Thiệt hại lợi nhuận gộp cho phép ta xác định được số tiền bồi thường tối đa, nhưng
phải trừ đi mức miễn thường (thường được tính bằng ngày trong bảo hiểm thiệt hại kinh
doanh). "Giả định, mỗi đơn vị doanh thu bao gồm 0,6 đơn vị là chi phí mua nguyên vật
liệu và các chi phí biến đổi khác, 0,3 đơn vị là chi phi cố định, 0,1 đơn vị là lợi nhuận
ròng. Tuy nhiên, khi xảy ra tổn thất làm gián đoạn kinh doanh thì người được bảo hiểm
sẽ không phải gánh chịu tổn thất của cả 1 đơn vị doanh thu đó mà sự giảm doanh thu
sẽ kéo theo việc giảm tương ứng chi phí biến đổi, vì vậy người bảo hiểm sẽ không chịu
trách nhiệm đối với 0,6 đơn vị chi phí mua nguyên vật liệu và các chi phí biến đổi khác
mà chỉ cần bồi thường 0,4 đơn vị chi phí cố định và lợi nhuận ròng là có thể đưa người
được bảo hiểm trở về tình trạng tài chính mà lẽ ra người đó có nếu như tổn thất không
xảy ra". [5, 61]. Do đó, số thiệt hại lợi nhuận gộp là số tiền bồi thường tối đa mà người
được bảo hiểm có thể nhận được. Tuy nhiên trên thực tế, như đã phân tích trong ví dụ
trên, thì số tiền bồi thường sẽ hiếm khi đạt được bằng số thiệt hại lợi nhuận gộp.
Yếu tố thời hạn bồi thường được đưa vào đơn bảo hiểm gián đoạn kinh doanh khác hoàn
toàn so với đơn bảo hiểm thiệt hại vật chất, thời hạn bồi thường trong bảo hiểm gián
đoạn kinh doanh được ghi rõ trong đơn bảo hiểm và phải do người được bảo hiểm tự
chọn.
21 trang |
Chia sẻ: phanlang | Lượt xem: 2169 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Lý luận chung về bảo hiểm gián đoạn kinh doanh, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Lý luận chung về bảo hiểm gián đoạn
kinh doanh
Biên tập bởi:
Đại Học Kinh Tế Quốc Dân
Lý luận chung về bảo hiểm gián đoạn
kinh doanh
Biên tập bởi:
Đại Học Kinh Tế Quốc Dân
Các tác giả:
Đại Học Kinh Tế Quốc Dân
Phiên bản trực tuyến:
MỤC LỤC
1. Sự ra đời của bảo hiểm gián đoạn kinh doanh
2. Vai trò kinh tế xã hội của bảo hiểm gián đoạn kinh doanh
3. Đặc điểm của bảo hiểm gián đoạn kinh doanh
4. Nội dung cơ bản trong hợp đồng bảo hiểm nói chung và trong hợp đồng bảo hiểm
gián đoạn kinh doanh nói riêng
5. Hợp đồng bảo hiểm gián đoạn kinh doanh
Tham gia đóng góp
1/19
Sự ra đời của bảo hiểm gián đoạn kinh
doanh
Sự ra đời của bảo hiểm gián đoạn kinh doanh
Bảo hiểm là một hoạt động tài chính, có tính chất chuyên ngành mà thông qua các hoạt
động này các cá nhân và tổ chức kinh tế xã hội cùng tham gia đóng góp một khoản tiền
nhất định để tạo lập nên quĩ bảo hiểm và khoản đóng góp đó gọi là phí bảo hiểm. Khi
không may gặp phải những rủi ro, tổn thất ngoài mong đợi của các thành viên đóng góp
thì lúc đó quĩ bảo hiểm sẽ phát huy tác dụng của nó là giúp đỡ các thành viên này nhanh
chóng ổn định sản xuất và đời sống, tiếp tục công việc kinh doanh một cách bình thường.
Ngày nay, hoạt động bảo hiểm chủ yếu được thực hiện thông qua hoạt động kinh doanh
bảo hiểm của các tổ chức bảo hiểm.
Nhìn lại sự ra đời và phát triển của bảo hiểm, chúng ta thấy bảo hiểm có nguồn gốc từ
rất xa xưa trong lịch sử nền văn minh nhân loại. Tuy vậy, khi mới ra đời thì các nghiệp
vụ bảo hiểm không phong phú, đa dạng như ngày nay. Xã hội ngày càng phát triển, hoạt
động kinh doanh ngày càng hoàn thiện đã dần dần làm nảy sinh nhiều nhu cầu bảo hiểm
mới. Bảo hiểm gián đoạn kinh doanh là một trong các nghiệp vụ bảo hiểm mới đó. So
với bảo hiểm hàng hải hay bảo hiểm hoả hoạn, bảo hiểm gián đoạn kinh doanh ra đời
muộn hơn rất nhiều. Vào những năm đầu của thế kỷ XX, mặc dù bị sự thúc ép của chính
phủ và yêu cầu của các nhà sản xuất nhưng các công ty bảo hiểm ở Anh vẫn chưa tiến
hành bất cứ loại hình bảo hiểm "tổn thất hậu quả" nào. Sự chậm trễ đó là do tính phức
tạp trong việc phân tích các chi phí tài chính, xác định phạm vi bảo hiểm trong điều kiện
nền kinh tế chính trị chưa ổn định. Sau đó, với sự ra đời của hai nguyên tắc Herry Booth
& Commercial Union (năm 1923) và Polikoff Ltd vs North British and Mercantile (năm
1936) mới thật sự đặt nền móng cho bảo hiểm gián đoạn kinh doanh hình thành và phát
triển.
Khi mới triển khai, bảo hiểm gián đoạn kinh doanh được biết đến dưới tên gọi "bảo hiểm
mất lợi nhuận" hay "tổn thất hậu quả" do mục đích của nó là bồi thường cho người được
bảo hiểm đối với trường hợp bị mất lợi nhuận và các chi phí phụ để tiếp tục kinh doanh.
Những tổn thất này thường xuất hiện sau một khiếu nại thiệt hại về một vụ cháy hay sau
những tổn thất được bảo hiểm khác. Trong thực tế, những loại bảo hiểm chính (như bảo
hiểm cháy, kỹ thuật) sẽ bảo hiểm cho tổn thất hay thiệt hại cơ bản, tuy nhiên người được
bảo hiểm vẫn chưa được đền bù hoàn toàn vì anh ta phải chịu những chi phí bổ sung
chưa được bảo hiểm theo các đơn bảo hiểm này. Do đó, việc xuất hiện bảo hiểm gián
đoạn kinh doanh là một nhu cầu hoàn toàn khách quan, cần thiết.
