Lợi nhuận từ hoạt động kinh doanh thu được từ hoạt động tiêu thụ sản phẩm, bộ phận
này chiếm tỷ trọng chủ yếu trong tổng lợi nhuận của doanh nghiệp. Nó phụ thuộc vào
các yếu tố như: khối lượng hàng hóa, dịch vụ bán ra trên thị trường, giá mua và bán hàng
hóa, dịch vụ, các chi phí
Lợi nhuận từ hoạt động tài chính được xác định bằng khoản chênh lệch giữa khoản thu
về và chi cho hoạt động tài chính như mua bán chứng khoán, mua bán ngoại tệ, lãi cho
vay vốn, lợi tức cổ phần
Lợi nhuận bất thường là những khoản lợi nhuận mà doanh nghiệp không dự tính trước
hoặc có khả năng dự tính nhưng khó thực hiện được, hoặc những khoản thu không
thường xuyên như: khoản phải trả nhưng không phải trả do phía chủ nợ, lợi nhuận từ
quyền sở hữu, nhượng bán tài sản, dự phòng nợ phải thu khó đòi.
43 trang |
Chia sẻ: phanlang | Lượt xem: 1827 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Lý luận chung về kinh doanh thực phẩm của doanh nghiệp, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ại vật tư đó như thế nào? Mua sắm vật tư ở đâu? Khi
nào? Mức giá vật tư trên thị trường là bao nhiêu? Phương thức mua bán và giao nhận
như thế nào?…
Để nghiên cứu thị trường thường phải trải qua 3 bước cơ bản: thu thập thông tin, xử lý
thông tin và ra quyết định. Cùng với việc nghiên cứu thị trường thì công tác dự báo thị
trường vật tư đối với doanh nghiệp cũng có một vị trí quan trọng. Việc nghiên cứu và
dự báo thị trường phải tiến hành đồng thời với cung, cầu, giá cả… từ đó doanh nghiệp
sẽ xây dựng được chiến lược kinh doanh phù hợp.
11/41
Nội dung của kinh doanh thực phẩm
Nội dung của kinh doanh thực phẩm
Lập kế hoạch mua sắm vật tư ở doanh nghiệp
Kế hoạch mua sắm vật tư ( đầu vào cho sản xuất kinh doanh thực phẩm) là một bộ phận
quan trọng của kế hoạch sản xuất-kỹ thuật-tài chính của doanh nghiệp và có mối quan
hệ mật thiết với các kế hoạch khác như kế hoạch tiêu thụ, kế hoạch sản xuất, kế hoạch
xây dựng cơ bản. Kế hoạch mua sắm vật tư của doanh nghiệp là các bản tính toán nhu
cầu cho sản xuât hàng thực phẩm của doanh nghiệp và nguồn hàng rất phức tạp nhưng
có tính cụ thể và nghiệp vụ cao. Nhiệm vụ chủ yếu của kế hoạch là bảo đảm vật tư tốt
nhất cho hoạt động sản xuất kinh doanh hàng thực phẩm, nó phản ánh được toàn bộ nhu
cầu vật tư của doanh nghiệp trong kỳ kế hoạch như nhu cầu vật tư cho sản xuất, cho sửa
chữa, dự trữ, cho xây dựng cơ bản… Đồng thời nó còn phản ánh được các nguồn vật tư
và cách tạo nguồn của doanh nghiệp gồm nguồn từ hàng tồn kho đầu kỳ, nguồn động
viên tiềm lực nội bộ doanh nghiệp, nguồn mua trên thị trường.
Tổ chức mua sắm vật tư
Trên cơ sở của kế hoạch mua sắm vật tư và kết quả nghiên cứu thị trường doanh nghiệp
lên đơn hàng vật tư và tổ chức thực hiện việc đảm bảo vật tư cho sản xuất. Lên đơn hàng
là quá trình cụ thể hoá nhu cầu, là việc xác định tất cả các quy cách, chủng loại và thời
gian nhận hàng, lập đơn hàng là công việc hết sức quan trọng của quá trình tổ chức mua
sắm vật tư, vì nó ảnh hưởng trực tiếp tới quá trình mua sắm vật tư và hiệu quả của quá
trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Bất cứ một sai sót nào cũng có thể dẫn tới
việc đặt mua những vật tư mà nhu cầu sản xuất không cần tới hoặc không đủ so với nhu
cầu. Để lập được đơn hàng chính xác bộ phận lập đơn hàng phải tính đến các cơ sở như:
nhiệm vụ sản xuất, hệ thống định mức tiêu dùng vật tư, định mức dự trữ vật tư, lượng
tồn kho, kế hoạch tác nghiệp đảm bảo vật tư quý, tháng … Nhiệm vụ quan trọng trong
công tác lập đơn hàng là chọn và đặt mua những loại vật tư hàng hoá có hiệu quả kinh
tế cao.
Tổ chức chuyển đưa vật tư về doanh nghiệp
Vận chuyển vật tư hàng hoá về doanh nghiệp đóng vai trò quan trọng trong việc đảm
bảo vật tư kịp thời, đầy đủ và đồng bộ cho sản xuất. Công việc này ảnh hưởng trực tiếp
tới việc giữ gìn số lượng, chất lượng vật tư hàng hoá, đảm bảo sử dụng có hiệu quả và hạ
giá thành sản phẩm. Chuyển đưa vật tư về doanh nghiệp có thể thực hiện bằng hình thức
tập trung hoặc phi tập trung tuỳ theo khối lượng vật tư và tình hình cụ thể từng doanh
nghiệp.
12/41
Tiếp nhận và bảo quản vật tư về số lượng và chất lượng
Vật tư hàng hoá chuyển về doanh nghiệp trước khi nhập kho phải qua khâu tiếp nhận về
số lượng và chất lượng. Mục đích của tiếp nhận là kiểm tra số lượng và chất lượng vật
tư nhập kho, kiểm tra việc thực hiện hợp đồng và đưa hàng xem có bảo đảm số lượng và
chất lượng hay không để xác định rõ trách nhiệm của những đơn vị và cá nhân có liên
quan đến hàng nhập.
Tổ chức cấp phát vật tư trong nội bộ doanh nghiệp
Cấp phát vật tư cho các đơn vị tiêu dùng trong doanh nghiệp (phân xưởng, tổ đội sản
xuất, nơi làm việc của công nhân) là một khâu công hết sức quan trọng. Tổ chức tốt
khâu này sẽ bảo đảm cho sản xuất của doanh nghiệp tiến hành được nhịp nhàng, góp
phần tăng năng suất lao động của công nhân, tăng nhanh vòng quay của vốn lưu động,
nâng cao chất lượng và hạ giá thành sản phẩm, tiết kiệm vật tư trong tiêu dùng sản xuất,
nâng cao hiệu quả cho hoạt động sản xuất kinh doanh.
13/41
Quá trình sản xuất sản phẩm
Quá trình sản xuất sản phẩm
Quá trình sản xuất là quá trình con người sử dụng tư liệu để tác động vào đối tượng lao
động làm thay đổi hình dáng, kích thước, tính chất lý hoá của đối tượng lao động để tạo
ra những sản phẩm có chất lượng ngày càng cao, thỏa mãn đầy đủ nhu cầu đa dạng của
con người.
Doanh nghiệp là một tổ chức kinh tế tham gia các hoạt động sản xuất kinh doanh, nhằm
cung cấp sản phẩm hoặc dịch vụ thoả mãn nhu cầu của thị trường và thu về cho mình
một khoản lợi nhuận nhất định. Để thực hiện được mục tiêu của mình, mỗi doanh nghiệp
phải tổ chức tốt các bộ phận cấu thành nhằm thực hiện chức năng cơ bản. Sản xuất là
một trong những phân hệ chính có ý nghĩa quyết định đến việc tạo ra sản phẩm hoặc
cung cấp dịch vụ cho xã hội. Hình thành, phát triển và tổ chức điều hành tốt hoạt động
sản xuất là cơ sở và yêu cầu thiết yếu để mỗi doanh nghiệp có thể đứng vững và phát
triển trên thị trường. chỉ có hoạt động sản xuất hay dịch vụ mới là nguồn gôc của mọi
sản xuất và dịch vụ được tạo ra trong doanh nghiệp. Sự phát triển của sản xuất và dịch
vụ là cơ sở làm tăng giá trị gia tăng cho doanh nghiệp, tăng trưởng kinh tế cho nền kinh
tế quốc dân tạo cơ sở vật chất thúc đẩy xã hôi phát triển. Quá trình sản xuất được tổ
chức và quản lý tốt góp phần tiết kiệm được các nguồn lực cần thiết cho sản xuất, giảm
giá thành, tăng năng suất và hiệu quả sản xuất kinh doanh. Chất lượng sản phẩm và dịch
vụ do khâu sản xuất và dịch vụ tạo ra, nếu hoàn thiện được quản trị sản xuất sẽ tạo ra
tiềm năng to lớn cho nâng cao năng suất, chất lượng và khả năng cạnh tranh của doanh
nghiệp.
