Với bộ sách Tiếng Việt bậc Tiểu học hiện
hành chúng ta có thể thấy cấu trúc rất hợp lí.
Với chương trinh 165 tuần của cả 5 lớp. Trong
đó, 4 lớp (2,3,4,5) bao gồm 132 bài tiếng Việt
(100 bài có tên gọi từ ngữ ), chỉ có 12 bài - 12
tiết mang tính chất lí thuyết còn lại là các bài
thực hành về nhận diện từ, tìm hiểu nghĩa từ,
cấu tạo từ, tạo ngữ, hoàn chỉnh câu, đặt câu. Ở
bài báo này chúng tôi dành việc quan sát cho
hệ thống các bài tập thực hành mở rộng vốn từ
cho học sinh có liên quan tới thao tác tâm lí
ngôn ngữ học, thao tác liên tưởng từ ngữ.
Hệ thống bài tập tiếng Việt từ lớp 2 cho tới
lớp 5, đối với từng bài cụ thể, cho tới loại bài
tập ôn tập, đối với các nội dung về nghĩa của
từ, hiện tượng đồng nghĩa, trái nghĩa, nhận
diện cấu tạo từ, cách thức tạo ngữ, tạo
câu chủ yếu là loại bài trắc nghiệm. Bản chất
của loại bài trắc nghiệm ngôn ngữ luôn gắn
với các thao tác liên tưởng, bao gồm các liên
tưởng theo trục dọc (như từ từ “thời tiết” liên
hệ tới các từ trong văn bản “khí
hậu”,”bão”,”hanh”,”nồm”) hoặc trục tuyến
tính (như chọn trong các từ cho sẵn
“cú”,”khướu”,”voi”,”cắt”,”vẹt”,”quạ” để điền
vào sau cụm từ “đen như ”, “hôi
như ”,”hót như ”,”khoẻ như ”,”nói
như ”,”nhanh như ”, liên tưởng đồng
nghĩa, trái nghĩa Tuy nhiên, gần như toàn bộ
các trắc nghiệm liên tưởng này đều có định
hướng sẵn các từ kích thích, như các ví dụ đã
dẫn và số từ kích thích vì thế cũng bị hạn chế,
không được tự do mở rộng. Lẽ ra chúng ta
hoàn toàn có thể cho học sinh tự do tìm các từ
kích thích trước một từ có sẵn. Chẳng hạn khi
giải nghĩa từ “náo nức” cùng với việc đặt từ
vào ngữ cảnh “ Chúng em náo nức đón tết“,
hãy để cho các em thay từ “náo nức” bằng các
từ khác tương tự. Chắc chắn các em sẽ tìm
được các từ quen thuộc như “vui mừng”,”hớn
hở”,”tưng bừng”,”vui vẻ”, “sung sướng”.
Hoặc tìm tiếng ghép với tiếng “đỏ” để tạo
thành các từ mới. Các em học sinh lớp 5
hoàn toàn có thể tìm được các tiếng như
“au”,”đắn”,”tươi”, ”thẫm”,”đen”.
4. Kết luận
Liên tưởng từ ngữ là vấn đề không mới.
Đây cũng là vấn đề đã được nghiên cứu và
đưa vào chương trình dạy bộ môn tiếng Việt
ở bậc tiểu học. Tuy vậy, chúng ta rõ ràng
cần có nhiều dạng bài tập hơn nữa để từ các
liên tưởng này mà phát triển năng lực ngôn
ngữ của học sinh. Nếu biết vận dụng trò chơi
đuổi hình bắt chữ (từ chương trình truyền
hình Hà Nội) tốt hơn nữa chúng ta cũng có
thể tạo được một sân chơi ngôn ngữ đầy hấp
dẫn đối với các em trong việc mở rộng vốn
từ trên mọi lĩnh vực đời sống.
7 trang |
Chia sẻ: thucuc2301 | Lượt xem: 525 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Liên tưởng từ ngữ và vấn đề ứng dụng vào giảng dạy tiếng Việt ở bậc Tiểu học - Đinh Văn Thiện, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ng«n ng÷ & ®êi sèng sè 4 (198)-2012
32
Ng«n ng÷ víi v¨n ch−¬ng
Liªn t−ëng tõ ng÷ vµ vÊn ®Ò øng dông
vµo gi¶ng d¹y tiÕng ViÖt ë bËc tiÓu häc
Linguistic association and its application into the
Vietnamese teaching at elementary schools
®inh v¨n thiÖn
(ThS, §¹i häc S− ph¹m Hµ Néi)
Abstract
This article approaches the aforementioned issue by explaining the essential role that
linguistic association (a psychological process) plays in human’s emanation and usage of
language. It then reviews the history and development of the experimental linguistic-
association methodology utilized in examining the structures and meanings of words; the
various directions in which the experiment could be carried out, as well as the significance of
such examinations. The author probes into the general methods used to teach the Vietnamese
language at elementary schools, and subsequently suggests effective linguistic-association
approches in the teaching, learning and using of Vietnamese for students.