2/19
Mặc dù "mầm mống" ra đời của bảo hiểm gián đoạn kinh doanh đã xuất hiện từ những
năm 1920 như đã đề cập ở trên, nhưng phải đến năm 1985 sự giao dịch của bảo hiểm
gián đoạn kinh doanh mới xuất hiện tại Uỷ ban tổn thất hậu quả (một bộ phận trong Uỷ
ban bảo hiểm hoả hoạn ở Anh). Đây là nơi đánh dấu sự ra đời bản mẫu đầu tiên về đơn
bảo hiểm gián đoạn kinh doanh. Mẫu đơn này đã được thông qua và sử dụng ở một số
nước Tây Âu. Vào tháng 10 năm 1989, Hiệp hội các nhà bảo hiểm London (ABI) đã
xem xét lại mẫu đơn này trên cơ sở thống nhất lại phạm vi bảo hiểm và sau đó chính
thức phát hành. Từ đó đến nay, hầu hết các quốc gia đều áp dụng theo mẫu đơn đó.
Ngày nay, ở các nước phát triển, bảo hiểm gián đoạn kinh doanh đã trở nên thông dụng
và phổ biến rộng rãi. Nó đã góp phần đắc lực vào việc ổn định tâm lý cũng như an toàn
sản xuất kinh doanh cho các doanh nghiệp.
Ở Việt nam, nghiệp vụ này mới được triển khai khoảng chục năm trở lại đây trên cơ sở
mẫu đơn của nước Anh. Tuy mới triển khai nhưng loại hình này đã khẳng định được
vị trí, vai trò và tiềm năng cũng như những ưu điểm không thua kém gì các nghiệp vụ
"đàn anh, đàn chị" khác. Những năm gần đây, nghiệp vụ này đã thu hút được sự chú ý
của nhiều nhà bảo hiểm. Vào thời gian từ 18 đến 22/08/1997 tại Hà nội đã diễn ra hội
thảo bảo hiểm ngừng trệ kinh doanh (hay bảo hiểm gián đoạn kinh doanh) do Muniche
và Vinare đồng tổ chức. Từ đó đến nay, hàng năm các công ty bảo hiểm đều liên kết với
nhau tổ chức hội thảo đề cập tới vấn đề này. Điều này khẳng định vai trò quan trọng của
bảo hiểm gián đoạn kinh doanh trong việc đảm bảo hoạt động sản xuất kinh doanh cho
mọi thành phần kinh tế, tạo tâm lý ổn định cho các nhà đầu tư, ...
Tóm lại, nếu ta coi bảo hiểm thiệt hại vật chất là điều kiện cần thì bảo hiểm gián đoạn
kinh doanh sẽ là điều kiện đủ trong một đơn bảo hiểm hỗn hợp.
3/19
Vai trò kinh tế xã hội của bảo hiểm gián
đoạn kinh doanh
Bảo hiểm gián đoạn kinh doanh là "lá chắn kinh tế" của các doanh nghiệp,
góp phần giảm thiểu những hậu quả ảnh hưởng của các rủi ro đến hoạt
động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp
Trong cuộc sống hàng ngày cũng như trong hoạt động sản xuất kinh doanh của mỗi
doanh nghiệp đôi khi xảy ra những rủi ro bất ngờ mà không ai lường trước được. Các rủi
ro đã và đang gây nên những tổn thất, thiệt hại về tài sản, về tính mạng của con người,
làm gián đoạn quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
Cùng với sự phát triển của khoa học kỹ thuật, nhiều thành tựu khoa học kỹ thuật được
ứng dụng trong sản xuất kinh doanh, từ đó làm cho qui mô của hoạt động sản xuất kinh
doanh ngày càng mở rộng. Do vậy, giá trị tài sản của doanh nghiệp ngày càng lớn. Nếu
chẳng may rủi ro thiệt hại xảy ra thì hậu quả thường rất nặng nề và ảnh hưởng lâu dài
không chỉ tới bản thân chính doanh nghiệp mà còn ảnh hưởng đến cả các doanh nghiệp,
cá nhân thường xuyên có quan hệ với doanh nghiệp. Sự ra đời của các công ty bảo hiểm
đã giúp các đơn vị sản xuất kinh doanh ổn định tình hình sản xuất, đảm bảo công việc
kinh doanh được tiến hành bình thường. Thông qua việc bồi thường một cách kịp thời,
chính xác, trung thực đã giúp cho các doanh nghiệp nhanh chóng khắc phục được hậu
quả thiệt hại. Bên cạnh đó, với sự chuyển đổi của cơ chế quản lý, Nhà nước đã chủ động
giao vốn cho các doanh nghiệp, chủ yếu là các doanh nghiệp Nhà nước. Trong việc bảo
tồn và phát triển vốn, các doanh nghiệp không có sự hỗ trợ nhiều của Nhà nước như
trong thời kỳ bao cấp trước đây. Nếu khi có thiệt hại gì xảy ra, doanh nghiệp không
được quyền ghi giảm vốn đặc biệt là những thiệt hại gây ra bởi các rủi ro các công ty
bảo hiểm trong nước đã triển khai hay với các loại hình tương tự. Vì vậy bảo hiểm sẽ là
"lá chắn kinh tế" để đảm bảo sự bảo toàn vốn cho các doanh nghiệp khi không may gặp
phải những thiệt hại của thiên tai hoặc do sự sơ suất vô ý của người lao động.
Trên thực tế, sau khi rủi ro xảy ra đối với một doanh nghiệp hoạt động sản xuất kinh
doanh thì hầu như mọi hoạt động không thể tiến hành bình thường như kế hoạch đã đặt
ra trước. Từ đó dẫn đến nhiều khoản tổn thất không được bồi thường trong đơn bảo hiểm
tài sản như chi phí về thuê nhà, trụ sở, chi trả lương công nhân viên... Để khắc phục tình
trạng doanh nghiệp có thể bị phá sản hoặc lâm vào tình thế khó khăn khi phải đối mặt
với các tổn thất đó, tham gia bảo hiểm gián đoạn kinh doanh là cách tốt nhất để bù đắp
thiệt hại. Khi tham gia loại hình bảo hiểm này, nếu tổn thất xảy ra, các cơ quan, doanh
nghiệp không những được bồi thường cho những khoản chi phí nói trên mà còn được bù
đắp phần lợi nhuận ròng bị mất mát mà lẽ ra họ có thể nhận được nếu như không có tổn
thất xảy ra. Vậy cùng với đơn bảo hiểm tài sản, bảo hiểm gián đoạn kinh doanh đã góp
4/19
phần làm hạn chế đến mức tối thiểu những hậu quả ảnh hưởng của các rủi ro tới hoạt
động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp.