14/41
Tiêu thụ sản phẩm
Tiêu thụ sản phẩm
Tiêu thụ sản phẩm là giai đoạn cuối cùng của quá trình sản xuất kinh doanh, là yếu tố
quyết định sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp. Tiêu thụ sản phẩm là thực hiện
mục đích của sản xuất hàng hoá, là đưa sản phẩm từ nơi sản xuất tới nơi tiêu dùng. Nó
là khâu lưu thông hàng hoá, là cầu nối trung gian một bên là sản xuất và phân phối còn
một bên là tiêu dùng.
Tiêu thụ sản phẩm là một quá trình kinh tế bao gồm nhiều khâu từ việc nghiên cứu thị
trường, xác định nhu cầu của khách hàng, thực hiện các nghiệp vụ tiêu thụ, xúc tiến bán
hàng… nhằm mục đích đạt hiệu quả cao nhất. Hoạt động tiêu thụ sản phẩm ở các doanh
nghiệp bao gồm hai loại quá trình liên quan trực tiếp tới sản phẩm: các nghiệp vụ kỹ
thuật sản xuất và các nghiệp vụ kinh tế, tổ chức và kế hoạch hoá tiêu thụ. Việc chuẩn bị
hàng hoá để xuất bán là nghiệp vụ tiếp tục sản xuất trong khâu lưu thông, các nghiệp vụ
sản xuất ở các kho bao gồm: tiếp nhận, phân loại, bao gói, lên nhãn hiệu sản phẩm, xếp
hàng ở kho, bảo quản và chuẩn bị đồng bộ hàng để xuất bán và vận chuyển hàng theo
yêu cầu của khách. Khi sản phẩm của doanh nghiệp được tiêu thụ, tức là nó đã được
người tiêu dùng chấp nhận để thoả mãn một nhu cầu nào đó. Sức tiêu thụ sản phẩm ở
doanh nghiệp thể hiện ở mức bán ra, uy tín của doanh nghiệp, chất lượng của sản phẩm,
sự thích ứng với nhu cầu người tiêu dùng và sự hoàn thiện ở các hoạt động dịch vụ.
Tiêu thụ sản phẩm gắn người sản xuất với người tiêu dùng, nó giúp cho các nhà sản xuất
hiểu thêm về kết quả sản xuất của mình và nhu cầu của khách hàng. Về phương diện
xã hội thì nó có vai trò trong việc cân đối giữa cung và cầu, sản phẩm sản xuất ra được
tiêu thụ tức là sản xuất đang diễn ra một cách bình thường trôi chảy, tránh được sự mất
cân đối, giữ được bình ổn trong xã hội. Đồng thời tiêu thụ sản phẩm giúp các đơn vị xác
định phương hướng và bước đi của kế hoạch sản xuất cho giai đoạn tiếp theo.
15/41
Sơ đồ : Mô hình tiêu thụ sản phẩm
Nghiên cứu thị trường:
Nghiên cứu thị trường là công việc đầu tiên và cần thiết đối với mỗi doanh nghiệp trong
mọi hoạt động sản xuất kinh doanh. Nghiên cứu thị trường nhằm trả lời các câu hỏi: sản
xuất những sản phẩm gì? sản xuất như thế nào? sản phẩm bán cho ai?… Mục đích của
việc nghiên cứu thị trường là nghiên cứu xác định khả năng tiêu thụ những loại hàng
hoá (hoặc nhóm hàng) trên một địa bàn nhất định trong một khoảng thời gian nhất định.
Trên cơ sở đó nâng cao khả năng cung cấp để thoả mãn tốt nhất nhu cầu của thị trường.
Nghiên cứu thị trường có ý nghĩa vô cùng quan trọng, vì đây là nhân tố ảnh hưởng trực
tiếp đến khối lượng, giá bán, mạng lưới và hiệu quả của công tác tiêu thụ. Việc nghiên
cứu còn giúp doanh nghiệp biết được xu hướng, sự biến đổi nhu cầu của khách hàng,
sự phản ứng của họ đối với sản phẩm của doanh nghiệp, thấy được các biến động của
thu nhập và giá cả, từ đó có các biện pháp điều chỉnh cho phù hợp. Khi nghiên cứu thị
trường sản phẩm, doanh nghiệp phải giải đáp được các yêu cầu:
- Đâu là thị trường có triển vọng đối với sản phẩm của doanh nghiệp?
- Khả năng tiêu thụ sản phẩm của doanh nghiệp trên thị trường đó ra sao?
- Doanh nghiệp cần phải xử lý những biện pháp gì có liên quan và có thể sử dụng những
biện pháp nào để tăng khối lượng sản phẩm tiêu thụ?
- Những mặt hàng nào, thị trường nào có khả năng tiêu thụ với khối lượng lớn phù hợp
với năng lực và đặc điểm sản xuất của doanh nghiệp?
16/41
- Với mức giá nào thì khả năng chấp nhận của thị trường là lớn nhất trong từng thời kỳ.
- Yêu cầu chủ yếu của thị trường về mẫu mã, bao gói, phương thức thanh toán, phương
thức phục vụ.
- Tổ chức mạng lưới tiêu thụ và phương thức phân phối sản phẩm.
Nghiên cứu cần về một loại sản phẩm là phạm trù phản ánh một bộ phận nhu cầu có khả
năng thanh toán của thị trường về sản phẩm đó. Phải giải thích được sự thay đổi của cầu,
do những nhân tố nào sự ưu thích, thu nhập và mức sống của người tiêu dùng.
Nghiên cứu cung để hiểu rõ về các đối thủ cạnh tranh, xác định được số lượng đối thủ
cạnh tranh, phân tích các nhân tố có ý nghĩa đối với các chính sách tiêu thụ, chương
trình sản xuất, chính sách giá cả và các hoạt động khác của đối thủ cạnh tranh.
Nghiên cứu mạng lưới tiêu thụ cần phải chỉ rõ các ưu điểm, nhược điểm của từng kênh
tiêu thụ của doanh nghiệp và các đối thủ cạnh tranh, phân tích được các nhân tố ảnh
hưởng đến kết quả tiêu thụ.
Trên cơ sở điều tra nghiên cứu thị trường doanh nghiệp tiến hành lựac họn sản phẩm
thích ứng với nhu cầu của thị trường. Đây là nội dung quan trọng quyết định hiệu quả
của hoạt động tiêu thụ, vì trong nền kinh tế thị trường các doanh nghiệp muốn tồn tại và
phát triển thì phải sản xuất kinh doanh dựa trên cái mà thị trường cần chứ không phải
dựa vào cái mà doanh nghiệp sẵn có. Từ những thông tin và xử lý thông tin do thị trường
đem lại doanh nghiệp tiến hành lựa chọn sản phẩm thích ứng, thực hiện đơn đặt hàng và
tiến hành tổ chức sản xuất, tiêu thụ.
Lập kế hoạch tiêu thụ sản phẩm
Xây dựng kế hoạch tiêu thụ là cơ sở quan trọng đảm bảo cho quá trình sản xuất kinh
doanh của doanh nghiệp tiến hành nhịp nhàng, liên tục theo kế hoạch đã định. Kế hoạch
tiêu thụ sản phẩm là căn cứ để xây dựng kế hoạch hậu cần vật tư và các bộ phận khác
của kế hoạch sản xuất - kỹ thuật - tài chính doanh nghiệp… Kế hoạch tiêu thụ sản phẩm
phản ánh được các nội dung cơ bản như: khối lượng tiêu thụ sản phẩm về hiện vật và giá
trị có phân theo hình thức tiêu thụ, cơ cấu sản phẩm và cơ cấu thị trường tiêu thụ. Trong
xây dựng kế hoạch tiêu thụ sản phẩm, doanh nghiệp có thể sử dụng các phương pháp
như phương pháp cân đối, phương pháp quan hệ động và phương pháp tỷ lệ cố định. Để
xây dựng kế hoạch tiêu thụ cần dựa vào các căn cứ cụ thể: doanh thu bán hàng ở các kỳ
trước, các kết quả nghiên cứu thị trường, năng lực sản xuất, chi phí sản xuất kinh doanh
tiêu thụ của doanh nghiệp, các hợp đồng đã ký hoặc dự kiến ký. Trong kế hoạch tiêu thụ
phải lần lượt lập được các kế hoạch như: kế hoạch bán hàng, marketing, quảng cáo, chi
phí cho tiêu thụ, …
17/41
Chuẩn bị hàng hoá để xuất bán
Chuẩn bị hàng hoá để xuất bán cho khách hàng là hoạt động tiếp tục sản xuất kinh doanh
trong khâu lưu thông. Muốn cho quá trình lưu thông hàng hoá được liên tục, không bị
gián đoạn thì các doanh nghiệp phải chú trọng đến các nghiệp vụ như: tiếp nhận, phân
loại, lên nhãn hiệu sản phẩm, bao gói, sắp xếp hàng hoá ở kho, bảo quản và ghép đồng
bộ để xuất bán cho khách hàng. Đối với các hoạt động này thì doanh nghiệp cần phải lập
kế hoạch từ trước, tiếp nhận đầy đủ về số lượng và chất lượng hàng hoá từ các nguồn
nhập kho (từ các phân xưởng, tổ đội sản xuất của doanh nghiệp) theo đúng mặt hàng qui
cách, chủng loại hàng hoá thông thường, kho hàng hoá của doanh nghiệp đặt gần nơi
sản xuất của doanh nghiệp, nếu kho hàng đặt xa nơi sản xuất thì phải tổ chức tốt việc
tiếp nhận hàng hoá bảo đảm kịp thời, nhanh chóng, góp phần giải phóng nhanh phương
tiện vận tải, bốc xếp, an toàn sản phẩm, tiết kiệm chi phí lưu thông.