1. Đặt vấn đề
Ngữ nghĩa (có thể gọi là bình diện nội dung
của ngôn ngữ) luôn là vấn đề trung tâm trong
lịch sử nghiên cứu ngôn ngữ. Nó là điểm khởi
đầu cũng là điểm kết thúc của mọi quá trình
nghiên cứu ngôn ngữ, ngay cả ở cấp độ tưởng
chừng chỉ thuần tuý hình thức, không liên
quan gì tới nội dung, như cấp độ ngữ âm
chẳng hạn. Rõ ràng, ngữ âm, cái gọi là phần
âm thanh của ngôn ngữ, chỉ thực sự tồn tại là
một loại đơn vị của ngôn ngữ khi nó có giá trị
khu biệt. Còn nếu là một âm thanh vu vơ
chẳng có nghĩa gì thì nó không thể được coi là
một đơn vị ngôn ngữ. Hiển nhiên là như vậy!
Ngữ nghĩa, các quan điểm khác nhau về nghĩa
và mối quan hệ giữa bình diện nội dung với
bình diện hình thức của ngôn ngữ cũng là
những xuất phát điểm tạo thành những trường
phái nghiên cứu khác nhau trong ngôn ngữ
học xưa nay. Và, trong lĩnh vực ngữ nghĩa học
nói chung thì vấn đề ngữ nghĩa từ vựng có một
vị trí hết sức quan trọng vì từ là nguyên liệu
chính, nguyên liệu cơ bản xây nên lâu đài
ngôn ngữ (tất nhiên ở đây chúng ta đang bàn
về ngôn ngữ nói - viết).
Việc nghiên cứu ngữ nghĩa từ vựng vì thế
chắc chắn đã được đặt ra trước cả khi việc
nghiên cứu ngôn ngữ trở thành một ngành
khoa học-ngành ngôn ngữ học như trong các
công trình “thi pháp” cổ đại của các nhà triết
học, các nhà hùng biện học. Từng bước phát
triển, ngữ nghĩa học từ vựng đã tiếp cận từ
nhiều bình diện khác nhau đối với nghĩa của từ
để làm hiện lên các bình diện ngữ nghĩa khác
nhau của từ như biểu vật, biểu niệm, biểu thái,
liên hội, nghĩa hệ thống, nghĩa hoạt
độnghiển ngôn, hàm ngôn. Tuy nhiên còn
có một bình diện tiếp cận khác đối với nghĩa
Sè 4 (198)-2012 ng«n ng÷ & ®êi sèng
33
của từ, ngữ, mặc dù đã được quan tâm từ lâu,
từ thế kỉ IX, nhưng vẫn chưa được khai thác
đầy đủ. Đó là bình diện tiếp cận từ các hoạt
động tâm lí, từ quá trình tri nhận ngôn ngữ mà
liên tưởng là một trong những hoạt động tâm
lí của quá trình ấy. Cho nên không phải ngẫu
nhiên sự phát triển của khoa học ngôn ngữ,
việc nghiên cứu ngôn ngữ càng ngày càng
không thể tách rời tâm lí học, ngay cả ở góc độ
ngữ âm.
Nhìn từ quá trình liên tưởng từ ngữ người
ta có thể thấy ở bất kì hệ thống từ vựng nào,
kiểu định danh võ đoán cũng chỉ nằm ở một số
đơn vị hết sức cơ bản, còn phần lớn các đơn vị
định danh từ vựng đều liên quan đến quá trình
liên tưởng. Chẳng hạn, ý nghĩa định danh của
các từ “trái đất”, “mặt trời”, “chân bàn”.
Đều dựa trên cơ chế liên tưởng. Các phương
thức chuyển nghĩa của từ ngữ như “ẩn dụ”,
“hoán dụ”, “biểu trưng” hay “nhân hoá” v.v.
cũng không nằm ngoài cơ chế liên tưởng. “Ẩn
dụ” hay “ hoán dụ” chỉ là cách gọi những kết
quả mà cơ chế liên tưởng từ ngữ đem lại. Vì
thế, liên tưởng tâm lí có mối quan hệ chặt chẽ
với ý nghĩa của từ ngữ. Muốn nắm được ý
nghĩa của từ một cách tương đối toàn diện, đầy
đủ, sâu sắc người ta không chỉ sử dụng các
phương pháp phân tích thành tố, miêu tả hay
một số phương pháp có tính chất cổ điển khác
mà còn phải quan tâm tới một số phương pháp
nhiên cứu của tâm lí học gắn liền với các hoạt
động liên tưởng tâm lí trong đó tiềm ẩn các ý
nghĩa của từ ở tầng sâu, qua các thí nghiệm
liên tưởng từ ngữ.
2. Một vài vấn đề về liên tưởng từ ngữ
2.1. Lược sử hình thành và phát triển
phương pháp thí nghiệm liên tưởng từ ngữ
Thí nghiệm liên tưởng từ ngữ có nguồn gốc
từ những thủ pháp cổ nhất của tâm lí học thực
nghiệm, từ những thí nghiệm về tính tương
liên trong nghiên cứu tâm lí. Vào năm 1879,
Xer Fren xix Gal-tôn, nhà bác học người Anh
cùng người em họ của ông, Da-Uyn, là những
người đầu tiên tiến hành thực nghiệm liên
tưởng. Ông đã chọn 75 từ rồi viết mỗi từ lên
một tấm phiếu riêng và không đụng đến chúng
một vài ngày. Sau đó ông cầm từng tấm phiếu
một và xem xét chúng. Ông bấm giờ theo
đồng hồ bấm giây bắt đầu từ lúc mắt ông dừng
lại ở một từ và kết thúc lúc từ vừa được đọc
gợi lên ở ông hai ý nghĩa khác nhau. Ông ghi
lại hai ý nghĩa đó đối với mỗi từ trong bảng.
