. Tuy nhiên, các nhà marketer quốc tế có thể gởi những tư liệu bán hàng cá
nhân có sẵn đến cho họ. Bởi vì công ty chi nhánh có nhiệm vụ quản lý việc bán
hàng giống như ở thị trường công ty mẹ và các yếu tố chủ yếu của quản lý bán
hàng áp dụng ở nước ngoài cũng giống thị trường nội địa. Chúng ta nên hạn chế
thảo luận của chúng ta trong mảng thực hiện công việc quản lý bán hàng ở công
ty đa quốc gia. Chúng ta sử dụng một hệ thống tiêu chuẩn của việc quản lý tiêu
thụ: chiêu mộ, tuyển chọn, huấn luyện, chỉ đạo, động viên, giám sát và đánh gía
lực lượng bán hàng ( xem bảng 8-2)
Chiêu mộ và tuyển chọn
Chiêu mộ và tuyển chọn lực lượng bán hàng ở bất kỳ một quốc gia nào sẽ bị
chế ngự bỡi những đặc thù của quốc gia đó. Thứ nhất, là hệ thống giáo dục. Hệ
thống giáo dục cung cấp nhân lực cho lực lượng bán hàng, nguồn nhân lực này
có thể mạnh hoặc yếu. Tiếp đó là quan điểm đối với bán hàng cá nhân, một số
quốc gia phủ nhận quan điểm này, và sự phủ nhận này đã tác động đến những
lĩnh vực khác không liên quan đến bán hàng cá nhân như sự lựa chọn nghề
nghiệp. Đặc thù quan trọng thứ 3 là sự khác nhau trong ngôn ngữ, tôn giáo và các
chủng tộc trong một quốc gia. Điều này gây khó khăn cho người bán hàng, khi
người bán hàng của một nhóm cố gắng bán hàng cho thành viên của nhóm khác.
Với những lý do này, công ty quốc tế phải từ bỏ việc chiêu mộ và tuyển chọn
nhân viên mà để công ty con làm quen với những đặc điểm thị trường của riêng
họ.
BÀI DỊCH MARKETING QUỐC TẾ
LƯU HÀNH NỘI BỘ Trang 112
Huấn luyện
Trong lĩnh vực huấn luyện, công ty đa quốc gia sẽ có khả năng đóng góp lớn
nhất cho công việc bán hàng của công ty con. Công ty đa quốc gia có nhiều kinh
nghiệm trong việc quản lý tiêu thụ, không chỉ trong thị trường nội địa mà còn
trong một số thị trường nước ngoài. Dựa trên kinh nghiệm đó, công ty đa quốc
gia (công ty mẹ) hiểu nhiều về ảnh hưởng của các loại chương trình huấn luyện
khác nhau và kỹ xảo bán hàng khác nhau. Công ty con có thể dựa trên kinh
nghiệm này để thực hiện chương trình huấn luyện bán hàng thích hợp cho chính
thị trường của mình. Cũng có lợi cho các công ty con này, công ty con có thể nhờ
vào các chuyên gia của công ty mẹ chỉ bảo chương trình huấn luyện ngắn hạn
của họ, như là hướng dẫn bán sản phẩm mới. Ngoài ra nhân viên bán hàng của số
công ty con ở một vùng địa lý có thể được huấn luyện cùng nhau giả thuyết này
mang tính kinh tế và ảnh hưởng đến lực lượng bán hàng nhiều hơn một chương
trình quốc gia. Trong một số trường hợp nhân viên bán hàng có thể gửi công ty
mẹ những chương trình huấn luyện, giả thuyết này không mang tính kinh tế, nó
mang tính động viên tinh thần.
Chính sách động viên và thưởng
Tiền thưởng là phương pháp động viên chính đến đại diện bán hàng, đặc biệt
là hoa hồng trên doanh số bán. Định mức bán hàng và thi bán hàng có thể được
sử dụng. Chọn lựa cách động viên và những dạng tiền thưởng sẽ phụ thuộc vào
giá trị và thái độ con người ở quốc gia đó và chiến lược của đối thủ cạnh tranh ở
địa phương. Với những lý do này, công ty con sẽ phải chịu trách nhiệm với công
ty mẹ về công việc động viên và tiền thưởng được sử dụng. Ngược lại, công ty
con cũng có thể dựa trên những kinh nghiệm của công ty mẹ trong việc thiết kế
và lựa chọn cách thức động viên và các dạng tiền thưởng. Với cách này công ty
con có được sự thuận lợi hơn các đối thủ cạnh tranh.
Sự kiểm soát và sự đánh giá
Kiểm soát lực lượng bán hàng có thể được làm tại nơi bán thông qua các
công ty con. Để thiết lập những qui tắc thích hợp cho việc kiểm tra và ước lượng
thì sẽ phụ thuộc vào những đặc điểm riêng biệt của địa phương. Tuy nhiên, công
ty quốc tế có thể hỗ trợ cho công ty con của mình trong cả hai công việc này.