Bảo hiểm gián đoạn kinh doanh góp phần mang lại sự an toàn trong xã hội
Trong điều kiện nền kinh tế mở cửa như hiện nay, nước ta đã thu hút được lượng lớn
vốn đầu tư không những của các nhà đầu tư trong nước mà còn của các nhà đầu tư nước
ngoài. Các nhà đầu tư, vì mục đích kinh doanh của mình, luôn quan tâm đến việc bảo
toàn và phát triển vốn, làm sao có thể an toàn nhất tránh các rủi ro đáng tiếc xảy ra với
đồng vốn của họ. Tuy nhiên, trong sản xuất kinh doanh có nhiều yếu tố rủi ro mang tính
ngẫu nhiên xảy ra bất cứ lúc nào và không loại trừ bất cứ ai. Các công ty bảo hiểm là các
doanh nghiệp kinh doanh hoạt động trên cơ sở xử lý, chuyển giao, phân tán rủi ro, vì vậy
để hoạt động kinh doanh có hiệu quả hơn, cần thiết các doanh nghiệp bảo hiểm phải tìm
cách giảm thiểu xác suất xảy ra rủi ro. Một trong số các biện pháp mà các doanh nghiệp
bảo hiểm đang áp dụng rất hiệu quả đó là biện pháp đề phòng, hạn chế tổn thất nhằm
bảo vệ đối tượng bảo hiểm. Hàng năm, các công ty bảo hiểm thường trích ra một khoản
theo tỉ lệ nhất định trên cơ sở nguồn phí thu được để thực hiện các biện pháp phòng
tránh cần thiết có hiệu quả nhất. Phí thu được từ các đơn bảo hiểm gián đoạn kinh doanh
tất yếu sẽ có phần đóng góp trong đó. Vì vậy, có thể nói bảo hiểm gián đoạn kinh doanh
góp phần đề phòng, hạn chế tổn thất, mang lại sự an toàn cho các doanh nghiệp sản xuất
kinh doanh nói riêng và cho toàn xã hội nói chung.
Bảo hiểm gián đoạn kinh doanh góp phần tăng thu cho ngân sách Nhà
nước, thúc đẩy kinh tế phát triển
Cũng như nhiều nghiệp vụ bảo hiểm khác nói riêng và những loại hình kinh doanh dịch
vụ khác nói chung, bảo hiểm gián đoạn kinh doanh góp phần tăng thu cho ngân sách
Nhà nước, đặc biệt tăng nguồn thu từ ngoại tệ cho Nhà nước. Một phần nguồn phí thu
được từ nghiệp vụ bảo hiểm này hàng năm được đóng góp vào ngân sách Nhà nước để
sử dụng vào các mục đích chính trị, xã hội. Ngoài ra, một phần phí thu được tạm thời
nhàn rỗi từ các hợp đồng bảo hiểm gián đoạn kinh doanh đã tạo ra lượng vốn lớn để phát
triển nền kinh tế thông qua việc đầu tư.
Tất cả những gì đã nêu trên là minh chứng rõ ràng và đầy đủ cho sự cần thiết của việc
tham gia bảo hiểm gián đoạn kinh doanh.
5/19
Đặc điểm của bảo hiểm gián đoạn kinh
doanh
Đặc điểm của bảo hiểm gián đoạn kinh doanh
Bảo hiểm gián đoạn kinh doanh "bảo hiểm cho các tổn thất mất giảm thu nhập thực tế
và tiềm năng cũng như các phụ phí phát sinh từ hậu quả của tổn thất vật chất" [3,5/7].
Do vậy, nó có một số các đặc điểm riêng biệt so với các loại bảo hiểm khác như sau:
- Đặc điểm về đối tượng bảo hiểm:
Khi có một rủi ro xảy ra, ví dụ một vụ hoả hoạn, gây thiệt hại tài sản, người được bảo
hiểm sẽ được bảo hiểm theo đơn bảo hiểm tài sản (cụ thể là đơn bảo hiểm hoả hoạn và
các rủi ro đặc biệt). Với số tiền bảo hiểm nhận được, người được bảo hiểm có thể có đủ
khả năng khôi phục lại cơ sở hạ tầng, mua lại các thiết bị, máy móc,... phục vụ cho việc
sử dụng như trước khi xảy ra rủi ro. Tuy vậy, nếu như số tài sản bị thiệt hại đang được
sử dụng cho mục đích sản xuất kinh doanh thì nhà kinh doanh sẽ phải chịu cả những
thiệt hại về mặt kinh doanh như mất lợi nhuận, mất khả năng kinh doanh trong một thời
gian nhất định. Hơn thế nữa, anh ta phải chịu những chi phí như chi phí thuê nhà xưởng,
chi phí trả lương cho công nhân viên, lãi suất ngân hàng,... mặc dù không thực hiện sản
xuất kinh doanh hoặc những chi phí thuê nhà xưởng, máy móc tạm để tiếp tục sản xuất
kinh doanh trong thời gian sửa chữa, phục hồi cơ sở sản xuất. Nói cách khác, tuỳ vào
mức độ thiệt hại gây ra mà công việc kinh doanh bình thường của người được bảo hiểm
sẽ bị ngưng trệ hoặc giảm sút. Chúng ta hãy cùng xem xét ví dụ minh hoạ sau đây:
Hình dưới đây miêu tả tổn thất về doanh thu có thể xảy ra sau một vụ cháy nghiêm trọng.
Cần chú ý rằng doanh thu (số tiền doanh nghiệp thu được) sẽ chỉ trở lại bình thường
sau 9 tháng kể từ khi có vụ cháy xảy ra cho dù công việc xây dựng lại chỉ mất 3 tháng.
Trường hợp này xảy ra do nguyên nhân một số khách hàng không chắc chắn được liệu
công ty có tiếp tục kinh doanh nữa hay không và nếu khách hàng có thể dễ dàng tìm ra
những hãng cung cấp thay thế thì thời gian hồi phục kinh doanh sẽ bị kéo dài. Khác hẳn
với thiệt hại vật chất, thiệt hại mà nhà kinh doanh phải gánh chịu trong trường hợp bị
ngừng trệ kinh doanh là rất trừu tượng và được cụ thể hoá vào thời điểm trong tương lai
khi mà doanh nghiệp của người được bảo hiểm trở lại tình trạng vốn có như trước khi
tổn thất xảy ra. Nói tóm lại, đối tượng của bảo hiểm gián đoạn kinh doanh là đối tượng
vô hình.
6/19
Trong biểu đồ trên, người ta đã giả định một doanh thu tĩnh song trong thực tế, rất nhiều
ngành nghề biến động theo mùa và tất nhiên cần phải xem xét yếu tố này khi giải quyết
bất kỳ khiếu nại nào. Vì vậy, trong đơn bảo hiểm gián đoạn kinh doanh thường nêu rõ
công thức sẽ được sử dụng khi giải quyết bồi thường tổn thất.