Tuy nhiên ông đã từ chối việc công bố kết quả
này. Ông chỉ nói “ Chúng bộc lộ bản chất tư
duy con người với một sự rõ ràng đến kì lạ và
cũng mở toang hết cái kết cấu tư duy một cách
thật sinh động và đáng tin cậy, mà ta vị tất đã
giữ lại được, nếu đem công bố chúng và biến
chúng thành thành tựu của thế giới (Đzordz
Miller - ngôn ngữ và giao tiếp - 1951. Dẫn
theo Xlobin và Grin trong “Ngôn ngữ học tâm
lí” trang 139 bản tiếng Nga, nhà xuất bản
“Tiến bộ”, Matcovava. 1976).
Đã có cả một kho tư liệu về những công
trình thí nghiệm liên tưởng từ ngữ của các nhà
tâm lí, các nhà ngôn ngữ trong suốt một thế kỉ
qua. Trước hết, phải kể đến Tumb và Mapbe
với chuyên khảo “Thí nghiệm liên tưởng tâm
lí học” (Lei peig, 1901) mà đến nay vẫn còn
có ý nghĩa tích cực. Sự kiện quan trọng tiếp
theo là sự ra đời của cuốn “Từ điển chuẩn liên
tưởng” đầu tiên của G.H. Kent và A.J
Rosanoff bao gồm 100 từ đặc biệt, do các tác
giả lựa chọn. " Từ điển chuẩn liên tưởng” của
Kent và Rosanoff được xây dựng trên cơ sở
các thí nghiệm liên tưởng tự do bao gồm 1000
nghiệm viên là người lớn tuổi và với 100 từ
kích thích. Từ điển này đã gợi ý cho sự ra đời
hàng loạt từ điển liên tưởng không chỉ trên tư
liệu tiếng Anh mà còn bằng tư liệu tiếng Pháp,
Đức, Ba Lan, Tiệp, Hà Lan, Kiêc-ghi-di,
Kazaxtan, Udơbekixtan, Belorut, (Dẫn theo
Leonchép A.A. trong cuốn “Từ điển chuẩn
liên tưởng tiếng Nga” Nxb , Matxcơva, 1977).
Cuốn “Từ điển chuẩn liên tưởng tiếng Nga”
của Leonchep có một quy mô lớn hơn, bao
gồm 196 từ kích thích, thường được tiến hành
trên 600 đến 700 nghiệm viên thuộc lứa tuổi từ
16 đến 50 với rất nhiều nghề nghiệp khác
nhau, trình độ học vấn đang học đại học hoặc
ng«n ng÷ & ®êi sèng sè 4 (198)-2012
34
đã tốt nghiệp đại học. Cuốn từ điển này có thể
coi là một nguồn tư liệu vô cùng giá trị đối với
các nhà ngôn ngữ học, tâm lí học, ngôn ngữ
học tâm lí, thậm chí đối với cả các nhà ngôn
ngữ học xã hộiTiếp đó, có thể kể đến một số
công trình tiêu biểu như: “ Các nguyên tắc
Minesota hoàn chỉnh các câu trả lời đối với
100 từ, từ thí nghiệm liên tưởng của Kent và
Rasonoff (W.A. Russell và J.J. Jenkins, 1954),
“Phương pháp đo đạc ngữ nghĩa” (của C,
Osgood, 1957), “Sự tập trung liên tưởng trong
trí nhớ của các từ ở các tần số xuất hiện khác
nhau” (của W.A.Bousfield. B.U. Cohen và
G.A.Whitmarch, 1958), “Sự liên tưởng từ và
tiếp nhận ngữ pháp trong sự phát triển của trẻ
em” (R. Brown và J. Berko, 1960), “Sự biến
đổi theo lứa tuổi trong các yếu tố xác định của
sự liên tưởng từ” (của S.M Ervin, 1961). “Cấu
trúc của ý nghĩa liên tưởng” (của Dzeimx Dix,
1962). “Cấu trúc liên tưởng trong ngôn ngữ và
tư duy (của Dzeimx Dix, 1965), “Sự ảnh
hưởng của thói quen liên tưởng vào ngữ pháp
trong việc học từ” (của Sh. Rosenberg, 1965),
và rất nhiều công trình có ý nghĩa lí thuyết, giá
trị ứng dụng của các tác giả như D.X.
Palermo, A.A. Leonchep, Steinphelgt, A.P.
Baxilevir v.v.
Ở Việt Nam công trình đầu tiên về vấn đề
thí nghiệm liên tưởng từ ngữ là bài báo “Thí
nghiệm liên tưởng tự do và những liên hệ ngữ
nghĩa giữa các từ trong hệ thống tiếng Việt”
(Đỗ Hữu Châu, Tạp chí Ngôn ngữ số 01,
1977, Hà Nội). Bài báo đã từ những thực
nghiệm liên tưởng mà đề xuất nhiều vấn đề có
tính chất lí thuyết về việc nghiên cứu ý nghĩa
của từ.