Thông qua phân tích so sánh những kinh nghiệm trên những thị trường con giống
nhau, công ty mẹ có thể đưa ra hay chỉ dẫn hữu ích cho việc giám sát và đánh giá
chính xác.
Thị trường nhà phân phối và mua giấp phép sản xuất
Nhà phân phối và nhà mua giấy phép sản xuất chịu trách nhiệm thực hiện
hoạt động Marketing - bao gồm cả bán hàng cá nhân – trên thị trường của họ.
Tuy nhiên, công ty quốc tế có thể và sẽ viện trợ cho người phân phối – mua giấy
phép sản xuất những công cụ xúc tiến bán hàng giống như thị trường mình. Đôi
khi công ty đa quốc gia đưa cả nhân viên của mình sang đây để huấn luyện cho
lực lượng bán hàng của nhà phân phối và mua giấy phép sản xuất. Ví dụ Unisys
huấn luyện lực lượng bán hàng của nhà phân phối trong suốt thời gian họ quan hệ
BÀI DỊCH MARKETING QUỐC TẾ
LƯU HÀNH NỘI BỘ Trang 113
với công ty, họ thực hiện điều này ở vùng địa phương nói tiếng Châu Mỹ Latinh
để bán sản phẩm mới.
Giám sát bán hàng cá nhân
Bán hàng cá nhân thường được thực hiện ở thị trường nước ngoài và quản lý
lực lượng bán hàng sẽ được thực hiện bởi các nhà quản lý của công ty con trong
thị trường của họ. Tuy nhiên, những gì chúng ta cần phải chú ý là cả công ty con
và công ty đa quốc gia sẽ có được lợi ích gì từ kinh nghiệm quốc tế của công ty.
Bán hàng cá nhân phát triển rất mạnh ở thị trường Mỹ. Có cả sách giáo khoa và
là một môn học trong các trường đại học. Công ty chi nhánh có thể làm việc này
nhiều hơn bằng cách học hỏi từ những kinh nghiệm này. Công ty con cũng làm
lợi cho sự hiệu quả trên qui mô rộng lớn của công ty mẹ. Công ty mẹ thích có sự
hiệu quả rộng lớn trong những chương trình huấn luyện và chuẩn bị các thiết bị
bán, các cuộc thi bán … Ví dụ: Firestone thưởng một tuần nghỉ ở Mỹ cho tới cả
những người bán hàng giỏi trên những thị trường nước ngoài. Những hoạt động
quốc tế cũng giúp công ty mẹ có được những kinh nghiệm trong phạm vi rộng
hơn trên thị trường nội địa, giúp công ty nhận thấy có một phạm vi rộng hơn và
đưa ra sự hiểu biết rõ về những gì làm hoặc không làm trong những hoàn cảnh
khác nhau. Điều này khuyến khích sự hợp tác và kiểm tra Marketing trong những
thị trường chi nhánh nước ngoài và cũng giúp đánh giá cách thực hiện của nhà
phân phối và người mua giấy phép sản xuất một cách hiệu quả hơn.
CÁC LOẠI KHÁC CỦA XÚC TIẾN
Quảng cáo và bán hàng cá nhân là hai bộ phận chính của hoạt động xúc tiến
công ty, cả trong thị trường trong nước lẫn nước ngoài. Tuy nhiên, có các loại
khác nhau của xúc tiến Marketing quốc tế mà chúng ta phải quan tâm.
Quan hệ công chúng
Hoạt động quan hệ công chúng không phải là một phần của chương trình
Marketing của công ty và không nên cho nó là một phần của chương trình
Marketing. Nó phải là một chương trình riêng biệt. Doanh số bán của công ty
trong bất kỳ một thị trường nào cũng liên quan đến hình ảnh phổ biến của công ty
và khả năng chấp nhận nó của công chúng. Điều này có nghĩa là hình ảnh của
công ty có thể thuyết phục hay ngăn cản những người mua tiềm năng. Vì vậy,
những chương trình quan hệ công chúng sẽ giúp công ty trở thành như là một
công dân tốt, một nhà hảo tâm trong một thị trường quốc gia họ quan hệ. Nhiều
mối quan hệ công chúng sẽ giúp chương trình Marketing thành công. Tầm quan
trọng của những mối quan hệ công chúng đến Marketing có thể được thấy rõ nhất
khi công ty thất bại trong quan hệ công chúng, tiếp theo đó công chúng sẽ trực
tiếp từ chối hay thậm chí không quan tâm đến sản phẩm của công ty. Trong
trường hợp xấu này, công ty có thể phải đối đầu với các cuộc tẩy chay hay phải
đưa ra những chứng minh giải thích.