Lựa chọn các hình thức tiêu thụ sản phẩm
Trong nền kinh tế thị trường, việc tiêu thụ sản phẩm được thực hiện bằng nhiều kênh
khác nhau, theo đó các sản phẩm được bán và vận động từ các doanh nghiệp sản xuất
kinh doanh đến tận tay các hộ tiêu dùng cuối cùng. Để hoạt động tiêu thụ có hiệu quả
cao cần phải lựa chọn kênh tiêu thụ sản phẩm một cách hợp lý trên cơ sở tính đến các
yếu tố như đặc điểm sản phẩm, các điều kiện vận chuyển, bảo quản, sử dụng…
Căn cứ vào mối quan hệ giữa doanh nghiệp với người tiêu dùng cuối cùng, có 2 hình
thức tiêu thụ trực tiếp và gián tiếp.
Kênh tiêu thụ trực tiếp là hình thức doanh nghiệp sản xuất bán thẳng sản phẩm của mình
cho người tiêu dùng cuối cùng không qua các khâu trung gian. Với hình thức này có
thể giảm được chi phí lưu thông, thời gian sản phẩm tới tay người tiêu dùng nhanh hơn,
các doanh nghiệp có điều kiện tiếp xúc trực tiếp với người tiêu dùng, hiểu biết rõ nhu
cầu của khách hàng và tình hình giá cả từ đó tạo điều kiện thuận lợi để gây uy tín và
thanh thế cho doanh nghiệp. Nhưng nó cũng gặp phải nhược điểm là doanh nghiệp phải
thường xuyên tiếp xúc với nhiều bạn hàng, phải dành nhiều công sức, thời gian vào quá
trình tiêu thụ, nhiều khi làm tốc độ chu chuyển của vốn lưu động chậm hơn…
18/41
Sơ đồ: Tiêu thụ trực tiếp
Kênh tiêu thụ gián tiếp là hình thức mà doanh nghiệp xuất bán sản phẩm của mình cho
người tiêu dùng cuối cùng có qua khâu trung gian bao gồm: người bán buôn, bán lẻ, đại
lý…. sự tham gia nhiều hay ít của người trung gian trong quá trình tiêu thụ sẽ làm cho
kênh tiêu thụ dài hay ngắn khác nhau. Với hình thức tiêu thụ này các doanh nghiệp có
thể tiêu thụ được một khối lượng lớn hàng hoá trong thời gian ngắn nhất, từ đó thu hồi
vốn nhanh, tiết kiệm chi phí bảo quản hao hụt… Tuy nhiên hình thức này làm cho thời
gian lưu thông hàng hoá dài hơn, tăng chi phí tiêu thụ và doanh nghiệp khó có thể kiểm
soát được các khâu trung gian…
Sơ đồ : Tiêu thụ gián tiếp
Việc áp dụng hình thức tiêu thụ này hay hình thức tiêu thụ khác phần lớn do đặc điểm
của sản phẩm quyết định. Mỗi hình thức tiêu thụ sản phẩm có ưu nhược điểm nhất định,
nhiệm vụ của phòng kinh doanh là phải lựa chọn hợp lý các hình thức tiêu thụ sản phẩm
cho phù hợp với tình hình thực tế của doanh nghiệp.
Tổ chức các hoạt động xúc tiến bán hàng
Xúc tiến là hoạt động thông tin marketing tới khách hàng tiềm năng của doanh nghiệp
gồm các thông tin: về doanh nghiệp, về sản phẩm, về phương thức phục vụ và những lợi
ích mà khách hàng sẽ thu được khi mua sản phẩm của doanh nghiệp, cũng như những
thông tin phản hồi từ phía khách hàng, qua đó để doanh nghiệp tìm ra cách thoả mãn
tốt nhất nhu cầu của khách hàng. Trong hoạt động xúc tiến bán hàng là toàn bộ các hoạt
động nhằm tìm kiếm và thúc đẩy cơ hội bán hàng trong hoạt động tiêu thụ sản phẩm.
Xúc tiến bán hàng chứa đựng trong đó các hình thức, cách thức và những biện pháp
nhằm đẩy mạnh khả năng bán ra của doanh nghiệp. Xúc tiến bán hàng có ý nghĩa quan
trọng trong việc chiếm lĩnh thị trường và nâng cao sức cạnh tranh của hàng hoá trên
19/41
thương trường, nhờ đó quá trình tiêu thụ sản phẩm của doanh nghiệp được đẩy mạnh cả
về số lượng và thời gian. Yểm trợ là các hoạt động nhằm hỗ trợ, thúc đẩy, tạo điều kiện
thuận lợi để thực hiện tốt hoạt động tiêu thụ ở doanh nghiệp. Những nội dung chủ yếu
của hoạt động xúc tiến, yểm trợ bán hàng phải kể đến là: Quảng cáo, chào hàng, khuyến
mại, tham gia hội chợ, triển lãm…
Quảng cáo
Quảng cáo là biện pháp truyền bá thông tin của các doanh nghiệp về hàng hoá, dịch vụ
mà doanh nghiệp kinh doanh. Mục đích của quảng cao là đẩy mạnh tiêu thụ hàng hoá và
dịch vụ qua đó thu lợi nhuận.
Mục tiêu của quảng cáo: giúp tăng số lượng hàng tiêu thụ trên thị trường truyền thống,
mở ra thị trường mới, giới thiệu sản phẩm mới. Mặt khác nó còn giúp xây dựng và củng
cố uy tín của sản phẩm (nhãn hiệu), doanh nghiệp.
Phương tiện quảng cáo: qua phương tiện thông tin đại chúng báo chí, truyền hình, truyền
thanh, quảng cáo ngoài trời (biểu ngữ trên đường, pano- aphich, phương tiện vận tải…),
băng đĩa, internet…
- Quảng cáo trực tiếp: Catalo gửi qua đường bưu điện, phát tờ rơi.
- Quảng cáo tại nơi bán hàng: loại quảng cáo này hướng vào loại khách hàng khi họ ở
những vị trí gần quầy cửa hàng, thu hút sự chú ý của khách hàng, làm cho khách hàng
phấn khích ở mức độ nhất định, tiến về chỗ bán hàng, tìm hiểu sản phẩm từ đó cộng
thêm một số tác động của xúc tiến khác thúc đẩy hành vi mua của khách hàng.
Yêu cầu của thông điệp quảng cáo: phải có độ biểu cảm; phù hợp với nội dung quảng
cáo; ngôn ngữ và hình ảnh phải rõ ràng, dễ hiểu, phù hợp với đại quần chúng; thông tin
phải đảm bảo độ tin cậy; dung lượng quảng cáo phải cao…
Khuyến mại
Khuyến mại là hành vi thương mại của thương nhân nhằm xúc tiến việc bán hàng, cung
ứng dịch vụ trong phạm vi kinh doanh của thương nhân bằng cách giành những lợi ích
nhất định cho khách hàng.
Khuyến mại là hình thức xúc tiến bổ sung cho quảng cáo, thông thường nó được sử dụng
cho những hàng hoá mới tung ra thị trường, áp lực cạnh tranh cao đặc biệt là các sản
phẩm có đơn giá thấp vừa đem lại doanh thu cao. Thông qua các kỹ thuật khuyến mại,
doanh nghiệp sẽ thu hút thêm những người dùng thử mới, kích thích những người mua
trung thành kể cả những người thỉnh thoảng mới mua.
Các hình thức khuyến mại:
20/41
- Giảm giá
- Phân phát mẫu hàng miễn phí: doanh nghiệp sẽ cho nhân viên tiếp thị tới tận nhà khách
hàng mục tiêu hoặc gửi qua bưu điện hoặc phát tại cửa hàng kèm theo những sản phẩm
khác.