2.2. Các hướng tiến hành thí nghiệm liên
tưởng từ ngữ
Người ta có thể tiến hành thí nghiệm liên
tưởng từ ngữ theo hai hướng: Liên tưởng tự do
và liên tưởng có định hướng trước. Người tiến
hành thí nghiệm có thể trao cho nghiệm viên
(những người tham gia trong thí nghiệm này)
từ kích thích do người làm thí nghiệm chọn,
giao từng từ hoặc giao toàn bộ từ được chọn.
Nghiệm viên theo yêu cầu của người làm thí
nghiệm có thể tự do chọn một từ phản ứng đầu
tiên hoặc có thể viết tất cả những từ mà
nghiệm viên liên tưởng tới, từ cái từ kích thích
đã cho. Với thí nghiệm liên tưởng định hướng
cũng có thể có nhiều cách thức tuỳ theo yêu
cầu của thí nghiệm như điền từ vào trước hoặc
ngay sau từ kích thích. Ví dụ: mưa,nắng,
hoặc cho sẵn mẫu so sánh, nghiệm viên điền
từ so sánh vào tiếp theo ví dụ: Nắng như,
mưa như.hoặc có thể nghiệm viên được cho
sẵn một bảng từ phản ứng , nghiệm viên chỉ
việc chọn ra một từ trong bảng cho trước ấy để
trả lời vào từ kích thích.
Cả hai hướng liên tưởng này đều có thể
khai thác tốt hai kiểu liên tưởng thường dùng.
Đó là kiểu liên tưởng theo trục trực tuyến, trục
“dọc” và liên tưởng theo trục tuyến tính, trục
“ngang”.
2.2. Ý nghĩa quan trọng của phương pháp
nghiên cứu nghĩa của từ bằng thí nghiệm liên
tưởng
2.3.1. Thí nghiệm liên tưởng không phải
chỉ có tác dụng bộc lộ bản chất tư duy của con
người và mở toang cái kết cấu của tư duy một
cách thật sinh động, đáng tin cậy như Galton
nói, mà còn cho thấy mối quan hệ hết sức chặt
chẽ giữa ngôn ngữ với văn hoá, đặc tính dân
tộc, các đặc trưng quan hệ xã hội của cộng
đồng ngôn ngữ ấy. Thậm chí cả các yếu tố
ngoại lai xâm nhập vào các bình diện trên của
cộng đồng ngôn ngữ và vào chính hệ thống
ngôn ngữ đó.
2.3.2. Thí nghiệm liên tưởng nhìn từ trục
trực tuyến, trục “dọc”
Trục “dọc” là trục bao gồm những từ phản
ứng mà ý nghĩa biểu vật của chúng thường
nằm trong cùng một trường biểu vật với từ
kích thích.
Thí nghiệm liên tưởng quan tâm tới cả các
từ phản ứng và cả tần số của chúng.
Tần số đóng một vai trò rất quan trọng, nó
cho thấy sự tập trung hay phân tán hướng liên
tưởng của từ kích thích. Có thể thấy sự liên
tưởng từ ngữ bao giờ cũng chịu sự chi phối ít
Sè 4 (198)-2012 ng«n ng÷ & ®êi sèng
35
nhất là của 2 cơ chế: cơ chế ngữ nghĩa của từ
và cơ chế của hoạt động tâm lí . Hình thành
liên tưởng bao giờ cũng phải từ một tự kích
thích nào đó của từ mà trước hết là ý nghĩa.
Mà, một từ có thể có nhiều nghĩa, một nét
nghĩa lại có thể gợi ra ít nhất một liên tưởng
nào đó. Vì thế, trong một thí nghiệm liên
tưởng, với một từ kích thích mà các từ phản
ứng càng có độ tập trung lớn thì khả năng tiềm
ẩn về nghĩa ở từ kích thích càng thấp. Cho nên
có những từ là đồng nghĩa với nhau mà cũng
xuất hiện rất hạn chế trong cặp tư kích thích -
phản ứng lẫn nhau. Ví dụ: “xvet (với nghĩa là
thế giới, trái đất) trong tiếng Nga qua thí
nghiệm liên tưởng của Leônchep cho thấy từ
phản ứng “xvesenhie” có tần số cao hơn hẳn
so với từ “mir” (cũng với nghĩa thế giới). Đó
là do nét nghĩa “mir” ở từ “xvet” đã trở nên cũ,
nên nó chỉ gợi ra phần lớn các liên tưởng tới
các từ chỉ sự chiếu sáng, từ một từ đồng âm
“xvet” với nghĩa là chiếu sáng.