Hội chợ thương mại
BÀI DỊCH MARKETING QUỐC TẾ
LƯU HÀNH NỘI BỘ Trang 114
Hội chợ thương mại rất phổ biến và cách hiệu quả nhất để giới thiệu và bán
sản phẩm ở nước ngoài. Hội chợ thương mại là triển lãm tập trung những sản
phẩm của hàng trăm nhà cung cấp.
Hội chợ được tổ chức thường xuyên và có thể là hội chợ hàng công nghệ hay
là cuộc triển lãm lớn như là hội chợ Hanover với 5.000 nhà triển lãm, với 20 loại
hàng công nghệ. Có hàng trăm cuộc hội chợ thương mại ở nhiều quốc gia, thậm
chí cả Trung Quốc. Bởi vì, các các hội chợ này tác động lên một số lượng lớn
người mua tiềm năng và ảnh hưởng đến người mua hàng. Các nhà trưng bày tìm
ra thị trường để bán, để phân phối và để cạnh tranh. Bởi vì, qua những cuộc hội
chợ này giúp các công ty bán được sản phẩm của họ ở nước ngoài, nên chính phủ
Mỹ luôn khuyến khích và tạo điều kiện tham dự triển lãm thông qua tổ chức
chương trình bán hàng.
Trung bình hàng năm có 20 chương trình bán hàng ở những quốcgia công
nghiệp phát triển và đang phát triển. Họ đặt trước một lô 20.000 feet vuông và
phân phối lại cho công ty Mỹ, thông thường từ 50 - 70 công ty Mỹ.
Khuyến mại
Khuyến mại bao gồm một số hành động phục vụ cho việc bán hàng như các
cuộc thi, các phiếu thưởng, mẫu dùng thử và định mức bán. Thông thường,
những hoạt động này phổ biến ở nhiều quốc gia, tiêu biểu là Mỹ. Thực vậy, tiền
thưởng, mẫu miễn phí và giảm giá được sử dụng nhiều ở các quốc gia đang phát
triển, nơi mà thu nhập chưa cao. Các quốc gia Châu Âu có nhiều hoạt động
khuyến mại, nhưng họ có nhiều luật lệ để kiểm soát các hoạt động khuyến mại
nhiều hơn ở Mỹ. Ví dụ Radio Shack đưa ra cách tiếp thị là tặng đèn nháy khi
khuyến mại ở Đức. Họ cũng lo lắng đối với những biện pháp hạn chế của chính
phủ Đức cho việc sử dụng tiền thưởng. Radio Shack đã làm giống như điều đã
làm trong khuyến mại ở Mỹ, nhưng luật Đức rất khắc khe trong việc sử dụng tiền
thưởng (khi nào sử dụng, sử dụng bao nhiêu…)
Nhận định nhu cầu quốc tế đang tăng lên trong việc khuyến mại. Stratmar Systems,
công ty có trụ sở chính ở New York, gần đây dã liên kết với một công ty Châu Aâu, TMCT
Systems ở Geneva. Cả hai đưa ra chiến dịch vụ phục vụ khuyến mại (phiếu thưởng, mẫu, …)
cho khách hàng trên những thị trường quốc gia của họ. Họ có thể cùng nhau cung cấp các
dịch vụ này cho khách hàng trên 60 quốc gia ở Châu Aâu, Mỹ, Nigiêria và Nam Phi.
TÓM TẮT
Những nhà Marketer đi đến khắp nơi trên thế giới, công việc của họ là
thuyết phục các khách hàng mua sản phẩm hay dịch vụ. Tất cả họ sử dụng công
cụ xúc tiến cơ bản là giống nhau – quảng cáo, những công cụ này được sử dụng
theo những cách thức khác nhau và những mức độ khác nhau ở mỗi quốc gia.
Chương này đã chỉ ra một số mẫu số thông thường, cũng chỉ ra một số khác nhau
trong công việc xúc tiến của nhà Marketer quốc tế ở một số quốc gia, thách thức
gặp phải ở một số quốc gia cũng khác nhau. Chúng ta đã nhìn thấy một số thách
thức mà các công ty quan tâm – sử dụng những công ty quảng cáo quốc tế, sự
phối hợp và chuyển giao kinh nghiệm quốc tế. Thành công quốc tế của hàng
ngàn công ty Mỹ, Châu Aâu, Nhật chỉ ra rằng chi phí để vượt qua những thách
BÀI DỊCH MARKETING QUỐC TẾ
LƯU HÀNH NỘI BỘ Trang 115
thức trong xúc tiến quốc tế có thể vượt quá lợi nhuận, nếu những thách thức gặp
phải không dễ dàng.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- tong_hop_bai_dich_1_0418.pdf