- Phiếu mua hàng: là một loại giấy xác nhận người cầm giấy sẽ được hưởng ưu đãi khi
mua sản xuất của doanh nghiệp.
- Trả lại một phần tiền: người mua hàng sẽ gửi cho người bán 1 chứng từ chứng tỏ đã
mua hàng của doanh nghiệp và sẽ hoàn trả lại một phần tiền qua bưu điện.
Ngoài ra còn có các biện pháp khuyến mại khác như: thương vụ có triết giá nhỏ, thi -
cá cược - trò chơi, phần thưởng cho các khách hàng thường xuyên, dùng thử hàng hoá
khôngphải trả tiền, tặng vật phẩm mang biểu tượng quảng cáo, chiết giá, thêm hàng khi
khách hàng mua với số lượng hàng nhất định…
Hội chợ, triển lãm
Triển lãm là hoạt động xúc tiến thương mại thông qua việc trưng bày hàng hoá, tài liệu
về hàng hoá để giới thiệu, quảng cáo nhằm mở rộng và thúc đẩy việc tiêu thụ hàng hoá.
Hội chợ thương mại là hoạt động xúc tiến thương mại tập trung trong một thời gian và
một địa điểm nhất định, trong đó tổ chức, cá nhân sản xuất kinh doanh được trưng bày
hàng hoá của mình nhằm mục đích tiếp thị, ký kết hợp đồng mua bán.
Khi tham gia hội chợ, triển lãm giúp các doanh nghiệp góp phần thực hiện chiến lược
marketing của mình. Tạo cơ hội để các doanh nghiệp tiếp cận khách hàng mục tiêu,
trình bày giới thiệu sản phẩm với khách hàng, củng cố danh tiếng và hình ảnh của doanh
nghiệp. Qua hội chợ triển lãm doanh nghiệp có cơ hội để thu thập thông tin cần thiết về
nhu cầu của khách hàng, về đối thủ cạnh tranh, tạo cơ hội để doanh nghiệp mở rộng thị
trường, có cơ hội nhận được sự tài trợ và ủng hộ của tổ chức quốc tế…
Bán hàng trực tiếp
Bán hàng là hành vi thương mại của thương nhân, là sự giao tiếp trực tiếp giữa người
bán hàng với khách hàng tiềm năng. Trong đó người bán hàng có nghĩa vụ giao hàng,
chuyển quyền sở hữu cho người mua hàng và nhận tiền.
21/41
Bán hàng là khâu trung gian liên lạc thông tin giữa doanh nghiệp với khách hàng, thông
qua hoạt động mua bán, nhằm kinh doanh nắm bắt nhu cầu tốt hơn đồng thời người tiêu
dùng sẽ hiểu hơn về nhà sản xuất kinh doanh. Hoạt động bán hàng thúc đẩy sự tương
tác giữa người bán và người mua để dẫn tới một giải pháp có hiệu quả và tiết kiệm thời
gian cho cả người mua và người bán. Bán hàng có vai trò quan trọng trong việc khuyếch
trương hàng hoá cho doanh nghiệp, thông qua bán hàng nhân viên bán hàng sẽ tạo nên
sự khác biệt của sản phẩm.
22/41
Quan hệ công chúng và các hoạt động xúc tiến khác
Quan hệ công chúng là những quan hệ với quần chúng nhằm tuyên truyền tin tức tới
dân chúng khác nhau ở trong và ngoài nước như: nói chuyện, tuyên truyền, đóng góp từ
thiện, tham gia mua đấu giá…
Các hoạt động khuếch trương khác có thể như: hoạt động tài trợ, hoạt động họp báo, tạp
chí của công ty.
Thông thường các doanh nghiệp luôn phải tìm cách thu hút sự ủng hộ của công chúng.
Bộ phận làm nhiệm vụ quan hệ với công chúng phải luôn theo dõi thái độ của công
chúng, tìm cách giao tiếp, thông tin với công chúng để tạo ra uy tín cho doanh nghiệp.
Khi có dư luận xấu, bộ phận này có nhiệm vụ đứng ra dàn xếp, xoá bỏ dư luận xấu. Làm
tốt những công tác này giúp cho doanh nghiệp có khả năng được mục tiêu xuác tiến đề
ra.
Tổ chức hoạt động bán hàng
Bán hàng là một trong những khâu cuối cùng của hoạt động kinh doanh. Hoạt động bán
hàng là hoạt động mang tính nghệ thuật, tác động đến tâm lý người mua nhằm đạt mục
tiêu bán được hàng. Doanh nghiệp phải đặc biệt quan tâm đến quá trình tác động vào
tâm lý của khách hàng, thường thì tâm lý trải qua 4 giai đoạn: sự chú ý → quan tâm
hứng thú → nguyện vọng mua → quyết định mua. Nghệ thuật của người bán hàng là
làm chủ quá trình bán hàng về tâm lý, để điều khiển có ý thức quá trình bán hàng.
Để bán được nhiều hàng doanh nghiệp phải đáp ứng được các yêu cầu của khách hàng
như: chất lượng, mẫu mã, giá cả… và phải biết lựa chọn các hình thức bán hàng cho phù
hợp.
Phân tích hoạt động tiêu thụ sản phẩm
Sau mỗi chu kỳ kinh doanh, doanh nghiệp cần phải phân tích, đánh giá hoạt động tiêu
thụ sản phẩm nhằm xem xét khả năng mở rộng hay thu hẹp thị trường tiêu thụ, hiệu
quả hoạt động sản xuất kinh doanh, các nguyên nhân ảnh hưởng đến kết quả tiêu thụ…
nhằm kịp thời có các biện pháp thích hợp để thúc đẩy quá trình tiêu thụ sản phẩm. Đánh
giá hiệu quả hoạt động tiêu thụ có thể xem xét trên các khía cạnh: tình hình tiêu thụ sản
phẩm theo khối lượng, mặt hàng, giá trị, thị trường và giá cả các mặt hàng tiêu thụ.
23/41
Những nhân tố ảnh hưởng tới hoạt động
kinh doanh thực phẩm của doanh nghiệp
Những nhân tố ảnh hưởng tới hoạt động kinh doanh thực phẩm của doanh
nghiệp
Những nhân tố thuộc môi trường kinh doanh
Các yếu tố thuộc môi trường kinh doanh là các yếu tố khách quan mà doanh nghiệp
không thể kiểm soát được. Môi trường kinh doanh tác động liên tục tới hoạt động của
doanh nghiệp theo những xu hướng khác nhau, vừa tạo ra cơ hội vừa hạn chế khả năng
thực hiện mục tiêu kinh doanh của doanh nghiệp.
Môi trường văn hóa xã hội
Yếu tố văn hóa - xã hội luôn bao quanh doanh nghiệp và khách hàng, có ảnh hưởng lớn
tới hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, các yếu tố trong nhóm này tác động mạnh
đến qui mô và cơ cấu của thị trường.
Dân số quyết định qui mô của nhu cầu và tính đa dạng của nhu cầu. Tiêu thức này ảnh
hưởng đến dung lượng thị trường có thể đạt đến, thông thường thì dân số càng lớn thì
qui mô thị trường càng lớn, nhu cầu về tiêu dùng tăng, khối lượng tiêu thụ một số sản
phẩm nào đó lớn, khả năng đảm bảo hiệu quả kinh doanh càng cao, cơ hội kinh doanh
lớn… và ngược lại.
Xu hướng vận động của dân số, tỷ lệ sinh tử, độ tuổi trung bình và các lớp người già, trẻ
ảnh hưởng đến nhu cầu và việc hình thành các dòng sản phẩm thỏa mãn nó trên dòng thị
trường các yêu cầu và cách thức đáp ứng của doanh nghiệp.
Hộ gia đình và xu hướng vận động, độ lớn của một gia đình có ảnh hưởng đến số lượng,
qui cách sản phẩm cụ thể… khi sản phẩm đó đáp ứng nhu cầu chung của cả gia đình.
Sự dịch chuyển dân và xu hướng vận động ảnh hưởng đến sự xuất hiện cơ hội mới hoặc
suy tàn cơ hội hiện tại của doanh nghiệp. Thu nhập và phân bố thu nhập của người tiêu
thụ ảnh hưởng đến sự lựa chọn sản phẩm và chất lượng cần đáp ứng của sản phẩm. Còn
nghề nghiệp của tầng lớp xã hội tức là vị trí của người tiêu thụ trong xã hội có ảnh hưởng
lớn đến quyết định và cách thức ứng xử trên thị trường, họ sẽ đòi hỏi được thỏa mãn nhu
cầu theo địa vị xã hội.