Như vậy, trong một từ nhiều nghĩa, những
ý nghĩa nào càng gắn với tâm của vòng tròn ý
nghĩa của từ thì càng gợi ra những liên tưởng
có độ tập trung tập lớn. Còn những ý nghĩa
nào càng gần với biên thì càng có tần số liên
tưởng thấp hơn và phân tán. Nhất là các ý
nghĩa chuyển đổi. Ví dụ, trước một từ kích
thích là từ “ bão” mà chúng tôi đã tiến hành thí
nghiệm, chẳng hạn, trong 37 từ phản ứng thì
34 từ thuộc nhóm chỉ khí tượng vì đó là nét
nghĩa cơ bản cuả từ này. Chỉ có 3 từ chỉ các
hiện tượng khác như “bão tố” (trong lòng),
“tình cảm” (ào ạt), “sức mạnh” (ghê gớm),
trong đó ý nghĩa “sức mạnh ghê gớm” thực ra
cũng là ý nghĩa ít nhiều gắn với nét nghĩa chỉ
cường độ của gió trong từ “bão”. Trong khi đó
nhìn vào kết quả thí nghiệm liên tưởng đối với
cả nhóm từ chỉ hiện tượng khí tượng đã có tới
50% số từ phản ứng thuộc nhóm từ chỉ người,
với nhiều đặc điểm khác nhau như tính cách,
tính tình, trí tuệ, quan hệ xã hộichứng tỏ cái
ngoại diện của ý nghĩa ở từ “bão” rất hạn chế.
Trong một từ nhiều nghĩa, các nét nghĩa
khác nhau lại tạo nên những nhóm từ phản
ứng khác nhau, tuỳ theo ý nghĩa nào đó của từ
kích thích có là cơ bản hay không mà số lượng
từ phản ứng nhiều hay ít. Ví dụ. trong “Từ
điển chuẩn liên tưởng tiếng Anh” của Kent và
Rosanoff thì từ kích thích “cái ghế”, với ý
nghĩa đồ dùng, đã gợi ra 191 lần từ “bàn”, 127
lần, từ “ghế” nói chung, 38 lần từ “ghế đẩu”,
83 lần từ “đồ đạc”. Như vậy có tới 450 lần gợi
ra ý nghĩa đồ dùng của từ “cái ghế”, trong khi
đó có tới 164 lần gợi liên tưởng tới các từ chỉ
công dụng của loại đồ vật này như động từ “
ngồi” (108 lần), danh từ “sự ngồi” (56 lần), ý
nghĩa chỉ chất liệu 49 lần với từ “gỗ”chỉ có
hai trưởng hợp liên tưởng tới đặc điểm cụ thể
là “gẫy”.
Tóm lại, độ tập trung hay phân tán của các
từ phản ứng phản ánh khá rõ ràng cơ cấu
nghĩa của các từ nhiều nghĩa (có thể thấy cấu
trúc nghĩa của từ hiển nhiên là một điều có
thật!). Ở đây chúng tôi chỉ nêu mà chưa có
điều kiện đi sâu vào phân tích những ví dụ về
liên tưởng ngược nghĩa như: “ẩm” - “khô”,
“đen” - “trắng”, “mưa” - “nắng” những liên
tưởng tượng tự, liên tưởng đồng thuộc, liên
tưởng phụ thuộc, liên tưởng bổ sung, liên
tưởng tổng thể - bộ phận, những liên tưởng bởi
các từ có cùng gốc cấu tạo liên quan tới kiểu
liên tưởng theo trục tuyến tính (như bão tố,
bão bùng, bão táp) mà chúng tôi đã phân
loại khi xử lí kết quả của thực nghiệm liên
tưởng từ ngữ.
Về hiện tượng kéo theo và sự tiềm ẩn khả
năng làm xuất hiện những ý nghĩa bất ngờ của
từ, nhất là trong ngôn ngữ văn học .
Với một thí nghiệm liên tưởng tự do còn
phải hết sức chú ý tới hiện tượng liên tưởng
kéo theo. Trong một loạt những từ phản ứng
trước một từ, có nhiều từ là phản ứng trực tiếp
với từ kích thích, như với từ “ thổi” có các từ
“gió”, “cơn gió”, “vất bỏ”, “nhanh” nhưng còn
các từ “du dương”, “mát mẻ”, “ồn ào” có thể
là phản ứng kéo theo của các từ phản ứng
“gió” hoặc “cơn gió”. Có hiện tượng kéo theo
này là do từ “thổi” (từ kích thích) gợi liên
tưởng tới từ “cơn gió”, “gió”. Sau đó, chính từ
ng«n ng÷ & ®êi sèng sè 4 (198)-2012
36
“gió”, “cơn gió” lại trở thành từ kích thích
một cách hoàn toàn tự nhiện để gợi ra các từ
phản ứng khác. Hiện tượng này cho thấy, khi
xét độ tập trung hay phân tán của liên tưởng ở
một từ kích thích nào đó không thể đơn giản
chỉ xác định số lượng từ phản ứng nằm trong
bao nhiêu trường biểu vật, biểu niệm khác
nhau là đủ mà còn phải quan tâm tới hiện
tượng liên tượng kéo theo. Những từ ngữ
xuất hiện từ những phản ứng kéo theo này
thường thấy trong ngôn ngữ văn học, như
một kết quả của trí tưởng tượng phong phú,
mạnh mẽ của nhà văn .
2.3.3. Thí nghiệm liên tưởng nhìn từ trục
tuyến tính, trục “ngang”
Trục tuyến tính là trục bao gồm các từ
phản ứng thường nằm trong một chu cảnh với
từ kich thích, thường xuất hiện trước hoặc sau
từ kích thích.
Trên trục tuyến tính, qua thí nghiệm, có
thể thấy ý nghĩa của từ chi phối rất mạnh tới
khả năng kết hợp của từ với các từ khác.