- Đặc điểm về giai đoạn bồi thường:
Một đặc trưng cơ bản của bảo hiểm gián đoạn kinh doanh là người được bảo hiểm được
chọn một "giai đoạn bồi thường". Đó là giai đoạn mà theo tính toán của người được bảo
hiểm sẽ đủ để người đó khôi phục lại kinh doanh, hoàn toàn khôi phục lại khả năng hoạt
động và doanh thu kể cả khi đã xảy ra vụ hoả hoạn nghiêm trọng nhất. Người được bảo
hiểm sẽ chọn "giai đoạn bồi thường" tối đa, có thể là 12 tháng, 18 tháng, ..., và "giai
đoạn bồi thường" sẽ được đưa vào hợp đồng bảo hiểm. "Giai đoạn bồi thường" tối đa
phụ thuộc vào các yếu tố sau:
"+Thời gian để sửa chữa, xây dựng lại tài sản bị thiệt hại. Thời gian này được tính bao
gồm cả thời gian thiết kế, lên kế hoạch và cả thời gian xin các loại giấy phép.
+ Thời gian thay thế máy móc, nguyên vật liệu. Việc đánh giá chính xác khoảng thời
gian này là rất quan trọng và phụ thuộc vào loại máy móc, nguyên vật liệu. Nếu như
doanh nghiệp sử dụng các máy móc, nguyên vật liệu phải nhập khẩu hoặc loại đặc biệt
thì việc ổn định tình hình kinh doanh trong một thời gian ngắn là hết sức khó khăn.
+ Thời gian cần thiết để khôi phục năng suất và tính hiệu quả kinh doanh trở về bình
thường như trước khi xảy ra tổn thất, bao gồm cả thời gian để giành lại những khách
hàng đã mất." [5, 6].
- Đặc điểm về tổn thất vật chất:
Điều kiện tiên quyết để người được bảo hiểm có quyền đòi bồi thường theo đơn bảo
hiểm gián đoạn kinh doanh là "tại thời điểm xảy ra tổn thất, các thiệt hại của các tài sản
của người được bảo hiểm tại địa điểm được bảo hiểm phải được bảo vệ bởi một đơn bảo
7/19
hiểm thiệt hại vật chất" [2, 1]. Điều kiện này được biết đến trong ngành bảo hiểm thế
giới như "qui định tổn thất vật chất" (material damage provisio). Qui định này có nghĩa
là trước khi giải quyết khiếu nại gián đoạn kinh doanh, phải có một khiếu nại theo đơn
thiệt hại vật chất đã được thanh toán bồi thường hay trách nhiệm theo đơn bảo hiểm đó
đã được chấp nhận. Vì vậy, thông thường bảo hiểm gián đoạn kinh doanh chỉ là đơn bảo
hiểm mở rộng phạm vi bảo hiểm của một đơn bảo hiểm vật chất. Rủi ro trong đơn bảo
hiểm gián đoạn kinh doanh, trừ những trường hợp loại trừ, phải trùng khớp với rủi ro
trong đơn bảo hiểm thiệt hại vật chất.
8/19
Nội dung cơ bản trong hợp đồng bảo hiểm
nói chung và trong hợp đồng bảo hiểm gián
đoạn kinh doanh nói riêng
Hợp đồng bảo hiểm
Khái niệm hợp đồng bảo hiểm
"Hợp đồng bảo hiểm là một thoả thuận giữa bên mua bảo hiểm và doanh nghiệp bảo
hiểm, theo đó bên mua bảo hiểm phải đóng phí bảo hiểm, doanh nghiệp bảo hiểm phải
trả tiền bảo hiểm cho người thụ hưởng hoặc bồi thường cho người được bảo hiểm khi
xảy ra sự kiện bảo hiểm" [6,16].
Như vậy, đứng trên góc độ pháp lý thì hợp đồng bảo hiểm thực chất là một hợp đồng
kinh tế trong đó một bên đồng ý bồi thường, trả tiền bảo hiểm cho bên kia khi xảy ra sự
kiện bảo hiểm với điều kiện bên kia chấp nhận đóng phí bảo hiểm. Theo hợp đồng bảo
hiểm, mối quan hệ nhất định giữa hai bên ràng buộc với nhau bởi hai vấn đề cơ bản: bồi
thường và nộp phí bảo hiểm.
Điều kiện pháp lý áp dụng trong hợp đồng bảo hiểm
Có hai loại điều kiện được áp dụng cho hợp đồng bảo hiểm, đó là:
ω Điều kiện ngầm định
ω Điều kiện rõ ràng
a) Điều kiện ngầm định
Trong thực tế, có những điều kiện ngầm định không được thể hiện bằng văn bản nhưng
hai bên phải luôn tuân thủ trong thời hạn hiệu lực của hợp đồng.
- Quyền lợi được bảo hiểm: Trong luật bảo hiểm Anh và nhiều nước, trong đó có Việt
Nam có qui định về quyền lợi được bảo hiểm. Theo đó, để có đủ năng lực pháp lý tham
gia vào hợp đồng bảo hiểm thì người tham gia bảo hiểm phải là người có quyền lợi khi
đối tượng bảo hiểm đó bị thiệt hại. Điều đó có nghĩa là đối tượng bảo hiểm, đặc biệt là
tài sản phải thuộc quyền sử dụng hay quản lý hợp pháp của các cơ quan doanh nghiệp,
các cá nhân và tổ chức thuộc mọi thành phần kinh tế trong xã hội và họ chính là người
tham gia bảo hiểm.
9/19
- Tín nhiệm tuyệt đối: Điều kiện "tín nhiệm tuyệt đối" được áp dụng trong quan hệ bảo
hiểm giữa người bảo hiểm đối với người tham gia bảo hiểm. Điều đó có nghĩa là người
tham gia bảo hiểm phải có trách nhiệm kê khai trung thực, đầy đủ và chính xác giá trị
tài sản hoặc là tình trạng sức khoẻ,... trong phạm vi kiến thức và sự hiểu biết của họ khi
người bảo hiểm yêu cầu. Những thông tin này là cơ sở để người bảo hiểm có chấp nhận
bảo hiểm cho đối tượng bảo hiểm hay không. Người tham gia bảo hiểm không được
thực hiện bất cứ hành vi man trá hay gian dối nào trong thời gian hiệu lực cuả hợp đồng
nhằm trục lợi. Việc tuân thủ đúng nguyên tắc này đóng vai trò quan trọng trong việc
giao dịch bảo hiểm.