24/41
Còn yếu tố dân tộc, chủng tộc, sắc tộc, tôn giáo, nền văn hóa phản ánh quan điểm và
cách thức sử dụng sản phẩm, vừa yêu cầu đáp ứng tính riêng biệt về nhu cầu vừa tạo ra
cơ hội đa dạng hóa khả năng đáp ứng của doanh nghiệp cho nhu cầu.
Môi trường chính trị pháp luật
Các yếu tố thuộc chính trị, pháp luật chi phối mạnh mẽ sự hình thành cơ hội kinh doanh
và khả năng thực hiện mục tiêu của bất kỳ doanh nghiệp nào. Sự ổn định của môi trường
chính trị được xác định là một trong những tiền đề quan trọng cho hoạt động kinh doanh
của doanh nghiệp. Hệ thống chính sách, luật pháp hoàn thiện, nền chính trị ổn định tạo
điều kiện cho các doanh nghiệp cạnh tranh bình đẳng trên thị trường, hạn chế tệ nạn vi
phạm pháp luật như buôn lậu, trốn thuế, hàng giả. Mức độ hoàn thiện, sự thay đổi và
thực thi pháp luật trong nền kinh tế có ảnh hưởng lớn đến việc hoạch định và tổ chức
thực hiện chiến lược kinh doanh của doanh nghiệp.
Môi trường kinh tế và công nghệ
Các yếu tố thuộc môi trường này qui định cách thức doanh nghiệp và toàn bộ nền kinh
tế trong việc sử dụng tiềm năng của mình và qua đó cũng tạo ra cơ hội kinh doanh cho
từng doanh nghiệp. Xu hướng vận động và bất cứ thay đổi nào của các yếu tố thuộc môi
trường này đều tạo ra hoặc thu hẹp cơ hội kinh doanh của doanh nghiệp ở những mức
độ khác nhau và thậm chí dẫn đến yêu cầu thay đổi mục tiêu và chiến lược của doanh
nghiệp.
Tiềm năng của nền kinh tế phản ảnh các nguồn lực có thể huy động và chất lượng của
nó: tài nguyên, con người, vị trí địa lý, dự trữ quốc gia… liên quan đến các định hướng
và tính bền vững của cơ hội chiến lược của doanh nghiệp.
Tốc độ tăng trưởng kinh tế tác động thay đổi vị trí, vai trò và xu hướng phát triển của
ngành kinh tế của nền kinh tế quốc dân kéo theo khả năng mở rộng, thu hẹp qui mô
doanh nghiệp. Sự thay đổi về cơ cấu kinh tế liên quan trực tiếp hoặc gián tiếp đến khả
năng tăng trưởng, mở rộng của từng doanh nghiệp.
Lạm phát và khả năng điều khiển lạm phát ảnh hưởng đến hiệu quả thực, thu nhập, tĩch
lũy, kích thích hoặc kìm hãm tăng trưởng, xu hướng đầu tư, xu hướng tiêu dùng… Hoạt
động ngoại thương, xu hướng mở, đóng của nền kinh tế tác động đến cơ hội phát triển
của doanh nghiệp, các điều kiện cạnh tranh, khả năng sử dụng ưu thế quốc gia và thế
giới về công nghệ, nguồn vốn, hàng hóa, mở rộng qui mô hoạt động … tỷ giá hối đoái
và khả năng chuyển đổi của đồng tiền quốc gia ảnh hưởng đến khả năng thành công của
một chiến lược và từng thương vụ cụ thể.
Trình độ trang thiết bị công nghệ gồm các điều kiện phục vụ sản xuất dk một mặt nó tạo
cơ sở cho kinh doanh thuận lợi khi khai thác cơ sở hạ tầng sẵn có của nền kinh tế hoặc
25/41
cung cấp sản phẩm để phát triển cơ sở hạ tầng. Mặt khác nó lại hạn chế khả năng đẩy
mạnh phát triển kinh doanh ảnh hưởng đến điều kiện lẫn cơ hội kinh doanh của doanh
nghiệp. Nó còn ảnh hưởng trực tiếp đến yêu cầu đổi mới trang thiết bị, khả năng sản xuất
sản phẩm với các cấp chất lượng, năng suất lao động, khả năng cạnh tranh, lựa chọn và
cung cấp công nghệ, thiết bị…
Môi trường cạnh tranh
Cạnh tranh được xác định là động lực thúc đẩy sự phát triển của nền kinh tế thị trường
với nguyên tắc ai hoàn thiện hơn, thỏa mãn nhu cầu tốt hơn và hiệu quả hơn người đó sẽ
thắng, sẽ tồn tại và phát triển. Cạnh tranh vừa mở ra các cơ hội để nd kiến tạo hoạt động
của mình vừa yêu cầu các doanh nghiệp phải vươn lên phía trước vượt qua đối thủ.
Điều kiện chung về cạnh tranh trên thị trường: Các quan điểm khuyến khích hay hạn chế
cạnh tranh, vai trò và khả năng của doanh nghiệp trong việc điều khiển cạnh tranh, các
qui định về cạnh tranh và ảnh hưởng của nó trong thực tiễn kinh doanh… có liên quan
đến quá trình đánh gia cơ hội kinh doanh và lựa chọn giải pháp cạnh tranh.
Số lượng đối thủ cạnh tranh gồm cả các đối thụ cạnh tranh sơ cấp (cùng tiêu thụ các
sản phẩm đồng nhất) và các đối thủ cạnh tranh thứ cấp (sản xuất tiêu thụ những sản
phẩm có khả năng thay thế) là cơ sở để xác định mức độ khốc liệt của cạnh tranh trên thị
trường thông qua đánh giá trạng thái cạnh tranh của thị trường mà doanh nghiệp tham
gia. Trong cạnh tranh có 4 trạng thái: trạng thái thị trường cạnh tranh thuần túy; hỗn tạp;
độc quyền và trạng thái thị trường độc quyền.
Khi nghiên cứu về cạnh tranh phải nắm được ưu nhược điểm của đối thủ, nắm bắt được
quy mô, thị phần kiểm soát, tiềm lực tài chính, kỹ thuật-công nghệ, tổ chức-quản lý, lợi
thế cạnh tranh, uy tín hình ảnh của doanh nghiệp…qua đó xác định được vị thế của đối
thủ và doanh nghiệp trên thị trường.
Môi trường địa lý sinh thái
Vị trí địa lý ảnh hưởng đến khả năng đáp ứng nhu cầu tiêu dùng của khách hàng, khoảng
cách (không gian) khi liên hệ với các nhóm khách hàng mà doanh nghiệp có khả năng
trinh phục, liên quan đến sự vận chuyển ảnh hưởng trực tiếp tới chi phí vận chuyển,
thời gian cung cấp, khả năng cạnh tranh… Khoảng cách tới cách tới các nguồn cung cấp
hàng hoá, lao động, nguyên vật liệu cho doanh nghiệp, liên quan trực tiếp tới chi phí đầu
vào và giá thành trên một đơn vị sản phẩm. Địa điểm thuận lợi cho việc giao dịch, mua
bán của khách hàng: nơi tập trung đông dân cư, trung tâm mua bán, trung tâm sản xuất
nông nghiệp, công nghiệp,… liên quan đến hình thức bán, xây dựng kênh phân phối.
26/41
Khí hậu, thời tiết, tính chất mùa vụ ảnh hưởng tới chu kỳ sản xuất, tiêu dùng trong khu
vực, đến nhu cầu về các loại sản phẩm được tiêu dùng của khách hàng. Liên quan đến
khâu bảo quản dự trữ, vận chuyển… đều ảnh hưởng tới chi phí.
27/41
Những nhân tố thuộc về doanh nghiệp
Những nhân tố thuộc về doanh nghiệp
Tiềm lực phản ánh những nhân tố mang tính chất chủ quan và dường như có thể kiểm
soát được ở một mức độ nào đó mà doanh nghiệp có thể sử dụng để khai thác cơ hội
kinh doanh và thu lợi nhuận. Tiềm lực của doanh nghiệp không phải là bất biến, có thể
phát triển theo hướng mạnh lên hay yếu đi, có thể thay đổi toàn bộ hay một vài bộ phận.
Đánh giá tiềm lực hiện tại đẻ lựa chọn cơ hội hấp dẫn và tổ chức khai thác đưa vào chiến
lược kinh doanh của doanh nghiệp. Xây dựng và tổ chức thực hiện chiến lược phát triển,
tiềm lực tiềm năng của doanh nghiệp để đón bắt cơ hội mới và thích ứng với sự biến
động theo hướng đi lên của môi trường, đảm bảo thế lực, an toàn và phát triển trong
kinh doanh.