Không nắm được nghĩa của một từ nào đó
không thể hình thành một cách chuẩn xác bất
kì một đoạn lời nói nào mà có sự tham gia
của từ đó. Qua các từ phản ứng ta hiểu được
rằng từ các liên tưởng cho thấy chúng ta hoàn
toàn có thể nhận thức được một cách rõ ràng
những ý nghĩa rất tinh tế tiềm ẩn trong một
từ kích thích cụ thể nào đóVí dụ, với từ
“ăn” ta có các từ phản ứng như “cơm”, “ảnh”,
quân “pháo”, “ý”, “tiền”, “nhau”, “ra”, “vào”
hoặc “sơn” ăn, “nước” ăn,Mỗi từ phản ứng
có thể cho ta thấy tiềm ẩn trong nhận thức
của mình những ý nghĩa, nhiều khi rất bất
ngờ, của từ.
Thí nghiệm liên tưởng ở chiều tuyến tính
còn có thể giúp phát hiện mối quan hệ cú
pháp giữa từ kích thích với từ phản ứng hết
sức thú vị. Ví dụ, từ kích thích “mưa” có các
từ phản ứng: “rơi”, “xối”, “tạt”với từ kích
thích “bò”(con bò) có các từ phản ứng: “cày”,
“kéo” xe, “béo”, “già”.
2.3.4. Những liên tưởng gắn liền với âm
thanh của từ
Những liên tưởng gợi ra những mối quan
hệ âm thanh có thể tạo thành các từ phản ứng
gần âm, đồng âm. Ví dụ, từ kích thích “xvet”
(chiếu sáng) tạo ra từ phản ứng “xvet” (quả
đất, địa cầu). Nhưng những liên tưởng có tính
đồng âm này thường không có hiện tượng liên
tưởng kéo theo. Ví dụ, với từ “vratr” (bác sĩ)
có thế gợi ra từ “doktor” và các từ chỉ hoạt
động y tế, dụng cụ ý tế khác. Nhưng nếu từ
kích thích “doktor” gợi ra từ phản ứng
“diktor” (gần âm) với nghĩa phát thanh viên
thì quá trình liên tưởng cơ hồ bị dừng lại ở đó
không tiếp tục được.
Theo các nhà ngôn ngữ học tâm lí Xô Viết
(cũ), những liên tưởng đồng âm thường thấy ở
trẻ em nhiều hơn, vì đó phần lớn là những
phản xạ có điều kiện, điều kiện âm thanh, ít
khi bởi ý nghĩa của từ. Với người lớn, những
lúc mệt, ốm hoặc bị ma tuý đè nặng lên hoạt
động của trung tâm vỏ não cũng có hiện tượng
tương tự, thường phản ứng với các từ giống
nhau về âm thanh mà không từ ý nghĩa của từ.
Một số kiểu nói, cũng không phải chỉ của
riêng lớp trẻ, hiện nay, có lẽ cũng có nguồn
gốc từ những liên tưởng bởi những từ gần âm
như vậy: “nhỏ” như con “thỏ”, cò “lả” rồi, Hà
“đông” lắm , cà “cuống” thế, sát “thủ” đầu
mưng “mủ”, “bu bu chi” (bu-mẹ cho tiền), cha
cha chi (cha cho tiền), nghe cứ như tiếng
Hàn
3. Thí nghiệm liên tưởng và một số thủ
pháp trong giảng dạy ngôn ngữ ở nhà
trường phổ thông
Thí nghiệm liên tưởng có thể gợi ra nhiều
vấn đề về các thủ pháp dạy từ cho học sinh, kể
từ học sinh mẫu giáo, tiểu học trở lên, như
công trình của Rosenberg (1965) đã nói tới và
trong các sách giáo khoa cũng như sách bài
tập tiếng Việt bậc tiểu học đang hiện hành của
Nhà xuất bản Giáo dục cũng như các sách bổ
trợ môn Tiếng Việt của các nhà xuất bản khác.
Với việc dạy câu, thí nghiệm liên tưởng cũng
có thể góp phần tích cực, đặc biệt ở những thí
nghiệm liên tưởng định hướng với chiều tuyến
tính. Ngay cả thủ pháp trắc nghiệm trong
Sè 4 (198)-2012 ng«n ng÷ & ®êi sèng
37
giảng dạy ngôn ngữ, về bản chất cũng xuất
pháp từ đặc điểm liên tưởng từ ngữ trong tư
duy của con người. Vì thế, khi tiến hành trắc
nghiệm không thể không quan tâm tới đặc
điểm của quá trình liên tưởngHoặc các trò
chơi ngôn ngữ trong các cuốn “ Chơi mà học
Tiếng Việt “ hay việc dạy vẽ cho học sinh cấp
I, IIđều sử dụng các thao tác liên tưởng
ngôn ngữ để giúp cho học sinh mở rộng vốn từ
, xây dựng các tổ chức cụm từ , hình thành các
kiểu câu cơ bản, đơn giản nhất. Từ đó đi đến
việc dùng từ tinh tế, viết văn hay, nói năng
chuẩn mực. Đây là những vấn đề hết sức khoa
học và không kém phần hấp dẫn, thú vị và có
dịp chúng ta bàn luận sâu hơn. Ở đây chúng
tôi chỉ mới nêu một số nhận xét ban đầu về
việc giảng dạy tiếng Việt ở bậc giáo dục Tiểu
học, như một tham khảo mang tính gợi mở
liên quan tới vấn đề mà bài báo đang bàn, vấn
đề liên tưởng từ ngữ.