-Bồi thường: Khi có sự cố rủi ro thuộc trách nhiệm bảo hiểm gây thiệt hại cho người
được bảo hiểm, người được bảo hiểm sẽ được bồi thường theo đúng qui định của hợp
đồng. Hiện nay có ba hình thức bồi thường được sử dụng:
+ Thanh toán bằng tiền mặt. Đây chính là hình thức phổ biến nhất. Công ty bảo hiểm
xác định giá trị tổn thất thực tế bằng tiền và thực hiện bồi thường cho khách hàng.
+ Sửa chữa đối với loại tài sản bị tổn thất còn khả năng sửa chữa.
+ Thay thế hay phục hồi, phương pháp này thường được áp dụng trong trường hợp tổn
thất toàn bộ.
Đó là các điều kiện ngầm định được áp dụng trong hợp đồng bảo hiểm. Hai điều kiện
đầu được coi là hai điều kiện quan trọng phải được thực hiện trước khi hình thành hợp
đồng. Trong trường hợp những điều kiện này không được tuân thủ, tính hợp lệ của toàn
bộ hợp đồng sẽ không được đảm bảo.
b) Những điều kiện rõ ràng
Cùng với việc thực hiện những điều kiện ngầm định, giữa người bảo hiểm và người
được bảo hiểm cũng có những "điều kiện rõ ràng" được qui định bằng văn bản trong hợp
đồng bảo hiểm buộc hai bên cùng phải tôn trọng thực hiện. Các điều kiện đó sẽ được
xem xét một cách cụ thể trong phần tiếp theo của hợp đồng bảo hiểm.
Kết cấu và nội dung của hợp đồng bảo hiểm
* Đơn yêu cầu bảo hiểm:
Đơn yêu cầu bảo hiểm là hình thức phổ biến nhất để công ty bảo hiểm có thể nhận được
các thông tin liên quan tới rủi ro sẽ được bảo hiểm. Đối với hầu hết các loại bảo hiểm,
người yêu cầu bảo hiểm sẽ điền vào đơn yêu cầu bảo hiểm và nộp cho công ty bảo hiểm.
Các đơn này có thể do công ty bảo hiểm gốc hoặc môi giới bảo hiểm hay trung gian bảo
hiểm cung cấp.
10/19
Trong hầu hết các đơn bảo hiểm thường có những câu hỏi chung như sau:
ω Tên, địa chỉ của người yêu cầu bảo hiểm (nếu bảo hiểm liên quan đến cá nhân có thể
có câu hỏi liên quan đến nghề nghiệp, tuổi tác). ω Thời gian yêu cầu bảo hiểm.
ω Ngành nghề kinh doanh.
ω Cơ sở tính phí bảo hiểm (đồ đạc, nhà cửa, bảng lương, doanh thu,...)
Bên cạnh đó cũng có những câu hỏi liên quan đến các rủi ro cụ thể. Nói cách khác, một
đơn yêu cầu bảo hiểm sẽ chứa đựng các câu hỏi chung và riêng, và tất cả các câu hỏi đó
đều có giá trị đối với công ty bảo hiểm.
Đơn yêu cầu bảo hiểm chính là cơ sở của hợp đồng bảo hiểm và là một phần không thể
thiếu trong hợp đồng bảo hiểm.
* Đơn bảo hiểm và giấy chứng nhận bảo hiểm:
Sau khi đơn yêu cầu bảo hiểm được trình bày hợp lý và công ty bảo hiểm chấp nhận
đơn đó, công ty bảo hiểm sẽ cấp cho người được bảo hiểm đơn bảo hiểm kèm theo giấy
chứng nhận bảo hiểm. Đơn bảo hiểm và giấy chứng nhận bảo hiểm là bằng chứng về
việc xác lập hợp đồng, trong đó bao gồm mọi chi tiết về việc bảo hiểm. Trong đơn bảo
hiểm và giấy chứng nhận bảo hiểm phải đề cập được các nội dung sau:
ω Tên, địa chỉ doanh nghiệp bảo hiểm, bên mua bảo hiểm, người được bảo hiểm hoặc
người thụ hưởng.
ω Đối tượng bảo hiểm
ω Số tiền bảo hiểm, giá trị tài sản được bảo hiểm đối với bảo hiểm tài sản
ω Điều khoản loại trừ trách nhiệm bảo hiểm
ω Thời hạn bảo hiểm
ω Mức phí bảo hiểm, phương thức đóng phí bảo hiểm
ω Thời hạn, phương thức trả tiền bảo hiểm hoặc bồi thường
ω Các qui định giải quyết tranh chấp
ω Ngày, tháng, năm giao kết hợp đồng
Ngoài ra còn có thể có những nội dung khác do các bên thoả thuận.
11/19
Hợp đồng bảo hiểm gián đoạn kinh doanh
Hợp đồng bảo hiểm gián đoạn kinh doanh
Hợp đồng bảo hiểm gián đoạn kinh doanh giống như bất kỳ một hợp đồng bảo hiểm nào
đều mang đầy đủ các nội dung cũng như đặc điểm của một hợp đồng bảo hiểm như đã
đề cập ở phần lý luận trên. Tuy nhiên, do tính đặc thù của loại nghiệp vụ bảo hiểm này
nên nó cũng có những đặc điểm riêng so với các loại hợp đồng bảo hiểm khác. Trong
phần lý luận sau, do phạm vi nghiên cứu của đề tài này như đã đề cập ở phần giới thiệu,
sẽ chỉ đề cập tới hợp đồng bảo hiểm gián đoạn kinh doanh sau cháy.
Một số khái niệm về doanh thu, chi phí cố định, chi phí biến đổi, lợi nhuận thuần,
lợi nhuận gộp
"Doanh thu bán hàng là toàn bộ các khoản doanh thu về tiêu thụ sản phẩm hàng hoá dịch
vụ" [11, 83]. Đây là bộ phận chủ yếu, chiếm tỉ trọng lớn trong tổng doanh thu. Ngoài ra,
doanh thu còn từ các hoạt động khác bao gồm các khoản từ hoạt động đầu tư tài chính
(thu từ hoạt động đầu tư, thu về việc mua bán chứng khoán, lãi kí quĩ, hoàn nhập dự
phòng giảm giá chứng khoán, cho thuê tài sản, lãi tiền gửi, lãi tiền cho vay...), và từ hoạt
động bất thường (thu về nhượng bán thanh lý tài sản cố định, thu từ phạt vi phạm hợp
đồng, nợ khó đòi đã đòi được, nợ phải trả không xác định được chủ, thu nhập năm trước
bị bỏ sót...).