Tiềm lực tài chính
Là một yếu tố tổng hợp phản ánh sức mạnh của doanh nghiệp thông qua khối lượng
nguồn vốn mà doanh nghiệp có thể huy động vào kinh doanh, khả năng phân phối (đầu
tư) có hiệu quả các nguồn vốn, khả năng quản lý có hiệu quả các nguồn vốn trong kinh
doanh được biểu hiện qua các chỉ tiêu:
+ Vốn chủ sở hữu (vốn tự có): số tiền của chủ sở hữu hoặc của các cổ đông tham gia
góp vốn vào doanh nghiệp là yếu tố chủ chốt quyêt định đến qui mô của doanh nghiệp
và tầm cỡ cơ hội có thể khai thác.
+ Vốn huy động: vốn vay, trái phiếu doanh nghiệp… phản ánh khả năng, thu hút các
nguồn đầu tư trong nền kinh tế vào hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, yếu tố này
tham gia vào việc hình thành và khai thác cơ hội của doanh nghiệp.
+ Tỷ lệ tái đầu tư về lợi nhuận: Tỷ lệ được tính theo % từ nguồn lợi nhuận thu được
dành cho bổ sung nguồn vốn tự có, phản ánh khả năng tăng trưởng vốn, quy mô kinh
doanh.
+ Giá cổ phiếu của doanh nghiệp trên thị trường: phản ánh xu thế phát triển của doanh
nghiệp và sự đánh giá của thị trường về sức mạnh của doanh nghiệp trong kinh doanh.
+ Khả năng trả nợ ngắn hạn và dài hạn: gồm các khả năng trả lãi cho nợ dài hạn và trả
vốn trong nợ dài hạn, nguồn tiền mặt và khả năng nhanh chóng chuyển thành tiền mặt để
thanh toán các khoản nợ ngắn hạn… thường thể hiện qua vòng quay của vốn lưu động,
vòng quay dự trữ hàng hoá, tài khoản thu chi… phản ánh mức độ "lành mạnh" của tài
chính doanh nghiệp, có thể trực tiếp liên quan đến phá sản hoặc vỡ nợ.
28/41
+ Các tỷ lệ về khả năng sinh lời: phản ánh hiệu quả đầu tư và kinh doanh của doanh
nghiệp. Thể hiện qua các chỉ tiêu cơ bản như: phần % lợi nhuận trên doanh thu (lượng
lợi nhuận thu được trên 1 đơn vị tiền tệ doanh thu), tỷ suất thu hồi đầu tư (phần % về số
lợi nhuận thu được trên tổng số vốn đầu tư)…
Tiềm lực con người
Tiềm lực con người là một trong các yếu tố đảm bảo thành công trong kinh doanh. Tiềm
lực con người của doanh nghiệp thể hiện khả năng ở tất cả các cán bộ công nhân viên
với năng lực thực sự của họ mới lựa chọn đúng cơ hội và sử dụng sức mạnh khác mà
họ đã và sẽ có: vốn, tài sản, kỹ thuật, công nghệ… một cách có hiệu quả để khai thác cơ
hội.
Lực lượng lao động có khả năng, có năng suất, có tinh thần tự giác, sáng tạo: liên quan
đến khả năng tập hợp và đào tạo một đội ngũ những người lao động có khả năng đáp
ứng cao yêu cầu kinh doanh của doanh nghiệp. Một doanh nghiệp có sức mạnh về con
người là doanh nghiệp có khả năng (và thực hiện) lựa chọn đúng và đủ số lượng lao
động cho từng vị trí công tác và sắp xếp đúng người trong một hệ thống thống nhất theo
yêu cầu của công việc. Chiến lược con người và phát triển nguồn nhân lực liên quan đến
sức mạnh tiềm năng của doanh nghiệp. Chiến lược con người và phát triển nguồn nhân
lực cho thấy khả năng chủ động phát triển sức mạnh con người của doanh nghiệp nhằm
đáp ứng yêu cầu tăng trưởng và đổi mới thường xuyên, cạnh tranh và thích nghi của nền
kinh tế thị trường. Chiến lược này còn có khả năng thu hút nguồn lao động xã hội nhằm
kiến tạo cho doanh nghiệp nguồn đội ngũ lao động trung thành và luôn hướng về doanh
nghiệp, có khả năng chuyên môn cao, văn hoá giỏi, năng suất và sáng tạo, có sức khoẻ,
có khả năng hoà nhập và đoàn kết tốt.
Tiềm lực vô hình của doanh nghiệp
Tiềm lực vô hình tạo nên sức mạnh của doanh nghiệp trong hoạt động sản xuất kinh
doanh thông qua "bán hàng gián tiếp của doanh nghiệp". Sức mạnh thể hiện ở khả năng
ảnh hưởng và tác động đến sự lựa chọn, chấp nhận và quyết định mua hàng của khách
hàng.
Hình ảnh và uy tín của doanh nghiệp trên thương trường: một hình ảnh tốt về doanh
nghiệp liên quan đến hàng hoá, dịch vụ, chất lượng sản phẩm, giá cả… là cơ sở tạo ra
sự quan tâm của khách hàng đến sản phẩm của doanh nghiệp. Sự cảm tình tin cậy, hiểu
biết đầy đủ về doanh nghiệp có thể giúp đỡ nhiều đến công việc quyết định có tính ưu
tiên khi mua hàng của khách hàng. Điều này cho phép doanh nghiệp dễ bán được sản
phẩm của mình hơn.
Mức độ nổi tiếng của nhãn hiệu hàng hoá liên quan đến một loại sản phẩm với nhãn hiệu
cụ thể của doanh nghiệp có ảnh hưởng rất lớn đến quá trình mua sắm và ra quyết định
29/41
của khách hàng. Uy tín và mối quan hệ xã hội của lãnh đạo có ảnh hưởng lớn đến các
giao dịch thương mại, đặc biệt trong hình thức bán hàng ở "cấp cao nhất", trong các hợp
đồng lớn… mặt khác nó có thể tạo ra các bạn hàng, nhóm khách hàng trung thành với
doanh nghiệp.
Khả năng kiểm soát, chi phối, độ tin cậy của nguồn cung cấp hàng hoá và dự trữ
hợp lý hàng hoá của doanh nghiệp
Yếu tố này ảnh hưởng đến đầu vào của doanh nghiệp và tác động mạnh mẽ đến kết quả
thực hiện các chiến lược kinh doanh cũng như ở khâu cuối cùng là tiêu thụ sản phẩm.
Không kiểm soát, chi phối hoặc không đảm bảo được sự ổn định, chủ động về nguồn
cung cấp hàng hoá, nguyên nhiên vật liệu cho doanh nghiệp có thể phá vỡ hoặc làm
hỏng toàn bộ kế hoạch kinh doanh của doanh nghiệp.
Trình độ tổ chức, quản lý
Sự hoàn hảo của cấu trúc tổ chức, tính hiệu quả của hệ thống quản lý và công nghệ quản
lý sẽ tạo ra sự ổn định ăn khớp giữa các bộ phận, thúc đẩy hoạt động sản xuất kinh doanh
đi tới hiệu quả cao nhất. Một doanh nghiệp muốn đạt được mục tiêu của mình thì đồng
thời phải đạt đến một trình độ tổ chức, quản lý tương ứng. Khả năng tổ chức quản lý của
doanh nghiệp dựa trên quan điểm tổng hợp, bao quát tập trung vào những mối quan hệ
tương tác của tất cả các bộ phận tạo thành tổng thể tạo nên sức mạnh thật sự cho doanh
nghiệp.
Trình độ tiên tiến của trang thiết bị, công nghệ, bí quyết công nghệ của doanh
nghiệp
Ảnh hưởng trực tiếp tới năng suất, chi phí, giá thành và chất lượng hàng hoá được đưa
ra đáp ứng thị trường. Liên quan đến mức độ chất lượng thoả mãn nhu cầu, khả năng
cạnh tranh, lựa chọn cơ hội và các tác nghiệp khác của doanh nghiệp trên thị trường.
Vị trí địa lý, cơ sở vật chất - kỹ thuật của doanh nghiệp
Doanh nghiệp sở hữu và khai thác những địa điểm đẹp, hệ thống cửa hàng được thiết kế
sạch đẹp, khoa học sẽ tạo cơ hội lớn cho thúc đẩy tiêu thụ. Doanh nghiệp được trang bị
một hệ thống máy móc, công nghệ phục vụ cho sản xuất, quản lý sẽ là điều kiện để tăng
năng suất, chất lượng, hạ giá thành sản phẩm. Cơ sở vật chất-kỹ thuật phản ánh nguồn
tài sản cố định, doanh nghiệp có thể huy động vào kinh doanh (thiết bị, máy móc, nhà
xưởng, văn phòng…) phản ánh tiềm lực vật chất và liên quan đến quy mô, khả năng, lợi
thế kinh doanh của doanh nghiệp.
30/41
Mục tiêu, khả năng theo đuổi mục tiêu của ban lãnh đạo doanh nghiệp
Ban lãnh đạo giỏi sẽ đề ra, xây dựng được mục tiêu và biện pháp để thực hiện được mục
tiêu sao cho có hiệu quả nhất.