Xác định việc giảng dạy từ ngữ là công
việc trọng tâm của quá trình giảng dạy tiếng
Việt để từ đó dạy từ, dạy câu, dạy đoạn văn,
dạy văn bản cho học sinh nên bộ môn ngữ văn
ở bậc tiểu học gọi là bộ môn Tiếng Việt sách
dạy ngữ văn gọi là sách Tiếng Việt. Và, sách
Tiếng Việt chú trọng trước hết đến việc dạy
từ. Từ các văn bản tích hợp, Tiếng Việt bậc
tiểu học (ngoại trừ lớp 1 chưa có bài từ ngữ
riêng mà học lồng vào các phân môn khác) ở
chương trình 165 tiết, đã cung cấp và mở rộng
vốn từ, qua phần bài tập và sách bài tập, ước
chừng 1020 từ cơ bản, trên 71 đơn vị chủ đề,
với các nguyên tắc thiết yếu như nguyên tắc
đồng bộ, nguyên tắc thực hành, nguyên tắc
trực quan, nguyên tắc tính đến đặc điểm của từ
trong hệ thống ngôn ngữ (cũng có thể gọi là
nguyên tắc hệ thống). Có lẽ cần nhấn mạnh
thêm một nguyên tắc ngoài ngôn ngữ nữa,
nhất là đối với công việc dạy-học ngôn ngữ,
đối tượng là học sinh, một đối tượng ngày nay
được coi là chủ thể là trung tâm của quá trình
dạy học trong nhà trường. Đó là nguyên tắc
phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của
học sinh. Đơn giản chỉ là vì, đó vừa là nguyên
tắc chung của quá trình dạy học lại vừa là
nguyên tắc rất đặc thù của việc dạy - học ngôn
ngữ cho người bản ngữ. Dù là trẻ em thì trước
khi học ngôn ngữ, vốn hiểu biết về ngôn ngữ
của các em cũng không phải là số không. Việc
học ngôn ngữ cũng không phải chỉ diễn ra trên
lớp, từ giáo viên, từ giờ học tiếng Việt. Tiếng
Việt như bầu không khí bao trùm cuộc sống
các em, nói không quá rằng, cả trong giấc ngủ
của các em nữa! Các em tiếp nhận tiếng Việt
như hít thở khí trời vậy. Ai cũng biết, không
phải thắc mắc nào về ngôn ngữ của các em,
người lớn và thầy cô giáo cũng giải thích đúng
và giải thích ngay được. Cho dù còn ngây thơ
thì những thắc mắc ấy cũng cho chúng ta thấy
một điều rằng, với người bản ngữ tiếng nói tự
nó dần ngấm vào máu thịt, không đợi đến khi
học ngôn ngữ. Hoàn toàn có thể để học sinh,
từ sự gợi mở của giáo viên, tự đến với ngôn
ngữ, tìm tòi, sáng tạo, làm giàu vốn ngôn ngữ
của chính mình, sau nữa là làm giàu và hiện
đại hoá ngôn ngữ mẹ đẻ. Cái gọi là “ngôn ngữ
mạng” hiện nay phần lớn do thế hệ 9X và trẻ
hơn nữa tạo nên đấy thôi! Mà, trước hết, đó là
vốn từ và cùng với vốn từ là cách thức sử dụng
chúng. Chúng ta chẳng đã có một “ nhà văn
nhí “ viết tiểu thuyết khi mới 10 tuổi. Tập 1
với trên 200 trang sách của bộ tiẻu thuyết viễn
tưởng này đã được xuất bản mới đây, được
nhiều nhà văn, nhà phê bình khen ngợi đó sao?
Nói tới tiểu thuyết là nói tới một thể loại văn
học, trước hết, có dung lượng ngôn ngữ lớn.
Người viết tiểu thuyết phải là người có vốn
ngôn từ hết sức phong phú, hiểu biết ngôn từ
tương đối thấu đáo, trí tưởng tượng bằng ngôn
từ phải thật mạnh mẽ. Liên tưởng ngôn ngữ,
phải nói, sẽ góp phần quan trọng vào quá trình
sáng tạo ngôn từ này. Vậy mà một em bé đang
học lớp 4 đã có được những năng lực ngôn
ngữ như thế. Lẽ nào đó không phải là quá trình
tự tìm đến ngôn ngữ để tự sáng tạo của các
em. Cho nên, thiết kế mỗi bài học của sách
giáo khoa, mỗi bài giảng trên lớp, mỗi giờ
thực hành tiếng, phải sao cho phát huy được
cao nhất tiềm năng ngôn ngữ của học sinh,
ng«n ng÷ & ®êi sèng sè 4 (198)-2012
38
khơi mở được rộng nhất không gian liên tưởng
ngôn ngữ của mỗi cá thể tư duy. Có như thế
giờ học tiếng trong nhà trường mới không khô
khan, nhàm chán, có ý nghĩa thiết thực, bổ ích.
Với bộ sách Tiếng Việt bậc Tiểu học hiện
hành chúng ta có thể thấy cấu trúc rất hợp lí.