"Chi phí cố định là những chi phí có đặc trưng cơ bản là tổng số của nó không thay đổi
khi khối lượng kinh doanh thay đổi" [18,90]. Khoản chi phí này là những khoản chi phí
tồn tại ngay cả khi không tiến hành sản xuất kinh doanh, ví dụ như tiền thuê nhà xưởng,
thuê đất, tài sản cố định,...
"Chi phí biến đổi là chi phí biến đổi thuận chiều với sự thay đổi khối lượng kinh doanh
của doanh nghiệp" [18,90], ví dụ như chi phí mua nguyên vật liệu, chi phí thuê nhân
công hợp đồng...
"Lợi nhuận thuần là khoản lợi nhuận thu được sau khi đã trừ đi tất cả các khoản dự
phòng, các chi phí cố định kể cả những chi phí khấu hao, nhưng phải được tính trước
khi trừ đi các loại thuế tính trên thu nhập" [5, appendix A]
"Lợi nhuận gộp = [Doanh thu + (giá trị hàng tồn kho và hàng hoá đang trong kì sản xuất
ở cuối kỳ - giá trị hàng hoá đang trong kỳ sản xuất đầu kì) - tổng chi phí sản xuất không
được bảo hiểm]" [5, appendix A].
12/19
Đối tượng bảo hiểm
Như đã đề cập trong phần đặc điểm của bảo hiểm gián đoạn kinh doanh, đối tượng
bảo hiểm trong bảo hiểm gián đoạn kinh doanh là đối tượng vô hình. Khác với các loại
nghiệp vụ bảo hiểm thiệt hại vật chất có đối tượng bảo hiểm là hữu hình, đối tượng bảo
hiểm trong bảo hiểm gián đoạn kinh doanh do đặc tính trừu tượng như vậy đã gây rất
nhiều khó khăn cho các nhà bảo hiểm. Đây cũng chính là lý do khiến cho một nghiệp vụ
bảo hiểm rất quan trọng như bảo hiểm gián đoạn kinh doanh đã ra đời quá muộn so với
các nghiệp vụ khác. Theo đơn bảo hiểm qui chuẩn của Anh quốc mà ngày nay rất nhiều
quốc gia trên thế giới cũng đang sử dụng thì đối tượng bảo hiểm của bảo hiểm gián đoạn
kinh doanh là "tổn thất mang tính hậu quả do việc ngừng trệ hay gián đoạn" [5, 6].
Số tiền bảo hiểm
Khác với số tiền bảo hiểm trong các nghiệp vụ bảo hiểm thiệt hại vật chất được xác định
dựa trên giá trị bảo hiểm, số tiền bảo hiểm của bảo hiểm gián đọan kinh doanh được
xác định dựa trên giá trị lợi nhuận gộp hàng năm của doanh nghiệp tham gia bảo hiểm.
Số tiền bảo hiểm trong loại hình nghiệp vụ này do người được bảo hiểm xác định, được
tính từ số liệu kế toán của người được bảo hiểm và phải thể hiện được giá trị lợi nhuận
gộp ước tính trong tương lai của doanh nghiệp được bảo hiểm. Để xác định giá trị đó, số
liệu kế toán của năm gần nhất sẽ được sử dụng. Tuy nhiên, thường thì người ta sử dụng
số liệu kế toán của hai hoặc ba năm liên tiếp nhằm tránh những biến động bất thường
có thể ảnh hưởng tới tính chính xác của số liệu. "Khi thời hạn bồi thường là 12 tháng
hoặc thấp hơn, số tiền bảo hiểm phải là giá trị hàng năm của lợi nhuận gộp. Nếu thời hạn
bồi thường vượt quá 12 tháng số tiền bảo hiểm phải là lợi nhuận gộp cho thời hạn bồi
thường được chọn" [5, 7]. Ví dụ nếu thời hạn bồi thường là 3 năm thì số tiền bảo hiểm
là 3 lần giá trị lợi nhuận gộp hàng năm.
Tuy vậy, mục đích của bảo hiểm gián đoạn kinh doanh không những bảo hiểm phần
lợi nhuận bị mất đi so với cùng kỳ năm trước mà còn bồi thường cho thêm cả phần lợi
nhuận họ sẽ thu được theo tỉ lệ tăng doanh thu bình quân năm kế tiếp. Để tránh sự đánh
giá thấp của số tiền bảo hiểm, người ta còn phải tính đến hệ số tăng bình quân doanh thu
của hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp bằng cách so sánh nhiều năm tài chính dựa
trên cơ sở kế toán tính trước khi kí kết hợp đồng gián đoạn kinh doanh. Bằng cách đó
người ta có thể tính được số tiền bảo hiểm như sau:
Số tiền bảo
hiểm =
Lợi nhuận gộp
cả năm x
hệ số tăng bình
quân x
thời hạn bồi thường tính
bằng tháng
Phạm vi bảo hiểm:
"Công ty bảo hiểm sẽ chỉ bồi thường cho người được bảo hiểm những tổn thất mang
tính hậu quả do việc ngừng trệ hay gián đoạn kinh doanh với điều kiện:
13/19
(1) tại thời điểm xảy ra tổn thất, các thiệt hại của các tài sản của người được bảo hiểm
phải được bảo vệ bởi một đơn bảo hiểm thiệt hại vật chất và:
• công ty bảo hiểm của đơn bảo hiểm thiệt hại vật chất đã xác nhận trách nhiệm
hoặc đã thanh toán bồi thường.
hoặc
1. 1. công ty bảo hiểm của đơn bảo hiểm thiệt hại vật chất đáng nhẽ đã xác
nhận trách nhiệm hoặc đã thanh toán tiền bồi thường nhưng do điều
kiện của đơn bảo hiểm thiệt hại vật chất sẽ không bồi thường cho những
tổn thất nhỏ hơn mức trách nhiệm đã kê khai trong đơn bảo hiểm.
2. trách nhiệm của công ty bảo hiểm, trong mọi trường hợp, sẽ không vượt quá :
1. Tổng số tiền bảo hiểm hay số tiền bảo hiểm tương ứng với mỗi khoản
mục được kê khai trong giấy chứng nhận bảo hiểm
2. Bất cứ trách nhiệm được đưa ra trong giấy chứng nhận bảo hiểm hay
bất cứ số tiền bảo hiểm nào được sửa đổi bởi các sửa đổi bổ sung đính
kèm và được ký xác nhận bởi công ty bảo hiểm hay người đại diện cho
công ty bảo hiểm" [2, 1].