31/41
Hệ thống chỉ tiêu đánh giá hoạt động kinh
doanh hàng thực phẩm ở doanh nghiệp
Hệ thống chỉ tiêu đánh giá hoạt động kinh doanh hàng thực phẩm ở doanh
nghiệp
Kết quả
Trong nền kinh tế thị trường, doanh nghiệp không chỉ tạo ra kết quả (sản phẩm, dịch vụ)
mà còn phải bán được các kết quả đó và quá trình bán hàng với quá trình tạo ra kết quả
luôn không trùng nhau. Một doanh nghiệp ở một thời điểm nào đó có thể sản xuất được
rất nhiều sản phẩm song lại tiêu thụ được rất ít, như thế không thể nói doanh nghiệp đã
đạt kết quả (mục tiêu). Nếu xét trên góc độ giá trị, đại lượng kết quả của đại lượng sản
xuất kinh doanh không phải là đại lượng được đánh giá dễ dàng vì ngoài những nhân tố
ảnh hưởng trên, kết quả sản xuất kinh doanh còn chịu ảnh hưởng của thước đo giá trị -
đồng tiền với những thay đổi của nó trên thị trường.
Chỉ tiêu doanh thu
Doanh thu từ hoạt động kinh doanh là toàn bộ tiền bán sản phẩm, hàng hoá, cung ứng
dịch vụ trên thị trường sau khi đã trừ đi các khoản chiết khấu bán hàng, giảm giá hàng
bán, hàng bán bị trả lại, thu từ phần trợ giá của Nhà nước khi thực hiện việc cung cấp
các hàng hoá và dịch vụ theo yêu cầu của Nhà nước và các nguồn thu khác. Doanh thu
thực hiện trong năm từ hoạt động bán hàng và dịch vụ được xác định bằng cách nhân
giá bán với số lượng hàng hoá, khối lượng dịch vụ.
DT = ∑1
n Pi.Qi
DT: tổng doanh thu từ hoạt động bán hàng và dịch vụ
Pi: giá cả một đơn vị hàng hoá hay dịch vụ thứ i
Qi: Khối lượng hàng hoá hay dịch vụ thứ i bán ra trong kỳ
n: Loại hàng hoá hay dịch vụ
Doanh thu từ hoạt động kinh doanh là toàn bộ tiền bán sản phẩm hàng hoá, cung ứng
dịch vụ sau khi trừ đi cac khoản giảm trừ gồm các khoản phí thu thêm ngoài giá bán
(nếu có), trợ giá, phụ thu theo quy đinh của Nhà nước mà doanh nghiệp được hưởng đối
32/41
với hàng hoá, dịch vụ tiêu thụ trong kỳ, giá trị các sản phẩm đem biếu, tặng, trao đổi
hoặc tiêu dùng cho sản xuất trong nội bộ doanh nghiệp.
Còn doanh thu từ các hoạt động khác bao gồm các khoản thu nhập từ hoạt động đầu tư
tài chính và các hoạt động bất thường. Thu nhập từ hoạt động tài chính gồm các khoản
như: thu từ hoạt động liên doanh, liên kết, góp vốn cổ phần, lãi tiền gửi, lãi tiền cho vay,
tiền lãi trả chậm của việc bán hàng trả góp, tiền hỗ trợ lãi suất của nhà nước trong kinh
doanh nếu, thu từ hoạt động mua bán trái phiếu, cổ phiếu, tín phiếu…Thu từ hoạt động
bất thường gồm những khoản thu như: thu từ bán vật tư, hàng hoá, tài sản dôi thừa, bán
công cụ, dụng cụ đã phân bổ hết giá trị, bị hư hỏng hoặc không cần sử dụng, các khoản
phải trả nhưng không trả được từ nguyên nhân chủ nợ; thu từ chuyển nhượng, thanh lý
tài sản, nợ khó đòi đã xoá sổ nay thu hồi được, hoàn nhập khoản dự phòng giảm giá
hàng hoá tồn kho; thu do sử dụng hoặc chuyển quyền sở hữu trí tuệ, thu về tiền phạt do
vi phạm hợp đồng kinh tế, các khoản thuế phải nộp được Nhà nước giảm.
Chi phí kinh doanh
Chi phí của doanh nghiệp bao gồm chi phí hoạt động kinh doanh và chi phí cho hoạt
động khác. Chi phí hoạt động kinh doanh gồm các chi phí có liên quan đến hoạt động
sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp như chi phí nguyên nhiên vật liệu, khấu hao tài
sản cố định, tiền lương và các khoản chi phí có tính chất lương, các khoản trích nộp theo
quy định của Nhà nước như: bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, chi phí dịch vụ mua ngoài,
chi phí bằng tiền…
Chi phí từ hoạt động khác gồm chi phí hoạt động tài chính và chi phí cho hoạt động bất
thường. Chi cho hoạt động tài chính là các khoản đầu tư tài chính ra ngoài doanh nghiệp
nhằm mục đích sử dụng hợp lý các nguồn vốn, tăng thêm thu nhập và nâng cao hiệu quả
kinh doanh của doanh nghiệp như chi cho mua trái phiếu, tín phiếu, cổ phiếu, chi phí
cho thuê tài sản… Chi phí bất thường là các khoản chi không thường xuyên như chi phí
nhượng bán, thanh lý tài sản cố định, giá trị tài sản tổn thất thực tế sau khi đã giảm trừ
tiền đền bù của người phạm lỗi và tổ chức bảo hiểm, chi phí tiền phạt do vi phạm hợp
đồng kinh tế.
Trong đánh giá kết quả của sự hạ thấp chi phí người ta có thể sử dụng chỉ tiêu chi phí
trung bình. Chi phí này được xác định trên cơ sở của tổng chi phí với số lượng hàng hoá,
dịch vụ bán ra. Thường thì khối lượng hàng hoá dịch vụ bán ra càng nhiều thì chi phí
trung bình cho một đơn vị sản phẩm càng ít đi. Chi phí lưu thông được kế hoạch hoá
theo 4 chỉ tiêu cụ thể: tổng chi phí lưu thông, tỷ lệ phí lưu thông, mức giảm phí nhịp độ
giảm phí.
33/41
Tình hình hoàn thành kế hoạch sản xuất mặt hàng
Để đánh giá kết quả tình hình hoàn thành kế hoạch sản xuất mặt hàng trong kỳ của doanh
nghiệp, có thể dùng thước đo hiện vật. So sánh số lượng thực tế với số lượng kế hoạch
của từng loại sản phẩm chủ yếu, nếu thấy các loại sản phẩm đều đạt hay vượt kế hoạch
sản xuất sẽ kết luận doanh nghiệp đó hoàn thành kế hoạch mặt hàng. do giá trị sử dụng
các loại sản phẩm khác nhau, nên khi tính tỷ lệ hoàn thành kế hoạch sản xuất mặt hàng
không lấy số vượt kế hoạch sản xuất của loại sản phẩm này bù cho số hụt kế hoạch của
loại sản phẩm khác
34/41
Hiệu quả
Hiệu quả
Chỉ tiêu khái quát
Hiệu quả kinh doanh là một phạm trù kinh tế phản ánh trình độ sử dụng các nguồn nhân
tài, vật lực của doanh nghiệp để đạt được kết quả cao nhất trong quá trình kinh doanh
với chi phí thấp nhất. Để hiệu quả hoạt động kinh doanh cao thì khi sử dụng các yếu tố
cơ bản lao động, tư liệu lao động, đối tượng lao động của quá trình kinh doanh phải có
hiệu quả.
Để đánh giá chính xác, có cơ sở khoa học hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp, cần
phải xây dựng hệ thống chỉ tiêu phù hợp bao gồm các chỉ tiêu tổng hợp (khái quát), các
chỉ tiêu chi tiết (cụ thể). Các chỉ tiêu đó phải phản ánh được sức sản xuất, suất hao phí
cũng như sức sinh lời của từng yếu tố, từng loại vốn và phải thống nhất với công thức
đáng giá hiệu quả chung.
Kết quả đầu ra được đo bằng chỉ tiêu như: giá trị tổng sản lượng, tổng doanh thu thuần,
lợi nhuận thuần, lợi tức gộp… còn yếu tố đầu vào bao gồm lao động, tư liệu lao động,
đối tượng lao động, vốn chủ sở hữu, vốn vay…
Những chỉ tiêu cụ thể
Tổng lợi nhuận thu được trong kỳ
Lợi nhuận của doanh nghiệp là biểu hiện bằng tiền của bộ phận sản phẩm thặng dư do
người lao động tạo ra trong quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh. Nó là chỉ tiêu chất
lượng tổng hợp biểu hiện hiệu quả của quá trính sản xuất kinh doanh, nó phản ánh đầy
đủ số lượng, chất lượng, kết quả của việc sử dụng các yếu tố cơ bản của sản xuất như lao
động, vật tư, tài sản cố định…của doanh nghiệp. Lợi nhuận là một đòn bẩy quan trọng
có tác dụng khuyến khích người lao động và các đơn vị ra sức phát triển sản xuất, nâng
cao hiệu quả sản xuất kinh doanh, nâng cao đời sống của cán bộ công nhân viên.