Với chương trinh 165 tuần của cả 5 lớp. Trong
đó, 4 lớp (2,3,4,5) bao gồm 132 bài tiếng Việt
(100 bài có tên gọi từ ngữ ), chỉ có 12 bài - 12
tiết mang tính chất lí thuyết còn lại là các bài
thực hành về nhận diện từ, tìm hiểu nghĩa từ,
cấu tạo từ, tạo ngữ, hoàn chỉnh câu, đặt câu. Ở
bài báo này chúng tôi dành việc quan sát cho
hệ thống các bài tập thực hành mở rộng vốn từ
cho học sinh có liên quan tới thao tác tâm lí
ngôn ngữ học, thao tác liên tưởng từ ngữ.
Hệ thống bài tập tiếng Việt từ lớp 2 cho tới
lớp 5, đối với từng bài cụ thể, cho tới loại bài
tập ôn tập, đối với các nội dung về nghĩa của
từ, hiện tượng đồng nghĩa, trái nghĩa, nhận
diện cấu tạo từ, cách thức tạo ngữ, tạo
câuchủ yếu là loại bài trắc nghiệm. Bản chất
của loại bài trắc nghiệm ngôn ngữ luôn gắn
với các thao tác liên tưởng, bao gồm các liên
tưởng theo trục dọc (như từ từ “thời tiết” liên
hệ tới các từ trong văn bản “khí
hậu”,”bão”,”hanh”,”nồm”) hoặc trục tuyến
tính (như chọn trong các từ cho sẵn
“cú”,”khướu”,”voi”,”cắt”,”vẹt”,”quạ” để điền
vào sau cụm từ “đen như”, “hôi
như”,”hót như”,”khoẻ như”,”nói
như”,”nhanh như”, liên tưởng đồng
nghĩa, trái nghĩaTuy nhiên, gần như toàn bộ
các trắc nghiệm liên tưởng này đều có định
hướng sẵn các từ kích thích, như các ví dụ đã
dẫn và số từ kích thích vì thế cũng bị hạn chế,
không được tự do mở rộng. Lẽ ra chúng ta
hoàn toàn có thể cho học sinh tự do tìm các từ
kích thích trước một từ có sẵn. Chẳng hạn khi
giải nghĩa từ “náo nức” cùng với việc đặt từ
vào ngữ cảnh “ Chúng em náo nức đón tết“,
hãy để cho các em thay từ “náo nức” bằng các
từ khác tương tự. Chắc chắn các em sẽ tìm
được các từ quen thuộc như “vui mừng”,”hớn
hở”,”tưng bừng”,”vui vẻ”, “sung sướng”.
Hoặc tìm tiếng ghép với tiếng “đỏ” để tạo
thành các từ mới. Các em học sinh lớp 5
hoàn toàn có thể tìm được các tiếng như
“au”,”đắn”,”tươi”, ”thẫm”,”đen”.
4. Kết luận
Liên tưởng từ ngữ là vấn đề không mới.
Đây cũng là vấn đề đã được nghiên cứu và
đưa vào chương trình dạy bộ môn tiếng Việt
ở bậc tiểu học. Tuy vậy, chúng ta rõ ràng
cần có nhiều dạng bài tập hơn nữa để từ các
liên tưởng này mà phát triển năng lực ngôn
ngữ của học sinh. Nếu biết vận dụng trò chơi
đuổi hình bắt chữ (từ chương trình truyền
hình Hà Nội) tốt hơn nữa chúng ta cũng có
thể tạo được một sân chơi ngôn ngữ đầy hấp
dẫn đối với các em trong việc mở rộng vốn
từ trên mọi lĩnh vực đời sống.
Tài liệu tham khảo
1. Đỗ Hữu Châu (1998), Cơ sở ngữ nghĩa
học từ vựng. NXBGD, HN.
2. Đinh Văn Thiện, Thí nghiệm liên tưởng
và vấn đề nghiên cứu ý nghĩa của từ. Kỉ yếu
Hội thảo khoa học "Ngữ dụng học" Lần thứ
nhất, Hà Nội 4-1999, Trường ĐHNN,
GHQGHN, Hội Ngôn ngữ học Việt Nam.
3. Đỗ Hữu Châu (1977), Thí nghiệm liên
tưởng tự do và những liên hệ ngữ nghĩa giữa
các từ trong hệ thống tiếng Việt. TCNN số 1.
4. Lê Phương Nga-Nguyễn Trí (2004),
Phương pháp dạy học tiếng Việt 2. NXB
ĐHSP,HN.
5. L.X.Vưgoxtki (1995),(Bản tiếng Việt), Tâm
lí học nghệ thuật, NXB KHXH-Trường Viết
văn Nguyễn Du, HN.
6. Chu Quang Tiềm (1991), (Bản tiếng
Việt), Tâm lí văn nghệ mĩ học hiện đại,
NXBTP.HCM.
7. A.A Lêonchep (1976), (Bản tiếng Nga),
Từ điển chuẩn liên tưởng tiếng Nga, NXB TH
Mockva.
8. Từ điển ngữ nghĩa tiếng Nga. (Bản tiếng
Nga), Viện Hàn lâm khoa học Liên Xô (cũ),
NXB Khoa học, Mockva, 1982.
(Ban Biªn tËp nhËn bµi ngµy 10-01-2012)
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 16413_56575_1_pb_6196_2042330.pdf