Điều khoản loại trừ
"Đơn bảo hiểm gián đoạn kinh doanh không bảo hiểm cho các tổn thất do hậu quả của:
• Thiệt hại do thiết kế sai, khuyết tật của nguyên vật liệu hay do tay nghề kém;
do những khuyết tật ẩn tì; do sự thoái hoá dần giá trị hoặc do sự biến dạng, hao
mòn tự nhiên; do việc ngừng cung cấp điện, nước, khí đốt hay các nguồn
nguyên liệu khác hay do sự hư hỏng của hệ thống thải rác; do ăn mòn, gỉ; do sự
thay đổi độ ẩm hay khô của thời tiết; do nấm mốc mục nát; do hao hụt bay hơi,
do hư hại do tác động của ánh sáng, sâu bọ côn trùng; do các hành động lừa dối
không trung thực.
• Thiệt hại do những mất mát không giải thích được, những thiếu hụt do lỗi kế
toán, lỗi kiểm kê, quản lý hành chính.
• Thiệt hại do đổ vỡ, rạn nứt hay áp suất quá tải của nồi hơi, bình đun bằng hơi,
bình hay đường ống dò gỉ; do hư hỏng trục trặc máy móc thiết bị về đo điện
hay cơ khí; vỡ, tràn nước, tháo nước hay dò gỉ.
• Thiệt hại do sự xói mòn của sông biển; sụt lở đất, lún đất.
• Thiệt hại do tài sản bị biến mất, thiếu hụt khi kiểm kê trong quá trình vận
chuyển ngoài khu vực được đề cập hoặc không rõ nguyên nhân.
• Thiệt hại do thông tin bị tẩy xoá, mất mát, bóp méo trên hệ thống máy tính
hoặc các chương trình phần mềm lưu trữ số liệu khác.
• Thiệt hại đối với kính lắp cố định, kính và các đồ dễ vỡ khác, các máy điện
toán, các thiết bị xử lý dữ liệu, máy móc thiết bị đang lắp đặt, di chuyển, tài sản
14/19
đang trong quá trình kiểm tra, lắp đặt, sửa chữa, xây dựng, xe cơ giới đang lưu
hành trên đường.
• Thiệt hại do bất kỳ hành động cố ý hay sự cẩu thả cố tình của người được bảo
hiểm hay bất kỳ ai đại diện cho họ.
• Thiệt hại do hậu quả dù trực tiếp hay gián tiếp của chiến tranh, xâm lược, các
hành động thù địch, nội chiến, binh biến, bạo động, hành động khủng bố
• Thiệt hại gây ra do người được bảo hiểm bị tước quyền sở hữu tạm thời hay
vĩnh viễn do bị tịch thu tài sản, trưng dụng tài sản theo lệnh của nhà cầm quyền
hợp pháp.
• Thiệt hại trực tiếp hay gián tiếp hoặc phát sinh từ hậu quả hay do ảnh hưởng
một phần của bất kỳ nguyên liệu vũ khí hạt nhân nào, phóng xạ ion hoá hay do
ô nhiễm phóng xạ" [2, 3].
Phí bảo hiểm
Phí bảo hiểm gián đoạn kinh doanh được tính trên cơ sở số tiền bảo hiểm do người được
bảo hiểm chọn (gọi là số tiền bảo hiểm đăng ký). Để đăng ký một hợp đồng bảo hiểm
thiệt hại kinh doanh người tham gia bảo hiểm phải thông báo một loạt số liệu về kế toán,
đặc biệt là tài khoản kết quả sản xuất kinh doanh thực hiện một số năm trước đó. Căn
cứ vào tài khoản này cộng thêm với lời khai báo, hai bên thỏa thuận với nhau về số tiền
bảo hiểm (cụ thể số tiền bảo hiểm ở đây là lợi nhuận gộp). Việc thoả thuận được số tiền
bảo hiểm có ý nghĩa vô cùng quan trọng cho công tác tính phí vì thực chất phí bảo hiểm
gián đoạn kinh doanh được xác định như sau:
Phí bảo hiểm = số tiền bảo hiểm x tỉ lệ phí bảo hiểm
Tỉ lệ phí bảo hiểm phụ thuộc vào 3 yếu tố cơ bản:
• Xác suất rủi ro của nghiệp vụ bảo hiểm.
• Phạm vi bảo hiểm.
• Số tiền bồi thường cho một số năm trước đây.
Tuy vậy, trong bảo hiểm gián đoạn kinh doanh, tỉ lệ phí bảo hiểm được tính dựa trên tỉ
lệ phí bảo hiểm chung cho rủi ro hoả hoạn.
Việc tính phí bảo hiểm còn phụ thuộc vào yếu tố thời gian, cụ thể là thời hạn bồi thường.
Thời hạn bồi thường càng cao có nghĩa là trách nhiệm bồi thường của nhà bảo hiểm
càng lớn, vì thế phí bảo hiểm cũng tăng tương ứng. Ví dụ, theo biểu phí Bảo Việt Hà
Nội hiện đang triển khai thì nếu thời hạn bồi thường là 3 tháng thì tỉ lệ phí bảo hiểm
là 50% tỉ lệ phí bảo hiểm của bảo hiểm hoả hoạn, nếu 6 tháng là 75%, nếu 12 tháng là
100%. Tuy nhiên, thời hạn bồi thường tăng đến một mức nhất định thì phí bảo hiểm có
xu hướng giảm dần do cơ sở tính phí sẽ thay đổi.
15/19
Thời hạn và phương thức bồi thường
Bồi thường là nguyên tắc cơ bản của bảo hiểm. Trong bảo hiểm gián đoạn kinh doanh,
rất khó xác định số tiền bồi thường mặc dù đã có công thức xác định cách giải quyết tổn
thất được ghi trong nội dung đơn bảo hiểm. Kế toán của người được bảo hiểm thường
tham gia xác định mức lãi kinh doanh của doanh nghiệp sẽ thu được nếu như vụ hoả
hoạn hay một hiểm hoạ nào đó không xảy ra.
Vấn đề bồi thường trong bảo hiểm gián đoạn kinh doanh khác với bồi thường trong thiệt
hại vật chất. Nếu như mục đích của bảo hiểm bồi thường trong các đơn bảo hiểm thiệt
hại vật chất là đưa người bảo hiểm trở về vị trí giống như trước khi xảy ra tổn thất , thì
đối với bảo hiểm gián đoạn kinh doanh lại không hoàn toàn như vậy. Chúng ta hãy xem
xét một ví dụ ngắn. Một nhà sản xuất hàng phục vụ lễ Giáng Sinh.Và hiện giờ hàng đang
trong nhà kho chờ ngày đem bán. Một vụ cháy xảy ra ở nhà kho, phá huỷ hầu hết số
hàng hoá phục vụ cho Giáng Sinh. Như vậy ta sẽ thấy ngay có một số nhân tố khiến hầu
như không thể đưa người được bảo hiểm trở về vị trí tài chính giống như trước khi xảy
ra tổn thất như nhà sản xuất đã bỏ lỡ thị trường, mất khách hàng... Vì vậy, đối với các
đơn bảo hiểm gián đoạn kinh doanh, bồi thường có thể được coi là một nỗ lực đưa người
bảo hiểm trở về vị trí tài chính mà lẽ ra người đó sẽ phải có nếu như tổn thất không xảy
ra.