P = DT - CP
P- Lợi nhuận thực hiện trong kỳ
35/41
DT- Doanh thu của doanh nghiệp
CP- Chi phí bỏ ra trong quá trình hoạt động kinh doanh
Lợi nhuận từ hoạt động kinh doanh thu được từ hoạt động tiêu thụ sản phẩm, bộ phận
này chiếm tỷ trọng chủ yếu trong tổng lợi nhuận của doanh nghiệp. Nó phụ thuộc vào
các yếu tố như: khối lượng hàng hóa, dịch vụ bán ra trên thị trường, giá mua và bán hàng
hóa, dịch vụ, các chi phí…
Lợi nhuận từ hoạt động tài chính được xác định bằng khoản chênh lệch giữa khoản thu
về và chi cho hoạt động tài chính như mua bán chứng khoán, mua bán ngoại tệ, lãi cho
vay vốn, lợi tức cổ phần…
Lợi nhuận bất thường là những khoản lợi nhuận mà doanh nghiệp không dự tính trước
hoặc có khả năng dự tính nhưng khó thực hiện được, hoặc những khoản thu không
thường xuyên như: khoản phải trả nhưng không phải trả do phía chủ nợ, lợi nhuận từ
quyền sở hữu, nhượng bán tài sản, dự phòng nợ phải thu khó đòi...
Chỉ tiêu lãi suất sản xuất được xác định bằng cách so sánh lợi nhuận với tổng giá thành
sản xuất, chỉ tiêu này phản ánh hiệu quả kinh tế theo lợi nhuận và chi phí sản xuất.
Mức doanh lợi trên doanh số bán
P1
' = PDS × 100
Trong đó:
36/41
P'1: Mức doanh lợi của doan số bán trong kỳ (%)
P: Lợi nhuận thực hiện trong kỳ
DS: Doanh số bán thực hiện trong kỳ
Chỉ tiêu này cho biết một đồng doanh số bán thực hiện mang lại bao nhiêu lợi nhuận
cho doanh nghiệp trong kỳ. Do đó nó có ý nghĩa quan trọng trong việc chỉ ra cho doanh
nghiệp thấy kinh doanh những mặt hàng nào, thị trường nào mang lại lợi nhuận cao cho
doanh nghiệp.
Mức doanh lợi trên vốn kinh doanh
P2
' = PVKD × 100
Trong đó:
P'2: Mức doanh lợi của vốn kinh doanh trong kỳ (%)
VKD: Tổng vốn kinh doanh trong kỳ.
Chỉ tiêu này cho thấy hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh của doanh nghiệp trong kỳ. Một
đồng vốn kinh doanh mang lại bao nhiêu đồng lợi nhuận cho doanh nghiệp.
Mức doanh lợi trên chi phí kinh doanh
P3
' = PCFKD × 100
Trong đó:
P'3: Mức doanh lợi của chi phí kinh doanh trong kỳ (%)
CFKD: Tổng chi phí kinh doanh trong kỳ.
Chỉ tiêu này cho thấy hiệu quả sử dụng chi phí kinh doanh của doanh nghiệp trong kỳ.
Một đồng chi phí kinh doanh mang lại bao nhiêu đồng lợi nhuận cho doanh nghiệp.
Năng suất lao động bình quân của một lao động
W = DTLDbq hoặc W =
TN
LDbq
Trong đó:
37/41
W: Năng suất lao động bình quân của một lao động trong kỳ
DT: Doanh thu (doanh số bán) thực hiện trong kỳ.
TN: Tổng thu nhập
LDbq: Tổng số lao động bình quân trong kỳ
Chỉ tiêu này cho thấy trung bình một lao động của doanh nghiệp thực hiện được bao
nhiêu đồng doanh thu trong kỳ hoặc bao nhiêu đồng thu nhập trong kỳ.
38/41
Tham gia đóng góp
Tài liệu: Lý luận chung về kinh doanh thực phẩm của doanh nghiệp
Biên tập bởi: Đại Học Kinh Tế Quốc Dân
URL:
Giấy phép:
Module: Khái niệm kinh doanh và kinh doanh thực phẩm
Các tác giả: Đại Học Kinh Tế Quốc Dân
URL:
Giấy phép:
Module: Vai trò của kinh doanh thực phẩm
Các tác giả: Đại Học Kinh Tế Quốc Dân
URL:
Giấy phép:
Module: Hoạt động mua sắm vật tư cho sản xuất (tạo nguồn)
Các tác giả: Đại Học Kinh Tế Quốc Dân
URL:
Giấy phép:
Module: Nội dung của kinh doanh thực phẩm
Các tác giả: Đại Học Kinh Tế Quốc Dân
URL:
Giấy phép:
Module: Quá trình sản xuất sản phẩm
Các tác giả: Đại Học Kinh Tế Quốc Dân
URL:
Giấy phép:
Module: Tiêu thụ sản phẩm
Các tác giả: Đại Học Kinh Tế Quốc Dân
URL:
39/41
Giấy phép:
Module: Những nhân tố ảnh hưởng tới hoạt động kinh doanh thực phẩm của doanh
nghiệp
Các tác giả: Đại Học Kinh Tế Quốc Dân
URL:
Giấy phép:
Module: Những nhân tố thuộc về doanh nghiệp
Các tác giả: Đại Học Kinh Tế Quốc Dân
URL:
Giấy phép:
Module: Hệ thống chỉ tiêu đánh giá hoạt động kinh doanh hàng thực phẩm ở doanh
nghiệp
Các tác giả: Đại Học Kinh Tế Quốc Dân
URL:
Giấy phép:
Module: Hiệu quả
Các tác giả: Đại Học Kinh Tế Quốc Dân
URL:
Giấy phép:
40/41
Chương trình Thư viện Học liệu Mở Việt Nam
Chương trình Thư viện Học liệu Mở Việt Nam (Vietnam Open Educational Resources
– VOER) được hỗ trợ bởi Quỹ Việt Nam. Mục tiêu của chương trình là xây dựng kho
Tài nguyên giáo dục Mở miễn phí của người Việt và cho người Việt, có nội dung phong
phú. Các nội dung đểu tuân thủ Giấy phép Creative Commons Attribution (CC-by) 4.0
do đó các nội dung đều có thể được sử dụng, tái sử dụng và truy nhập miễn phí trước
hết trong trong môi trường giảng dạy, học tập và nghiên cứu sau đó cho toàn xã hội.
Với sự hỗ trợ của Quỹ Việt Nam, Thư viện Học liệu Mở Việt Nam (VOER) đã trở thành
một cổng thông tin chính cho các sinh viên và giảng viên trong và ngoài Việt Nam. Mỗi
ngày có hàng chục nghìn lượt truy cập VOER (www.voer.edu.vn) để nghiên cứu, học
tập và tải tài liệu giảng dạy về. Với hàng chục nghìn module kiến thức từ hàng nghìn
tác giả khác nhau đóng góp, Thư Viện Học liệu Mở Việt Nam là một kho tàng tài liệu
khổng lồ, nội dung phong phú phục vụ cho tất cả các nhu cầu học tập, nghiên cứu của
độc giả.
Nguồn tài liệu mở phong phú có trên VOER có được là do sự chia sẻ tự nguyện của các
tác giả trong và ngoài nước. Quá trình chia sẻ tài liệu trên VOER trở lên dễ dàng như
đếm 1, 2, 3 nhờ vào sức mạnh của nền tảng Hanoi Spring.
Hanoi Spring là một nền tảng công nghệ tiên tiến được thiết kế cho phép công chúng dễ
dàng chia sẻ tài liệu giảng dạy, học tập cũng như chủ động phát triển chương trình giảng
dạy dựa trên khái niệm về học liệu mở (OCW) và tài nguyên giáo dục mở (OER) . Khái
niệm chia sẻ tri thức có tính cách mạng đã được khởi xướng và phát triển tiên phong
bởi Đại học MIT và Đại học Rice Hoa Kỳ trong vòng một thập kỷ qua. Kể từ đó, phong
trào Tài nguyên Giáo dục Mở đã phát triển nhanh chóng, được UNESCO hỗ trợ và được
chấp nhận như một chương trình chính thức ở nhiều nước trên thế giới.
41/41
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- ly_luan_chung_ve_kinh_doanh_thuc_pham_cua_doanh_nghiep_8808.pdf