Để xác định số tiền thiệt hại lợi nhuận gộp, công thức sau thường được sử dụng:
Tỉ lệ lợi nhuận gộp =
lợi nhuận được đảm bảo
Tổng giá trị các tài khoản thu nhập liên
quan đến hoạt động của doanh nghiệp
Thiệt hại doanh thu
thực tế =
doanh thu lẽ ra được thực
hiện -
doanh thu thực tế được thực
hiện
Thiệt hại lợi nhuận gộp = thiệt hại doanh thu thực tế x tỉ lệ lợi nhuận gộp
Thiệt hại lợi nhuận gộp cho phép ta xác định được số tiền bồi thường tối đa, nhưng
phải trừ đi mức miễn thường (thường được tính bằng ngày trong bảo hiểm thiệt hại kinh
doanh). "Giả định, mỗi đơn vị doanh thu bao gồm 0,6 đơn vị là chi phí mua nguyên vật
liệu và các chi phí biến đổi khác, 0,3 đơn vị là chi phi cố định, 0,1 đơn vị là lợi nhuận
ròng. Tuy nhiên, khi xảy ra tổn thất làm gián đoạn kinh doanh thì người được bảo hiểm
sẽ không phải gánh chịu tổn thất của cả 1 đơn vị doanh thu đó mà sự giảm doanh thu
sẽ kéo theo việc giảm tương ứng chi phí biến đổi, vì vậy người bảo hiểm sẽ không chịu
16/19
trách nhiệm đối với 0,6 đơn vị chi phí mua nguyên vật liệu và các chi phí biến đổi khác
mà chỉ cần bồi thường 0,4 đơn vị chi phí cố định và lợi nhuận ròng là có thể đưa người
được bảo hiểm trở về tình trạng tài chính mà lẽ ra người đó có nếu như tổn thất không
xảy ra". [5, 61]. Do đó, số thiệt hại lợi nhuận gộp là số tiền bồi thường tối đa mà người
được bảo hiểm có thể nhận được. Tuy nhiên trên thực tế, như đã phân tích trong ví dụ
trên, thì số tiền bồi thường sẽ hiếm khi đạt được bằng số thiệt hại lợi nhuận gộp.
Yếu tố thời hạn bồi thường được đưa vào đơn bảo hiểm gián đoạn kinh doanh khác hoàn
toàn so với đơn bảo hiểm thiệt hại vật chất, thời hạn bồi thường trong bảo hiểm gián
đoạn kinh doanh được ghi rõ trong đơn bảo hiểm và phải do người được bảo hiểm tự
chọn.
17/19
Tham gia đóng góp
Tài liệu: Lý luận chung về bảo hiểm gián đoạn kinh doanh
Biên tập bởi: Đại Học Kinh Tế Quốc Dân
URL:
Giấy phép:
Module: Sự ra đời của bảo hiểm gián đoạn kinh doanh
Các tác giả: Đại Học Kinh Tế Quốc Dân
URL:
Giấy phép:
Module: Vai trò kinh tế xã hội của bảo hiểm gián đoạn kinh doanh
Các tác giả: Đại Học Kinh Tế Quốc Dân
URL:
Giấy phép:
Module: Đặc điểm của bảo hiểm gián đoạn kinh doanh
Các tác giả: Đại Học Kinh Tế Quốc Dân
URL:
Giấy phép:
Module: Nội dung cơ bản trong hợp đồng bảo hiểm nói chung và trong hợp đồng bảo
hiểm gián đoạn kinh doanh nói riêng
Các tác giả: Đại Học Kinh Tế Quốc Dân
URL:
Giấy phép:
Module: Hợp đồng bảo hiểm gián đoạn kinh doanh
Các tác giả: Đại Học Kinh Tế Quốc Dân
URL:
Giấy phép:
18/19
Chương trình Thư viện Học liệu Mở Việt Nam
Chương trình Thư viện Học liệu Mở Việt Nam (Vietnam Open Educational Resources
– VOER) được hỗ trợ bởi Quỹ Việt Nam. Mục tiêu của chương trình là xây dựng kho
Tài nguyên giáo dục Mở miễn phí của người Việt và cho người Việt, có nội dung phong
phú. Các nội dung đểu tuân thủ Giấy phép Creative Commons Attribution (CC-by) 4.0
do đó các nội dung đều có thể được sử dụng, tái sử dụng và truy nhập miễn phí trước
hết trong trong môi trường giảng dạy, học tập và nghiên cứu sau đó cho toàn xã hội.
Với sự hỗ trợ của Quỹ Việt Nam, Thư viện Học liệu Mở Việt Nam (VOER) đã trở thành
một cổng thông tin chính cho các sinh viên và giảng viên trong và ngoài Việt Nam. Mỗi
ngày có hàng chục nghìn lượt truy cập VOER (www.voer.edu.vn) để nghiên cứu, học
tập và tải tài liệu giảng dạy về. Với hàng chục nghìn module kiến thức từ hàng nghìn
tác giả khác nhau đóng góp, Thư Viện Học liệu Mở Việt Nam là một kho tàng tài liệu
khổng lồ, nội dung phong phú phục vụ cho tất cả các nhu cầu học tập, nghiên cứu của
độc giả.
Nguồn tài liệu mở phong phú có trên VOER có được là do sự chia sẻ tự nguyện của các
tác giả trong và ngoài nước. Quá trình chia sẻ tài liệu trên VOER trở lên dễ dàng như
đếm 1, 2, 3 nhờ vào sức mạnh của nền tảng Hanoi Spring.
Hanoi Spring là một nền tảng công nghệ tiên tiến được thiết kế cho phép công chúng dễ
dàng chia sẻ tài liệu giảng dạy, học tập cũng như chủ động phát triển chương trình giảng
dạy dựa trên khái niệm về học liệu mở (OCW) và tài nguyên giáo dục mở (OER) . Khái
niệm chia sẻ tri thức có tính cách mạng đã được khởi xướng và phát triển tiên phong
bởi Đại học MIT và Đại học Rice Hoa Kỳ trong vòng một thập kỷ qua. Kể từ đó, phong
trào Tài nguyên Giáo dục Mở đã phát triển nhanh chóng, được UNESCO hỗ trợ và được
chấp nhận như một chương trình chính thức ở nhiều nước trên thế giới.
19/19
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- ly_luan_chung_ve_bao_hiem_gian_doan_kinh_doanh_0748.pdf